IV. Nghệ
Thuật Sống Đẹp
Mà
Không Vướng Mắc
Khi
một số ngoại đạo ca ngợi về giớí đức và thần thông của Bụt cùng các vị thánh đệ
tử của ngài, Đức Phật nói: tất cả những thứ đó chỉ thuộc về nghệ thuật bậc
thấp. Trong giáo pháp mà Như Lai khai mở có những nghệ thuật sống cao đẹp hơn
nhiều.[i]
Ngài ám chỉ đến một loại nghệ thuật cao thượng giúp người ta đoạn giảm tham,
sân, si. Trong bài viết này SC sẽ đề cập đến một loại hình nghệ thuật được Bụt
ca ngợi và khuyến khích tất cả chúng ta thực hành. Trong tiếng Phạn, nó có tên
là “Ariya-iddhi” – Noble miracles or
the miracle of the nobles:
Phép
lạ cao thượng là gì? Trong (giáo pháp) này, hành giả nếu ước muốn: “ta có thể
an trú/ quán xét đối tượng thiếu khả ái với tâm niệm là không đáng chối bỏ,”
rồi an trú trong đó với ý tưởng là không ghê tởm. Nếu hành giả mong muốn: “ta
có thể an trú vào đối tượng khả ái với tâm niệm là không khả ái”, rồi an trú
trong đó với ý tưởng là đáng ghê sợ. nếu hành giả ước mong rằng: “ta có thể an
trú vào đối tượng khả ái lẫn không khả ái với tâm niệm là chúng đáng ghê sợ”,
rồi an trú với ý tưởng ghê sợ. Nếu hành giả mong ước rằng: “đối với cả hai đối
tượng trên, để ngăn ngừa (tham đắm hay ghê tởm), ta có thể quán xét chúng với
chánh niệm, tỉnh giác và tâm xả”, rồi hành giả an trú vào đó với tâm chánh niệm
tỉnh giác đi kèm với xả. [Patisampidamagga ii, phẩm tuệ, bàn về phép lạ]
Thường
thì chữ ‘iddhi’ được dịch là ‘thần
thông’ như đi trên lửa, đi trên nước, chui vào lòng đất, bay trên không trung
(nhanh hơn tốc độ ánh sáng!), hay biến đá cuội, cỏ rác thành vàng, niệm chú
thuật để sai khiến người hay vật, vv và vân vân. Chúng ta cũng có thể gọi những
thứ thần thông (hay chú thuật) này là khoa học hay nghệ thuật.
Một lần, khi Bụt và các đệ tử của ngài đến Nalanda, một
thị trấn sầm uất thời đó ở Đông-Bắc Ấn, một công dân trong thị trấn này đề nghị
Bụt ra lệnh cho các đại đệ tử của ngài thi triển thần thông để thu phục tín đồ
nhưng Đức Phật của chúng ta đã từ chối. Cũng nhân cơ hội này ngài dạy rằng:
trong ba thứ thần thông được biết đến thời bấy giờ như iddhipada (đã liệt kê ở
trên), đọc biết tâm tư người khác (telepathy) và thần thông của sự chuyển hoá
do giáo dục, Như Lai chỉ khuyến khích loại thứ ba.[ii]
Loại
thần thông thứ ba, hay trong trường hợp này, thần dược thì chính xác hơn, là:
‘hãy quán niệm/ nghĩ tưởng như thế này, đừng quán niệm/ nghĩ tưởng như thế
kia…’ chính là nghệ thuật giáo dục và chuyển hoá tâm tính của con người hướng
đến một cuộc sống cao đẹp hơn. Nghệ thuật giáo dục và chuyển hoá này được tổng
hợp dưới ba tiêu đề là Giới, Định và Tuệ. Có ba giai đoạn trong việc thành tựu
loại thần thông này. Học hỏi (pariyatti),
thực hành (patipatti) và thấu suốt chân lý đó (pativedha).
Tại
sao SC lại gọi là thần dược? Vì Bụt cũng được gọi là vị lương y vĩ đại nhất,
những bài pháp mà ngài giảng dạy chính là những đơn thuốc được kê ra tuỳ bệnh
của chúng sanh, sự thực hành theo lời chỉ dạy chính là uống thuốc, và vui hưởng
trạng thái khoẻ mạnh vô bệnh tật bức bách chính là giải thoát. Thuốc mà Bụt cho
chúng ta không phải là những thứ thuốc chỉ có công dụng giảm đau hay ru ngủ như
nhiều người đã lầm tưởng. Thuốc của Bụt cho là thần dược vì nếu chúng được thực
hành đúng đắn sẽ có công năng loại trừ mầm mống nguyên nhân của bệnh, khiến
bệnh không bao giờ phát khởi trong tương lai, chúng cũng có công năng ngay lập
tức (akalika dhamma). Thuốc này rõ
ràng là không chỉ chữa chạy hay xoa dịu triệu chứng. Trong ngữ cảnh này chúng
ta có thể thấy rõ rằng câu nói ‘Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng” không
thể áp dụng cho Đạo Phật.
Nghệ
thuật sống đẹp được giảng trong nhiều bài pháp từ thấp đến cao, từ dễ đến khó
dưới nhiều tiêu đề khác nhau như bố thí, trì giới, thiền tập, kính trọng những
người đáng kính, giúp đỡ người khác làm việc tốt, nghe pháp, hoan hỷ với sự
thành công của người khác, chia sẻ phước báu đã làm với người khác, nói pháp,
tự chỉnh đốn quan kiến. Mười điều này được gọi là kusala kamma patha, con
đường thành tựu thiện nghiệp. Tiêu đề này cho thấy đây là những hành động tích
cực và hữu ích cho chính bản thân người thực hành chúng cũng như cho gia đình
và xã hội. Ngoài ra còn có mười thiện nghiệp bao hàm trong việc giữ giới như
không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm (thân thiện nghiệp); không nói
dối, không nói hai lưỡi đâm thọc gây chia rẽ, không cường điệu bép xép, không
nói lời khiến tổn thương như chửi bới mắng nhiếc (khẩu thiện nghiệp); không
tham lam, không giận dữ, không ngu ngốc (ý thiện nghiệp). Mười thiện nghiệp này
cũng có tên là những thành tựu do né tránh (virati-abstinence).
Né tránh là cách để không rơi vào ác nghiệp mặc dù nó không chủ động tạo thiện
nghiệp như kusala kamma patha.
Trong cuộc sống có những lúc chúng ta phải né
tránh, có những lúc chúng ta có thể chủ động. Tuỳ lúc, tuỳ thời mà tiến thoái
thì ít gặp rủi ro hoạn nạn. Tránh né và kiên định trong cách ứng xử giúp người
ta giữ được lập trường và tư cách, ngoài ra tránh né chính là biện pháp tốt
nhất để không phạm tội hay gây nghịêp xấu trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tránh né
thuộc về giới phần trong Tam Vô Lậu Học.
Chủ động tạo thiện nghiệp chính là những hành động và cách ứng xử thiện xảo,
một nghệ thuật sống trong Phật giáo.
Cho
hay bố thí cúng dường (dana) là một
nghệ thuật giúp người ta bớt ích kỷ và biết quan tâm đến người khác. Người ích
kỷ thì không cần biết người khác thiếu gì, người khác cần gì hay muốn gì, chỉ
biết chăm chú vào chính mình mà thôi. Cho chính là chủ động quan tâm đến tha
nhân, và cũng là chủ động dứt bỏ lòng tham lam ích kỷ trong mình. Ngoài ra cho
đi thì luôn được nhận lại: nhận lại sự kính trọng, lòng biết ơn, và nhận lại
một mối giao hảo hoà ái. Đây chính là một việc làm từ thiện xuất phát từ tâm
kính trọng, tin tưởng (cúng dường), hay từ bi bác ái (bố thí hay từ thiện xã
hội). Cũng nên nói rõ rằng hối lộ, móc ngoặc thì không thuộc về thiện nghiệp
này; chúng là bất thiện nghiệp vì chúng xuất phát từ tham, sân, si.
Một
nghệ thuật sống mà Bụt luôn khuyến khích, luôn luôn ủng hộ và giảng dạy là
thiền tập (bhāvanā- meditation). Thiền cũng chính
là một khoa học sống làm giảm thiểu những xung đột khổ đau bên trong mỗi cá
nhân, làm cho tâm tư trở nên hiền hoà, mát mẻ và an tịnh hơn. Người không biết
thiền thì thường ôm mang cả một khối đau khổ phiền não, luôn bị bức bách và
thiêu đốt bởi lửa tham, sân, si. Sống không có thiền là sống với phiền não bức
bách và cho người cũng chính những phiền não, rác rưởi mà thôi. Khi người ta ôm
mang quá nhiều phiền não, chúng như những quả bom nổ chậm, chúng sẽ bùng nỗ bất
cứ lúc nào và ở đâu. Khi mà ích kỷ, tham lam, hận thù và vô minh thịnh hành,
người ta sống xấu với nhau, sớm hay muộn, những chúng sanh này sẽ tranh giành,
gây lộn và rồi chiến tranh là điều không tránh khỏi.
Thiền
(sati-mindfulness) giúp chúng ta nhận
ra đâu là tốt và hữu ích, đâu là xấu và có hại. Thiền cũng giúp chúng ta chủ
động định hướng những gì nên theo và những gì nên bỏ. Thiền (sampajanna-wisdom in action) giúp chúng
ta nhận biết ý tưởng vừa sanh khởi có đúng lúc, đúng thời để thực hiện không,
và ý tưởng đó nên được biểu lộ/ thực hiện ra sao để có hiệu quả cao nhất. Thiền
cần sự nỗ lực tinh tấn (viriya) một
cách đúng mức và kịp thời để ngăn ngừa bất thiện pháp không cho chúng phát sanh
hay phát triển; làm cho những thiện pháp sanh lên và tăng trưởng trong vườn
tâm. Có nhiều phương pháp để phát triển thiền định (samādhi). Trong hệ thống thiền Phật giáo có đề xuất 40 đề mục để
phát triển định tâm và trí tuệ. Thiền (jhana)
trong một nghĩa hẹp là bốn từng thiền hay tám loại chứng đạt (sampatti).
Trong bài viết này SC chỉ giới hạn trong việc giới thiệu
một loại nghệ thuật bậc cao trong Phật giáo gọi là ariya-iddhi, pháp thành tựu của bậc thánh hay nghệ thuật sống không vướng mắc như tiêu đề của bài viết này. Kinh điển thường đề cập đến tiêu đề này như
một nghệ thuật sống cao thượng nhất. Đó chính là Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma vihara: từ, bi hỷ, xả) và quán
niệm trên đề mục bất tịnh để đoạn giảm tham đắm. Chữ brahma cũng có nghĩa như chữ ariya,
cao thượng hay cao quí; vihara có
nghĩa là sống trong hay trú tâm trong. Thuật ngữ này ám chỉ sự trú tâm, hay
sống trong những trạng thái cao thượng (như bậc phạm thiên).
Như ở phần đầu chúng ta đã nói, Bụt tuỳ bệnh của chúng
sanh mà cho đơn thuốc đúng lúc, đúng thời, thuốc uống được (đôi khi hơi đắng!)
và sau khi uống thì bệnh thuyên giảm dần hay dứt hẳn. Người ta có khuynh hướng
vị kỷ (narcissism), và từ sự vị kỷ dẫn đến sân si (sân là do tham không được
thoả mãn- điều này đã được đề cập đến trong bài trước) và hẹp hòi.
Phát triển
tâm từ (metta bhāvanā)
chính là để giúp người ta vượt qua tính vị kỷ và hẹp hòi này. Tâm từ nên được
bắt đầu từ chính mình vì không ai gần gũi, thân thuộc hay hiểu mình hơn chính
mình nên chi khi nghĩ đến mình người ta thường độ lượng và dễ dãi hơn. Kế đến
tâm từ nên hướng đến những người thân yêu đáng mến hay đáng kính, tiếp tục làm
cho trạng thái hoan hỷ, chúc lành này lan toả đến càng nhiều người càng tốt.
Khi từ tâm đã được củng cố và phát triển, bạn có thể hướng đến những nhân vật
xa lạ hay những người mà bình thường bạn không yêu không ghét. Khi cảm giác
thương yêu nồng hậu và cởi mở này đã dâng lên tràn đầy và có thể phá vỡ mọi rào
ngăn (của bản ngã vị kỷ và hẹp hòi, hay những định kiến thân–sơ, yêu-ghét), tâm
từ nên được ban trải đến những đối tượng mà bình thường bạn xem là thù nghịch,
khó ưa. Bước đầu, nghệ thuật huấn luyện tâm này nên được lặp đi lặp lại như một
công thức như sau:
· “Mong sao
mình được hạnh phúc an vui (aham sukhi
homi). Mong sao mình được thoát khỏi mọi ách nạn, tai ương (niddukkha homi). Mong sao mình đừng bị
hãm hại bởi oán thù, sân hận (avera homi).
Mong sao mình luôn duy trì được trạng thái bình yên, hạnh phúc này (sukhi attanam phariharami)”.
· “Mong
sao người ấy (hay những người thân yêu của mình) được hạnh phúc an vui (sukhita hontu). Mong sao người ấy không
gặp ách nạn tai ương (niddukkha hontu). Mong sao người ấy đừng bị hãm
hại bởi oán thù, sân hận (avera hontu).
Mong sao người ấy luôn duy trì được trạng thái bình yên, hạnh phúc này (sukhi attanam phariharantu)”.
· “Mong
sao những người đó được hạnh phúc an vui (te
sukhita hontu). Mong sao họ không gặp
ách nạn tai ương (te niddukkha hontu). Mong sao những người
ấy đừng bị hãm hại bởi oán thù, sân hận (te
avera hontu). Mong sao họ luôn duy
trì được trạng thái bình yên, hạnh phúc này (te sukhi attanam phariharantu)”.
·
“Dù người đã không
tốt với ta nhưng ta vẫn mong người có được hạnh phúc an vui. Ta không mong
người khổ đau. Ta không oán thù người hay mong người bị oán thù, bị ngược đãi.
Ta mong người giữ được những gì tốt đẹp người đang có.”
Như
trên chúng ta đã đề cập, tâm từ có công năng phá vỡ những rào ngăn giả tạo do
bản ngã và định kiến hẹp hòi gây nên. Khi tâm từ được phát triển, những rào
ngăn khái niệm như ‘ta’ và ‘người’,
‘thân’ và ‘sơ’, ‘bạn’ và ‘thù’ đều bị
phá vỡ. Chỉ còn lại một tâm trạng thương yêu và quan tâm một cách hồn nhiên
không phân biệt. Điều này không dễ làm vì tâm chúng sanh thường bị cầm tù trong
những khái niệm tốt-xấu, ta-người, hay những kinh nghiệm chủ quan và cảm tính
như thích- không thích, yêu-ghét, bạn-thù, vv.
Khó
nhất là trải tâm từ đến những người đã gây chông gai đau khổ cho mình. Thương
người dễ thương thì rất dễ, nhưng thương người khó thương thì không dễ dàng gì!
Khi bạn gọi lại những kinh nghiệm khổ đau đã trải qua vì ai đó, tâm sân hận rất
dễ bùng khởi. Hãy chánh niệm và ghi nhận rằng bạn đang làm một bài tập khó. Đôi
khi bạn làm bài tập thứ tư này trong những dòng nước mắt tuôn rơi. Đừng cố tình
ngăn chặn nó, hãy để cho những giọt nước mắt oán hờn và tha thứ này trộn lẫn
với nhau. Với chánh niệm, bạn sẽ biết được cảm xúc đó là oán hờn hay tha thứ.
Oán hờn thì không nên theo đuổi, vì nó làm vết thương lòng chảy máu một lần
nữa; tha thứ thì nên phát triển, vì nó sẽ hàn gắn vết thương đau.
Nếu oán hờn sinh khởi hãy dùng lý trí để ‘biện hộ’ cho
‘bị can’. Kinh điển đem ra khá nhiều ví dụ và phương pháp để đối trị tâm sân
hận trong những tình huống khác nhau. Ở đây SC sẽ không viết lại những cách đó
như trong Chú Giải, Thanh Tịnh Đạo, hay Ngõ vào Hạnh Bồ Tát của ngài Thánh Thiên đã đưa ra. Sau đây là một
cách khác để vượt qua tâm bất mãn hay sân hận. Chánh niệm (sati) và trí tuệ (sampajanna)
là rất quan trọng trong việc nhận biết và xử lý các trạng thái tâm đang sinh
khởi. Nó là bước đầu tiên, và cũng là bước hữu hiệu nhất để đối trị với kẻ thù
trực tiếp của tâm từ là tâm oán hận. ngoài ra dùng lý trí để áp đảo những tình
cảm không lành mạnh cũng quan trọng không kém.
Hãy
tự thuyết phục chính mình rằng người đó không hẳn là xấu hoàn toàn. Trên thực
tế không có ai tốt hay xấu hoàn toàn, người đó có thể xấu với người này nhưng
tốt với người kia, trung thành với bên này nhưng lại phản bội lại bên kia.
Chúng ta thường bị đánh lừa bởi những cảm giác chủ quan và sự tưởng tượng,
khuếch đại do bị tuyên truyền hơn là những sự kiện hay dữ liệu thực tế. Tốt,
xấu, thích- không thích, yêu-ghét, bạn- thù thường chỉ là những đánh giá hay
cảm nhận chủ quan có tính tương đối và nhất thời (nghĩa là bị giới hạn bởi
không gian, thời gian và vị thế của người nhận thức). Biết được điều này, bạn
sẽ được ‘cởi trói’, thoát ra khỏi những nhận thức chủ quan và những kinh nghiệm
cảm tính đã cầm tù bạn bấy lâu. Vượt qua được vướng mắc này, bạn có được một
kinh nghiệm ‘a ha’, một cuộc vượt rào từ cá chép thành lão tiên! Rất đáng để cố
gắng và thử sức đối diện với chính mình và vượt qua những giới hạn tự tạo. Vì
công năng phá vỡ những giới hạn ước định giả tạo nên từ tâm được gọi là vô lượng với ý nghĩa là không giới hạn
bởi không gian, không bị ngăn che bởi ý niệm chia chẻ phân biệt.
Kẻ
thù gián tiếp của tâm từ là sự dính mắc vào đối tượng và trở nên lệ thuộc về
mặt tình cảm. Tình cảm tràn đầy yêu thương của mẹ giành cho con là từ tâm nhưng
nếu nó đi kèm với sự lo lắng và ràng buộc thì không là từ tâm. Tình cảm giữa vợ
và chồng, giữa những người yêu nhau cũng có thể là từ, nếu đó là sự quan tâm vô
điều kiện; nhưng nếu nó quá nặng sắc dục hay sở hữu dẫn đến ghen tuông thù hận
thì không phải là từ. Từ ái thì không có ràng buộc hay điều kiện. Từ tâm là cho
chứ không đổi chác theo kiểu có qua thì mới có lại. Nếu bạn chỉ thương những ai
thương bạn hay làm theo ý bạn thì đó không phải là từ tâm mà chỉ là một cuộc
đổi chác buôn bán giữa các bản ngã. Từ tâm thực sự là một tình cảm cao thượng
vượt lên trên hàng rào vị kỷ của bản ngã.
Tâm Bi - Karuna
· Dukkhappatta ca niddukkha- Mong
cho những chúng sanh đang đau khổ được thoát khỏi khổ đau bức bách;
· Sokappatta ca nissoka - Mong
cho những ai đang sầu lo được thoát khỏi sầu lo;
· Bhayappatta ca nibbhaya - Mong
cho những ai đang sợ hãi được thoát khỏi sợ hãi;
· Hontu sukhi sabbepi panino – Mong
cho tất cả những chúng sanh kém may mắn có được hạnh phúc.
Lòng
bi mẫn sanh khởi khi hành giả hướng tâm đến những chúng sanh đang khổ đau, sầu
lo và sợ hãi trong hoàn cảnh kém may mắn. Tâm Bi là sự quan tâm đặc biệt đến
những đối tượng đang khổ đau và ước mong, nỗ lực làm giảm thiểu những nỗi đau
đó. Bi mẫn thì ngược lại với sự nhẫn tâm, làm ngơ hay cười cợt trên nỗi đau khổ
của kẻ khác. Tính chất của tâm Bi là lòng thương xót; nó được biểu hiện bằng sự
quan tâm; chức năng của Bi là loại trừ sự bất nhẫn. Thành công của tâm Bi là sự
thông cảm nhưng không bi luỵ.
Bi
(karuna) phải đi với Trí (panna), vì nếu không nó trở thành bi luỵ
vốn không phải là một trong những vô lượng tâm (brahma vihara). Bi là sự nhạy cảm trước những khổ đau và bất toàn
của đời sống nhưng không rơi vào sầu muộn, ảo não do bất lực. Đức Quán Thế Âm
là biểu tượng của tâm đại bi, ngài rất nhạy cảm trước những nỗi thống khổ của
muôn loài. Sự nhạy cảm và quan tâm này cho phép ngài nghe và hiểu được chúng
sanh đang cần gì để giúp đỡ. Hình tượng này thường được ghi tạc như một phụ nữ
có ngàn tay ngàn mắt hàm nghĩa sự nhạy cảm và khả năng thấy biết và giúp đỡ
không giới hạn.
Tâm Bi luôn đi với trí, hiểu và tin vào nghiệp
quả của chúng sanh nhưng không thờ ơ lạnh nhạt buông một câu hững hờ kiểu: “Ồ
đó là nghiệp của nó/ chúng”. Nhiều Phật tử, ngay cả một số vị tu hành có thái
độ bàng quan hững hờ này trước những bức xúc khổ nạn của nhân sinh và xã hội.
Đây là một hiểu nhầm rất căn bản về nghiệp và quả của nghiệp. Nhận thức sai lầm
và thái độ hững hờ vô tình là hệ quả của vô minh và lòng ích kỷ, và thái độ đó
tạo nghiệp xấu, không phải là vô ký.
Có
những lúc chính hành giả cũng rơi vào hoàn cảnh bi đát, đó là lúc để hành giả
phải có tâm bi mẫn với chính mình, hay những ‘chúng sinh’ trong mình. Hãy
thương xót chính mình như mọi sinh linh đau khổ khác trong một thế giới bất
toàn nhưng lại là một trường học lớn nhất để làm người. Đây mới chính là ý
nghĩa đích thực của câu chú nguyện: “Chúng sanh vô biên thề nguyện độ; phiền
não vô tận thề nguyện đoạn; pháp môn vô lượng thề nguyện học; Phật đạo vô
thượng thề nguyện thành.” Chỉ khi hành giả trở nên nhạy cảm với mọi khổ đau,
biết lắng nghe và chia sẻ, cảm thông, đó là dấu hiệu của sự tiến bộ trên lộ
trình tâm linh. Tu hành không phải là để giết chết mọi tình cảm, cảm xúc để trở
nên vô tâm như đá cuội. Người tìm kiếm sự thăng hoa trên sự phát triển tâm linh
thì ngày càng nhạy cảm và tinh tế hơn, nhạy cảm nhưng không bị ‘lây nhiễm’ hay
ảnh hưởng, đó mới là nghệ thuật trong việc huấn luyện tâm và điều phục tâm.
Vào
thời Bụt còn tại thế có một nữ tín thí phát tâm hộ độ 30 vị Tỳ kheo an cư trong
một khu rừng gần nhà bà. Mỗi ngày bà tự mình nấu nướng và phục vụ các nhà sư đó
với một lòng tịnh tín tuyệt hảo. Tuy nhiên, vào cuối mùa an cư các sư đã không
nếm được pháp vị hằng mong mỏi, trong lúc đó vị nữ thí chủ lại tiến bộ rất
nhanh trên lộ trình giải thoát. Bà đắc quả thánh bất lai (anagami), bậc thánh thứ ba trong các quả vị thánh cùng với khả năng
thấu hiểu tâm tư người khác (extrasensory perception or telepathy). Với khả
năng này, bà biết rằng các nhà sư do bà hộ độ sở dĩ không có tiến bộ gì đáng kể
là vì họ đã không nhận được thức ăn thích hợp. Cũng bằng khả năng ngoại cảm, bà
biết được vị nào cần gì, và sự hỗ trợ nào là cần thiết nhất cho từng người, và bà
đã cung cấp thức ăn và những hỗ trợ thích hợp đến từng vị. Chỉ ít ngày sau, tất
cả các nhà sư do bà hộ độ đều chứng đắc quả vị Arahan. Đây là một tấm gương
tuyệt vời về lòng bi mẫn và nỗ lực giúp đỡ người khác một cách đúng đắn và hiệu
quả mà không bị ảnh hưởng hay hệ luỵ.
Tâm Hỷ- Mudita
Mudita nên
dịch là hoan hỷ, vì nó khác với tâm sở piti
là hạnh phúc, hân hoan từ bên trong. Tâm hỷ sanh khởi nơi một người không có
tâm ghen tỵ. Vì sao người ta ghen tỵ? Vì họ muốn những cái mà người khác đang
có nhưng họ không có. Tâm ghen tỵ làm cho người ta không vui thích hay hoan hỷ
với thành công của người khác. Ai cũng biết ghen tỵ thì không đẹp hay không cao
thượng, không xứng đáng, do đó nhiều người che dấu nó bằng những nụ cười giả
tạo hay lời nói đãi bôi. Thật đáng thương, những người như vậy không biết rằng
ganh ghét hay tị hiềm (negative mind) đang thiêu đốt họ, khiến họ tạo ác nghiệp
bằng thái độ, lời nói hay hành động nhỏ nhen thấp hèn. Ganh tỵ khiến người ta
cay cú phủ nhận và cự tuyệt, đây chính là những độc tố trong người và trong
đời.
Hoan
hỷ trước thành công hay hạnh phúc của người khác là một phẩm chất rất cao
thượng. Người có tâm hỷ là người có positive mind, một thái độ lạc quan, yêu
đời và yêu người vốn là một thành tố rất quan trọng để có thành công trong bất
cứ lãnh vực nào. Khi có hoan hỷ thì không có ganh tỵ hiềm khích. Hoan hỷ là
dưỡng chất trong các mối quan hệ lành mạnh, ngược lại, ganh tỵ là độc tố huỷ
hoại mọi quan hệ tốt đẹp. Do đó phát triển tâm hỷ là để đánh bại con bệnh ganh
tỵ nhỏ nhen trong mỗi chúng ta.
Hoan hỷ, bằng lòng với những thành công và
hạnh phúc của chính mình là một tình cảm rất tự nhiên mà ai cũng có. Hoan hỷ,
bằng lòng với thành công và hạnh phúc của những người thân yêu hay bạn bè cũng
khá dễ dàng. Đối với những người dưng không quen biết hay không thân thiết, sự
thành công và hạnh phúc của họ thường không là vấn đề đáng quan tâm lắm, tuy
nhiên, một người tốt bụng cũng sẵn sàng chia vui hay đón chào nó. Khó nhất là
hoan hỷ hay vui mừng đối với thành công của những ai ta xem là thù nghịch.
Thường thì phản ứng tự nhiên của mọi chúng sinh là bực bội, căm tức trước những
thành quả của kẻ thù. Chúng sinh thường có cảm giác mình bị đánh bại hay thất
thế trước thành công của kẻ thù, và cảm giác này làm họ cay cú, ganh tức thêm.
Có
một lần Bụt cùng các vị đệ tử của ngài du hành từ thành Vương Xá (Rajagaha) đến thị trấn Nalanda, sự thành
công và tiếng tăm về giới đức và trí tuệ của ngài được truyền đi trong dân
chúng khắp nơi. Điều này khiến một vị thầy Bà la môn đang bộ hành trên cùng xa
lộ rất căm tức. Ông ta không tiếc lời hủy báng Phật, Pháp của ngài tuyên giảng
và Tăng – giáo đoàn tu hành theo pháp Phật. Cùng đi với ông ta là một thanh
niên vốn là học trò của vị bà la môn này. Tuy nhiên, người trai trẻ này lại có
phản ứng hoàn toàn ngược lại với vị thầy ganh tỵ đến mù quáng kia. Anh ta ca
ngợi Phật, Pháp và Tăng một cách rất ngây thơ hồn nhiên, thậm chí thanh niên
này còn dám phản bác lại những lời mạ lỵ của thầy anh ta.
Khi những sự kiện trái ngược này được thuật lại với Bụt, ngài
dạy các đệ tử rằng khi nghe ai nói xấu hay ca ngợi Tam Bảo đừng vội rối loạn và
tức tối hay phấn khởi và hãnh diện. Một thái độ chân chính trước những thị phi
hay tiếng tăm là bình thản nhìn nhận và phân tích sự kiện xem chúng có xác đáng
không, và xác đáng ở mức độ nào. Nếu khi nghe những lời thị phi mà sinh tâm căm
phẫn thì chúng ta sẽ không có đủ bình thản để nhìn nhận và phân tích sự kiện
một cách khách quan và chỉ cho người ta thấy điều đó là không đúng sự thật,
điều đó là không công bằng, điều đó là sai quấy. Còn nếu khi nghe những lời
khen ngợi mà sanh tâm ưa thích hãnh diện thì đây cũng chỉ là một chướng ngại
trên con đường tu tập mà thôi.[iii]
Trở
lại với tứ vô lượng tâm thứ ba, tâm hoan hỷ mà chúng ta đang đề cập, câu chuyện
trên cho chúng ta thấy vị thầy bà la môn đã không thể nào hoan hỷ được với
thành công của Bụt, người mà ông ta tự cho là kẻ thù, hay đúng hơn kẻ kình
địch. Những người mà chúng sanh cho là thù địch không nhất thiết là người đã
từng làm hại đến chúng sanh. Vị bà la môn này muốn có những gì mà Bụt đang có,
nhưng do giới hạnh và tài trí kém cỏi của ông ta không cho phép ông đạt được
những thành tựu như của Bụt nên ông ta ganh tức và tạo ác nghiệp là nói xấu,
phỉ báng Tam Bảo. Ngược lại, người thanh niên đệ tử của ông ta lại có tâm hồn
rất trong sáng hồn nhiên. Anh ta không ganh tỵ mà lại hoan hỷ trước những tiếng
tăm tốt đẹp về Phật, Pháp và Tăng. Người thanh niên này còn có nhiều cơ hội để
thăng tiến, còn ông thầy ganh tỵ kia thì chỉ tự hạ thấp nhân phẩm của chính
mình. Tâm ganh tỵ khiến người ta nhỏ nhen ích kỷ, còn tâm hoan hỷ khiến người
ta rộng lượng và cao quí hơn.
Tại
sao biết được ganh tỵ là xấu, hoan hỷ là tốt mà người ta đôi khi vẫn để cho cái
tâm nhỏ nhen ti tiện kia sai khiến? Vì chấp ngã và ích kỷ khiến người ta như
vậy. Nhiều người còn không biết che giấu sự ích kỷ và ganh tỵ đã trở thành bệnh
hoạn của mình. Có những người mẹ ganh tỵ với con gái hay con dâu của mình. Có
những người cha ghen ghét với con trai hay con rể; ngay cả giữa những anh chị
em cùng cha mẹ cũng có thể phát sanh ganh tỵ và hơn thua. Từ chấp ngã chấp nhân
dẫn đến ganh tỵ và ti tiện, những gì khiến người ta cư xử tồi tệ với nhau. Phát
triển và nuôi dưỡng tâm hoan hỷ là để đối trị lại căn bệnh trầm kha này của
chúng sanh.
Tâm
hỷ có tính chất là sự vui mừng phấn khởi; nó được biểu lộ bằng sự hân hoan, vui
thích trước thành công của người khác. Bản chất của hỷ là rộng mở, bao dung;
công dụng của của nó là loại trừ tâm ganh tỵ; thành công của hỷ là sự vắng bóng
những tư tưởng không lành mạnh và những tình cảm nhỏ nhen ti tiện.
Cuối
cùng nhưng không kém phần quan trọng là TÂM XẢ. Trong
tiếng Phạn, trạng thái tâm cao thượng này được gọi là upekkha. Về mặt từ nguyên học upekkha
là một từ ghép từ tiếp đầu ngữ upa có nghĩa là hướng đến, tiến đến, và động từ
căn iks có nghĩa là mong muốn. Nhiều
người dịch upekkha là không thích thú
(disinterested), không quan tâm (indifference), cách dịch và hiểu như vậy là
không chính xác với ý nghĩa của từ này. Theo ngài Buddhadasa (Thailand), một
học giả và cũng là một thiền sư nổi tiếng của thế kỷ 20, thì từ này là sự kết
hợp của u và pek(kha) có nghĩa là nhìn lên, suy tính, chờ đợi một cơ hội thuận
tiện hơn. Về mặt triết học cách diễn giải này hoàn toàn chính xác trong bối
cảnh của Tứ Vô Lượng Tâm mà chúng ta đang thảo luận.
Tâm xả là một trạng thái tâm an nhiên tự tại trước mọi
biến động của thời cuộc hay sự kiện. Như bầu trời, tâm xả không động trước
những đám mây đến hay đi, chúng là mây trắng hay mây đen, bầu trời cũng chỉ như
vậy. Trong thiền định (từng thiền thứ tư), xả là tâm sở bình an và bất động
trước mọi vui sướng hay đau đớn. Trong trạng thái này hành giả thấy biết rất rõ
ràng và minh bạch nhưng không hề bị ảnh hưởng hay bị chi phối bởi những gì đang
thấy và đang biết, chính vì vậy nó được gọi là bất động và an nhiên tự tại. Một
số trường phái thiền hiện hành khẳng định rằng minh sát (vipassanā) chỉ có thể
đạt đến sau khi xuất định thứ tư
này.[iv]
Trên thực tế, sau khi xuất định thứ tư, tâm hành giả rất vững vàng và sáng rõ.
Lúc này niệm rất sâu và tuệ rất sắc bén: bất cứ ý tưởng hay cảm thọ nào sinh
khởi, hành giả đều nhận biết và ngay sự nhận biết đó làm cho pháp đang hiện
khởi hay sắp thành hình tan rã. Một cái tâm như vậy không tạo lập ý niệm, không
phân biệt chia chẻ, chỉ thấy và biết như
pháp đang là. Đây gọi là trí tuệ yathābhutaṃñāṇadassanam.
Xả
như là một trong tứ vô lượng tâm dựa trên nền tảng và sự hiểu biết của tâm sở
xả trong thiền định. Có những tình huống trong cuộc sống mà chúng ta cần tâm xả
để được nghỉ ngơi và an nhiên tự tại ngay cả khi hoàn cảnh đảo điên bất như ý.
Tâm xả luôn đi với trí tuệ thấy và biết như hiện trạng đang là, nó không phải
là cố tình làm ngơ hay thờ ơ lạnh nhạt vốn xuất phát từ vô minh. Như gợi ý của
ngài Buddhadasa, xả là thấy biết nhưng đang trong trạng thái chờ đợi một cơ hội
thuận tiện hơn để có hành động giúp đỡ, hay hành động đem lại lợi ích thiết
thực nhất. Lúc nào là lúc cần có tâm xả? Trong trạng thái xả, tâm hành giả vẫn
có từ, bi và hỷ nhưng các pháp đó tồn tại ở dạng tĩnh, có thể tính nhưng không
biểu hiện hay ứng dụng vì tình huống hay điều kiện không khả thi. Một cách dễ
hiểu hơn, hành giả an trú trong tâm xả khi mọi chuyện đều đâu vào đấy, i.e., tất
cả đều OK, không có chuyện gì phải làm cả; hành giả thôi lăng xăng lo lắng về
việc phải từ với đối tượng này, phải bi với đối tượng kia hay phải hỷ với người
nọ. Xả cũng rất cần thiết khi tình huống đảo điên nhưng tuỳ duyên nghiệp của
chúng sinh, hành giả không thể can thiệp vào được.
Chuyện
kể rằng Đức Phật của chúng ta thuộc dòng họ Thích ca (Sakya) ở thành Ca tỳ la vệ (Kapilavatthu).
Sau khi ngài từ bỏ ngai vàng và xuất gia, giác ngộ thành Phật, mỗi ngày vào
sáng sớm ngài xuất định và trú vào đại bi định để quán sát khắp thế gian xem ai
là người có đủ căn cơ và chín mùi duyên nghiệp cho sự giác ngộ giải thoát với
sự trợ giúp của một bài pháp đúng thời. Hàng triệu người đã được nếm pháp vị
thanh lương giải thoát ban rải từ tấm lưới đại từ đại bi, đại hỷ, đại xả của
Đức Từ Phụ. Một ngày nọ, ngài biết rằng vị vua trẻ tuổi của nước Kosala (con
của vua Padenayi) sẽ kéo quận tàn sát dòng Sakya ở thành Ca tỳ la vệ vốn là
quyến thuộc của ngài. Chuyện kể rằng Bụt đã ba lần hiện thần thông ngồi thiền
giữa đường hành quân của vị vua trẻ tuổi ngông cuồng và thích chinh phạt kia.
Vì tôn trọng ngài, vị quân vương ấy đã triệt thoái quân đội mấy lần nhưng đến
một ngày kia, khi duyên nghiệp của hai bên đã chín mùi để trổ quả (ác), vị quân
vương của nước Kosala thực hiện một cuộc tập kích bất ngờ giết sạch dòng họ Sakya. Trên đường trở về sau chiến thắng
của cuộc điều binh rửa nhục kia, quân vương và binh lính đóng quân bên bờ sông
nghỉ qua đêm. Một trận lũ quét đã cuốn trôi tất cả vua, quan, binh lính và toàn
bộ chiến lợi phẩm.[v]
Như vậy chỉ trong chốc lát hai cường quốc đều tan hoang!
Bụt
đã làm gì trong tình huống này? Ngài trú vào tâm xả! Chúng sanh có duyên nghiệp
của họ, ngay cả một bậc toàn giác như Đức Phật cũng không thể can thiệp vào
tiến trình thọ lãnh nghiệp quả đó. Xả có trạng thái tĩnh lặng; nó được biểu
hiện là không phấn khích hay lăng xăng bối rối. Tính chất của xả là an nhiên tự
tại; công dụng của pháp này là an trú trong sự nghỉ ngơi hoàn toàn. Sự thành
công của xả là không bị dính mắc.
Làm
thế nào để không dính mắc? Trong các khoa học quán niệm và nghệ thuật an trú
cao thượng có một pháp gọi là Niệm Bất Tịnh (patikulanussati). Người ta rất dễ dính mắc hay tham đắm khi tiếp
xúc với những đối tượng bắt mắt, duyên dáng và quyến rũ. Không chỉ có ở mắt, cả
sáu giác quan của chúng ta đều có thể là lối vào cho tất cả các loại phiền não
từ thô đến tế tùy theo cảm quan của từng người. Để đối trị những cơn ‘lũ quét’[vi]
này hành giả phải đắp đê phòng lũ. ‘Đê phòng lũ’ tốt nhất chính là chánh niệm (sati) và tỉnh giác (sampajaññā). Kinh
điển diễn tả điều này là: “khi mắt thấy sắc, hành giả chánh niệm thấy biết
nhưng không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng; khi tai nghe âm
thanh…khi mũi ngửi mùi hương… khi lưỡi nếm vị…; khi thân xúc chạm, vị ấy có
chánh niệm, không nắm giữ đối tượng.” Khi chánh niệm và tỉnh giác thâm sâu,
những khái niệm như đẹp-xấu, dễ thương–đáng ghét, thích–không thích, vv sẽ
không hình thành. Do đó hành giả sẽ không bị vướng mắc vào tham hay ưu, ưa hay
ghét. Khi chánh niệm tỉnh giác không đủ mạnh, những gì được thấy, nghe, ngửi,
nếm và xúc chạm hình thành khái niệm và niệm chia chẻ phân biệt này ràng buộc
người thọ nhận bằng những tình cảm yêu–ghét hay tham ưu trong những gì đang
trải nghiệm. Nếu tham sinh khởi, biện pháp kế đến là quán niệm trên khía cạnh
bất tịnh hàm chứa trong đối tượng.
Kinh điển diễn đạt tiêu đề này là: vị đó có thể xem những
đối tượng hấp dẫn, quyến rũ là cỏ rác, bất tịnh. Cũng nên nhắc lại rằng để trú
trong tâm từ, tâm bi, hành giả phải hướng tâm đến những đối tượng kém hấp dẫn
với sự quán niệm là họ (chúng) không đáng bị chối bỏ. Điều này nghe qua có vẻ
như hơi điên điên khùng khùng! Xin thưa, không điên khùng đâu, mà rất lý trí
tỉnh táo chỉ có bậc thánh mới làm được. Do đó phép tu này có tên là “ariya-iddhi”- phép lạ của thánh nhân hay
phép lạ cao thượng.
Nếu hành giả mong muốn: “ta có thể an trú vào
đối tượng khả ái với tâm niệm là không khả ái”, rồi an trú trong đó với ý tưởng
là đáng ghê sợ. nếu hành giả ước mong rằng: “ta có thể an trú vào đối tượng khả
ái lẫn không khả ái với tâm niệm là chúng đáng ghê sợ”, rồi an trú với ý tưởng
ghê sợ. Nếu hành giả mong ước rằng: “đối với cả hai đối tượng trên, để ngăn
ngừa (tham đắm hay ghê tởm), ta có thể quán xét chúng với chánh niệm, tỉnh giác
và tâm xả”, rồi hành giả an trú vào đó với tâm chánh niệm tỉnh giác đi kèm với
xả. [Patisampidamagga ii, phẩm tuệ, bàn về phép lạ]
Phép
tu này giúp hành giả có tâm công bằng, hỷ xả và không dính mắc vào bất cứ pháp
nào, dù chúng là khả ái hay thiếu khả ái, cao hay thấp, tốt hay xấu, sang hay
hèn, vv. Đây cũng là phép tu giúp hành giả làm chủ cái tâm hoang dã quen thói
nổi loạn và ngang tàng do bị sai sử bởi các đam mê cuồng si. Làm sao để an trú
tâm trong ý niệm bất tịnh khi đối diện với những đối tượng khả ái có sức hấp
dẫn?
Trong
40 đề mục thiền định (kammaṭṭhāna) được
giới thiệu trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga),
quán bất tịnh chiếm đến 12 đề mục. Chúng bao gồm 10 đề mục quán tử thi, một đề
mục quán tưởng về sự bất tịnh của vật thực và một phép phân tích thể trược.
Ngày xưa ở Ấn Độ, tử thi của những người nghèo khổ hay vô gia cư thường bị ném
vào nghĩa địa mà không chôn cất, do đó các vị Tỳ kheo có thể vào nghĩa địa để
mục kích những tử thi đang thối rữa, bị chim muông cầm thú cắn xé, hay chỉ còn
là nắm xương tàn rải rác đó đây. Pháp tu này giúp cho hành giả thấy được tính
chất vô thường của tấm thân mà phàm nhân chúng ta thường chăm chút bảo bọc và
yêu quí nâng niu. Khi thấy thi hài trong nghĩa địa hay nơi xảy ra tai nạn, hành
giả nên quán niệm rằng tấm thân này (của hành giả) cũng có chung bản chất bất
tịnh và dễ tổn thương, dễ tan hoại như thân kia. Một ngày nào đó tấm thân này
cũng phải chịu chung số phận như thân kia, còn lý do gì để thương yêu chiều
chuộng hay bám víu vào, tuyên bố nó là “Ta”, là “của ta” chăng?
Một
đề mục khác là suy tưởng về sự bất tịnh của vật thực để đoạn giảm tật tham ăn!
Hành giả phải suy nghĩ rằng các thức ăn kia khi vào miệng bị nhai nghiến và
trộn lẫn với nước bọt, nếu nhổ ra thì trông rất ghê! Khi chúng vào trong dạ
dày, được trộn lẫn với chất dịch tiêu hoá, nếu nôn ói ra thì rất kinh tởm! Khi
chúng đã tiêu hoá, phần không thể sản sanh ra năng lượng được tiết ra qua lỗ
chân lông, qua đường tiểu hay đường hậu môn, quả là không ai muốn tiếp xúc với
những thứ dơ bẩn và thối tha này! Thấy biết như vậy thì còn ham muốn chăng?
Phép phân tích thể trược thì đối tượng chính là thân của hành giả. Bình thường
thì chúng ta thấy nó như một tổng thể, một bộ máy khá hoàn hảo được điều hành
bởi lý trí. Chính vì cách nhìn nhận (hời hợt) này nên phàm nhân mới ham mê, đắm
đuối trong thân thể của mình hay của người mình yêu, và mê muội trong nhục dục
như ghiền á phiện không bao giờ thoả mãn hay dứt bỏ được. Mục đích của phép
phân tích cơ thể thành từng nhóm là để phá vỡ cách nhìn nhận chủ quan cho thân
là ta, dưới sự điều khiển của ta. Hành giả bắt đầu quán như sau: trong tấm thân
này có tóc, lông, móng, răng, da; thịt, gân, xương, tuỷ, thận; lá lách, tủy,
tim, óc, dạ dày; thức chứa trong dạ dày, ruột già, ruột non, màng ngăn, phân;
nước tiểu, nước mắt, máu, mồ hôi, nước mũi; nước nhờn, mủ, dờm, nước dãi, nước
dịch.
Không
chỉ phân tích mà hành giả còn phải tưởng tượng như thấy chúng riêng rẽ từng bộ
phận như thấy những món đồ hàng thịt bày bán. Sau khi đã thuần thục trong viêc
‘mổ xẻ’ cơ thể mình, hành giả có thể áp dụng cùng cách đó với thân thể của
người khác. Khi quán niệm như vậy, hành giả sẽ không còn ham muốn thân thể của
bất cứ ai, vì cảm giác ghê tởm dâng lên, hành giả không còn say sưa đắm đuối
trong thân nữa. Đây chính là diệu dụng của pháp quán niệm thể trược.
[i] DN, Brahmajala sutta 1.27: “the ascetic Gotama reftrains
from such base arts and wrong means of livelihood”. It is, monks, for such
elementary, inferior matters of moral practice that the worldling would praise
the Tathagata.
There are, monks, other matters, profound, hard to
see, hard to understand, peaceful, excellent, beyond mere thought, subtle, to
be experienced by the wise, which the Tathagata having realised them by his own
super-knowledge, proclaims. This is which those who would truthfully praise the
Tathagata should rightly speak. [Wisdom Publication USA 1995. p. 73]
[ii] DN, Kevaddha
sutta: there are three kinds of miracle that I have declared, having realized
them by my own insight. Which three? The miracle of psychic power
(iddhi-patihariya), the miracle of telepathy (adesana- patihariya), and the
miracle of instruction (anusasani- patihariya). [Wisdom Publication USA
1995. p. 176]
[iii] DN, Brahmajala
sutta
[iv] Trường phái thiền Pa Auk ở Myanmar
[v] Chuyện này
được ghi lại trong Chú giải Kinh Pháp cú (Dhammapada atthakatha)
[vi] SC dùng từ ‘lũ
quét’ để nói lên tính chất nguy hiểm và bất ngờ của các phiền não khi chúng
sanh khởi, bành trướng và ngự trị trong tâm chúng ta. Cũng giống như lũ quét
cuốn trôi mọi tài sản, triệt phá mùa màng và nhấn chìm mọi thứ trong dòng nước
hung dữ, phiền não đến từ các căn môn không được phòng hộ cũng cướp sạch, cuốn
trôi tất cả những thiện nghiệp đã tích luỹ. Chúng biến thân tâm thành bãi chiến
trường, và khi nó đi qua, cũng như những cơn bão khốc liệt đi qua, chỉ để lại
rác rưởi, đổ nát và hoang tàn, tang thương trong tâm hành giả.