VẺ ĐẸP CỦA CUỘC SỐNG DƯỚI ÁNH SÁNG TỨ DIỆU ĐẾ


Tỳ khưu ni Dr. Pháp Hỷ - Dhammananda scphaphy@gmail.com
15/02/2011 10:04 (GMT+7)
Số lượt xem: 18793
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Vài Quan sát và Gợi ý

cho Thiền Minh Sát

 

Index of “Buddhist Meditation and Depth Psychology”

By Doughlas M. Burns.

Người dịch, Nguyên Hương – Dhammananda Bhikkhuni

 

Những gì tôi đã viết vào năm 1964 (Thiền Phật Giáo và chiều sâu tâm lí học) với một ít sửa đổi và thêm bớt làm nó trở thành một phần của (lần xuất bản) năm 1965. Bây giờ, tại thời điểm đầu năm 1972 và sau sáu năm  ở Thái Lan thật đúng lúc để tôi nhìn lại những gì đã viết. Những năm qua tôi không chỉ làm dày thêm kinh nghiệm hành Thiền, chúng còn cho tôi cơ hội tiếp xúc lâu dài với những thiền sinh khác (thường là bạn thân) mà nhiều người trong số họ có tâm nguyện, thiện xảo và kinh nghiệm phong phú hơn tôi.

Người ta thường để ý đến nhiều tính cách khác nhau trong những người hành thiền. Một số xem đó như là có tính thực nghiệm, phê phán, chiêm nghiệm; những người khác lại tin tưởng hơn, tận tâm hơn, và xem như là lí tưởng. Một số có vẻ thích nghi tốt và hài lòng với chính mình và những gì xung quanh, trong khi một số khác lại có vẻ cố tìm hạnh phúc và mục đích trong cuộc đời. Một số trung thành tuyệt đối với mọi chi tiết trong kinh điển, trong khi những người khác lại thà tin theo những diễn giải và phương pháp của những bậc thầy khả kính của họ. Ngoài ra còn có những người tự nỗ lực tìm đường đi và cách tiếp cận cho riêng mình không màng tới sự giúp đỡ nào khác. Cũng vậy kỹ thuật, phương pháp mà họ thực hành thì rất khác nhau và đa dạng.

Suốt trong thời kỳ này, bằng kinh nghiệm cá nhân và sự cố vấn của người khác, tôi đã chứng kiến những gì tôi tin tưởng là những  thành công thực sự và một số thất bại đáng chú ý. Vấn đề là những gì thì được gọi là thành công và điều gì là không (thành công)? Và tại sao? Hoặc xác định vấn đề một cách chính xác hơn: người ta có thể thành công trong một lãnh vực nào đó thuộc về Thiền nhưng không phải trong một hướng khác.

Để có thể đánh giá đúng mức sự tiến bộ trong việc hành Thiền người ta phải có những tiêu chuẩn hay thước đo để làm giá trị. Như vậy chúng ta phải tự hỏi mình đó là cái gì, Niết bàn chăng? Phải chăng chúng ta mong đợi tìm thấy nó trong những người đã có những tiến bộ đáng kể trên Bát Chánh Đạo?  Những khoảnh khắc ngắn ngủi của sự thơ thới, nhận thức thay đổi, hay những trạng thái kỳ lạ của tâm thức dù chỉ thoáng chốc đều không phải là những gì chúng ta tìm kiếm. Cũng vậy chúng ta không theo đuổi những năng lực siêu phàm, sự bất thường của điện não đồ, hay điều khiển hệ thần kinh tự động (như là làm chậm nhịp tim hay thay đổi nhiệt độ cơ thể).

Với sự liên hệ với Tứ Diệu Đế, Chúng ta ghi nhận lời dạy của Đức Phật: Như Lai chỉ thuyết giảng về một điều: Khổ và Chấm dứt đau khổ.” Như vậy nếu ai đó thực sự tiến bộ, chúng ta có thể thấy rằng trước đây người đó buồn bã và ưu não, thì nay ít bị như vậy; trước đây ích kỷ, nay người ta cho đi nhiều hơn; trước đây thường thủ thế, bí hiểm, và tự vệ, người đó nay cởi mở hơn, tự tin hơn. Trạng thái lo lắng và kích động cũng giảm thiểu; khiêm tốn và khách quan nên thay thế cho tự kiêu. Thay vì ôm ấp tư tưởng  hận thù và trả đũa, người đó nên khoan dung, tha thứ và bình thản với mọi điều quanh mình. Điều đáng quan tâm là những thành quả như vậy đã được xác nhận như là kết quả hướng tới một cách đúng đắn trong thực hành (Thiền Phật Giáo).

Lại nữa, với sự liên hệ đến Tứ Diệu Đế, sự tham đắm hay dục vọng chính là nguyên nhân của những bất toại và sản sinh ra mọi phiền não trong chúng ta. Như vậy chỉ bằng sự tấn công vào những vấn đề của tham đắm, ham muốn, và dục vọng thì sự tiến bộ mới có thể đạt được. Tôi nói đây không đả động nhiều đến những ham muốn thô thiển và rõ ràng như đói khát và tình dục nhưng đến những thứ tinh tế hơn như ngã chấp và sự lệ thuộc trong tình cảm, và những ham muốn chiếm hữu. Người ta có thể nhịn ăn hai tuần mà không bao giờ thấy ra sự thật rằng nguyên ngân chính của việc tuyệt thực chỉ là nuôi béo bản ngã - trở nên khá hơn, có kỷ luật hơn, sùng tín hơn những người bạn đạo khác. Hoặc giả người ta cũng có thể làm việc một cách tinh cần để chiếm được tình thương, niềm tin và sự chú ý của một vị thầy thẳng thắn và xa cách, và người đó không bao giờ nhận ra rằng mình đang nỗ lực để khoả lấp những thất vọng và thiếu thốn tình cảm từ (thuở còn lệ thuộc vào) những bậc cha mẹ khô khan và lạnh lùng. Để thực sự phá vỡ những cảm giác chán chường (hang ups) kiểu đó, hành giả phải tập trung chú ý, không phải là trên cảm thọ của hơi thở vào ra lỗ mũi, mà hãy chú tâm trên cảm giác đau đớn của sự bất toàn, hoặc khác đi thì bị khống chế một cách tồi tệ bởi quá yêu thân mình (narcissism).

Trong một cách khác thiền bị hướng sai, như là kết quả của ngay chính những động cơ quyết định nó, là sự tìm kiếm những cảm giác hay kinh nghiệm mới; nghĩa là tham lam! Rất nhiều người tìm trong thiền chính những thứ mà họ tìm kiếm trong á phiện - nghĩa là một cảm giác lưng lưng ngập tràn khoái cảm của sự  biến vào tự ngã, với những nhận thức, màu sắc, tình cảm, và ‘vượt qua những trạng thái mà từ ngữ có thể diễn tả’.

Đây không hàm ý làm giảm giá trị của những kinh nghiệm như vậy và nói rằng chúng không có gì đáng chú ý hay không có giá trị gì. Nhưng cũng giống như chích một loại ma tuý mạnh (LSD) hay đang xem một cuộn phim hay, chúng nhanh chóng tan biến và chỉ còn là những kỷ niệm. Và một lần nó đã qua, ngay trong chớp mắt những tật cũ trở lại, những ganh tị nhỏ nhen, những ngã mạn, và những bực dọc cáu kỉnh vẫn mạnh mẽ và thường xuyên như bao giờ. Nếu như đã không có một nhân cách thay đổi lâu dài và thực sự, thì Thiền Phật Giáo đã bị xem như thất bại trong chủ ý mục đích của nó.

Ở một cực đoan ngược lại là những người mà cách tiếp cận Đạo Phật lại quá ư giáo điều, chiết tự, chính thống và đạo đức chủ nghĩa. Họ mạnh mẽ chống lại cách tiếp cận có tính thực dụng và không chấp nê trong việc thực hành, và họ quá chú trọng đến những điểm tế nhị trong truyền thống chuẩn mực của Phật Giáo. Từ những nguồn này người ta có thể nghe lặp đi lặp lại những nhận xét như: “Để có sự tiến bộ trong hành Thiền thì phải có kỷ luật đạo đức nghiêm ngặt”, hoặc: “bạn không thể mong đợi những kết quả nhanh chóng, phải tiến hành hàng năm cơ”. Thực ra thì (ít nhiều) những nhận định kiểu đó đều đúng. Nhưng trong bôí cảnh này chúng thực sự là những triệu chứng của sự quá khích trong cứng rắn và giáo điều, điều mà trong bản chất không khác gì chủ nghĩa giáo điều của những nhà truyền giáo Thiên chúa, hay những người trung thành tận tuỵ với một thể chế định sẵn. Sự tận tâm của hành giả vào truyền thống, vào văn tự mà quá mạnh nó sẽ khiến hành giả không thể thực sự thực hành ngay chính những lời dạy (của Đức Phật) rằng không nên chấp thủ định kiến, và rằng hãy thấy chân lí như là phổ quát và độc lập với bất cứ một thể chế nào. Tôi cảm thấy rằng hiện tượng không may này là nguyên nhân của nhiều hành giả tiêu biểu trong việc rất tận tuỵ, nỗ lực mặc dù trải qua nhiều năm thực hành chuyên cần, lại chỉ chút ít hơn nét phảng phất u hoài kinh niên xen lẫn với sự quyết tâm nặng nề.

Khúc dạo đầu của cảm giác tội lỗi và sự tự trừng phạt là một yếu tố (mặc dù không chỉ là một) khiến trệch hướng tới việc kiên trì một kiểu tinh tấn cố công mà kết quả lại giảm thiểu. Nó thường bắt đầu với hành giả quá lí tưởng, quá đạo đức, và đôi khi là cách tiếp cận pháp quá ư sùng tín. Hành giả cố gắng để nhất tâm và hoàn toàn đè nén những phiền não trong tâm. Thất bại và cố gắng lần nữa; lại thất bại và lại cố gắng; tự trách cứ mình về những thất bại, hành giả đi đến chỗ cảm thấy tội lỗi, và lại nỗ lực hơn nữa để chỉ thất bại tiếp. Từ sự khổ hạnh này hành giả đi đến một tính cách tự trừng phạt mình. Giận giữ với chính mình, hành giả trở nên hà khắc hơn với hành giả.

Đối với những ai biết soi chiếu vào vấn đề tiến thoái lưỡng nan của họ, còn có thể thêm vào đó vấn đề của cảm giác tội lỗi về cảm giác tội lỗi, hoặc trở  nên bực dọc về sự bực dọc của mình. Nhưng biết soi chiếu cũng chính là bước đầu tiên đi đến một giải pháp. Bước thứ hai là lùi lại và xả hơi một chút. Như Đức Phật đã nói nếu dây đàn có lúc quá chùng nay lại quá căng, để có được sự hài hoà sự căng thẳng phải được buông xả. Với những người lý tưởng và đạo đức, sự buông xả và nghỉ ngơi lại chính là những gì làm tăng thêm cảm giác tội lỗi. Vâng, nhưng trong nguyên tắc xử thế đây cũng chính là những gì Đức Phật đã làm khi ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh và thực hành pháp trung đạo. Hành giả phải lùi lại và đánh giá lại những hậu quả của quyết định của mình.

Trong vấn đề đo lường sự tiến bộ trong Thiền tập, điều quan trọng là biết cách phân biệt giữa sự chứng đạt thực sự có tính Phật Giáo và sự thích ứng. Bất cứ một chúng sanh nào (hay cho mọi sinh vật sống) khi được đặt vào một hoàn cảnh mới, đi qua tiến trình của thích nghi, thích ứng và phát triển để quen thuộc. Điều này cũng đúng đối với đời sống con ngươì nói chung, và đúng cho người xuất gia hành đạo. Thời gian trôi đi, anh ta phát triển và chấp nhận vai trò của mình, trở nên thich nghi và học cách tự điều chỉnh; anh ta cũng có thể trở nên bằng lòng và vui vẻ chấp nhận chỉ vì thời gian và tuổi tác mà thôi.

Tiến trình thích ứng đặc biệt liên hệ trong trường hợp một khoá Thiền tích cực nơi mà hành giả phải trải qua hàng tuần hay hàng tháng quanh quẩn trong một căn phòng nhỏ, chỉ rời phòng trong khoảnh khắc để gặp Thiền sư và trình Thiền. Trong bối cảnh đó hành giả có thể cảm thấy cực kỳ an lạc và hạnh phúc, tâm tư bỗng trở nên thanh tịnh và tỉnh giác như chưa bao giờ có được trước đó, Thiền sinh có thể nghĩ rằng nay chính là trạng thái siêu thế. (Tuy nhiên, cũng có những khoảnh khắc của buồn phiền, lo lắng vô cớ, khóc chút đỉnh…tuỳ thuộc trên mỗi người.) Rất nhiều những hành giả sau khi kết thúc những khoá Thiền như vậy cảm thấy rất ấn tượng và đánh giá cao phương pháp này. Tuy nhiên, có vẻ như tất cả những kinh nghiệm chủ quan này lại biến mất nhanh chóng khi Thiền sinh không còn sống biệt lập nữa, và sau đó, thật giống như trạng thái ‘mơ màng với nàng tiên nâu’, chúng chỉ còn là những hồi ức đẹp đẽ. Hơn nữa, rất nhiều Thiền sinh sau khi”hoàn tất những khoá Thiền tích cực” lại trở về với những ích kỷ và những tánh xấu chung của con người chẳng khác gì bất cứ phàm phu tục tử nào! Tệ hơn nữa, còn có những chướng ngại nguy hiểm trong những kẻ (tự cho rằng) “đã tốt nghiệp” này là những biểu hiện cực kỳ ngã mạn khi đề cập đến những chứng đạt của họ.

Nhưng cũng đừng vì thế mà cho rằng không có lợi ích gì trong những khoá Thiền tích cực. Ngược lại, tôi vẫn thường khuyên người ta hãy tìm sự hướng dẫn hành Thiền đúng theo khả năng. Tuy nhiên, đối với rất nhiều người, nếu không muốn nói là hầu hết mọi người chỉ có phương pháp này không thôi thì không đủ. Và thật sự  thì Bát Thánh Đạo và kinh điển Phật Giáo cũng ủng hộ điều này. Vậy nên chăng hãy giải quyết những vấn đề tục luỵ của cá nhân mình như khả năng sống chung với người khác và những vướng mắc tình cảm trước khi thử sức những pháp hành đặc biệt hơn.(Người Việt mình có câu: Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa - ND).

Thường thì một tu viện bảo vệ người ta khỏi mọi hình thức của những phỉ báng, làm nhục, kích động và lo lắng có thể khiến sanh ra ảo tưởng của chứng đạt và tạm lắng với cảm giác tự thoả mãn. Chúng ta có thể đối diện và triệt tiêu những phiền não, chỉ khi chúng đang hiện khởi sống động trong tâm chúng ta. Chúng ta không thể làm điều này khi chúng chỉ là những hồi ức mờ nhạt hay chỉ là thuần kiến thức sách vở. Rốt cuộc nhiều hành giả nhận thấy rằng sự tiến bộ thực sự của họ chính là từ những tình huống thực tế của cuộc sống trong mối tương quan xã hội và thất vọng. Mặt khác, những va chạm thái quá trong các mối quan hệ tương tác và va vấp như vậy cũng có thể ngoài khả năng tự chủ và chánh niệm, và rồi một cách âm thầm trở nên vướng bận vào những cãi cọ và trói buộc khiến sinh ra giận ghét và đau buồn. Khi sống đời sống tu viện nơi không có vấn đề gì sinh khởi, những phản ứng thủ thế và tính tình không hay có thể ngủ ngầm và như vậy hiện diện rong bóng tối. Nhưng trong đời sống bình thường của người cư sĩ, những cám dỗ, những cảm thọ, và những vấn đề sanh khởi quá nhanh đến nỗi hầu như lịch trình hàng ngày chỉ là mẫu lập đi lập lại của nhận biết, phản ứng, giải quuyết; nhận biết, phản ứng, giải quyết…cứ như vậy.

Như vậy đối với rất nhiều hành giả giải pháp nằm trong con đường trung đạo giữa hai cực đoan: đó là một vị thế mà hành giả vẫn tiếp xúc một số công việc tương đối, những bực dọc và các mối tương tác có tính xã hội, nhưng nó được xen kẽ với những khoảng lặng lẽ và Thiền định. Những khoảng giữa này có thể kéo dài hàng giờ hay hàng tuần tuỳ thuộc trên sự cần thiết của mỗi cá nhân hay tuỳ vào hoàn cảnh thực tế. Như vậy bằng sự duy trì một số tối ưu của sự liên quan với xã hội và các kích thích giác quan, người này đi xa hơn là chỉ nhận biết, phản ứng, giải quyết. Với chánh niệm, hành giả có thể bắt được tri giác và phản ứng khi nó đang sanh khởi. Anh ta quan sát, chiêm nghiệm và đánh giá nó. Trong khi làm như vậy, nó có thể được hạn chế, buông bỏ hay phát triển khi thấy cần thiết. Hành giả hành động với chánh niệm thay vì chỉ bằng thói quen hay phản xạ, và như vậy những phản ứng mới và những giải pháp có thể được học. Nếu (như một số nhà tâm lí học đã tuyên bố) nhân cách của mỗi người là tổng số của tri giác, nhận biết và phản ứng, trong trường hợp này sự tăng trưởng và phát triển của nhân cách là điều có thể.

Phần thời gian tối ưu mà hành giả nên giành cho Thiền tập trong sự tương xứng với khoảng thời gian cho những công tác khác cũng có sự sai khác tuỳ thuộc vào mỗi cá nhân. Nó cũng sai khác tuỳ thuộc vào thời gian và giai đoạn cả sự phát triển đối với từng hành giả.

Tôi khẳng định những kết luận trên không chỉ từ góc độ lý thuyết, và cũng không phải chúng có vẻ như được tiết lộ từ khuôn mẫu của cuộc đời Đức Phật và các đệ tử lớn của ngài như được miêu tả trong kinh điển. Những sự quan sát giới hạn của tôi về những cá nhân có biểu hiện sự tiến bộ trong thực hành Thiền Phật Giáo cũng đúng cho kết luận này.

…Tôi cảm thấy có một điểm cần được nhấn mạnh, đó là sự thực hành có tính khoá biểu sẽ không cho kết quả trừ khi hành giả tự nguyện chiêm nghiệm một cách thấu suốt toàn bộ phong cách sống của mình và sẵn lòng làm lại hay từ bỏ phong cách sống đó nếu thấy cần phải. Cũng trong cách đó, những hành giả bước trên chánh đạo dù là tu sĩ hay cư sĩ có thể thực hành tốt mà không đặt giới thời gian và cũng không cố theo một lộ trình vạch sẵn cho tương lai. ( Như là: « Tôi sẽ học xong chương trình đại học’, hay ‘tôi sẽ trở lại quê hương để hoằng dương chánh pháp’). Với những người như vậy đã quyết định sẵn lộ trình sẽ là, và như vậy đã giới hạn những thay đổi mà anh ta sẽ cho phép mình làm.

…Tôi không hoàn toàn đồng ý với một số truyền thống phổ biến rằng định là không cần thiết trong Thiền Phật Giáo. Nhưng nếu hành giả chỉ chú tâm đặc biệt trên hơi thở, Thiền hành hay bất cứ đề mục nào khiến chận đứng mọi tư tưởng, tình cảm, điều này khiến hành giả chạy trốn khỏi những phiền não và những xung đột nội tâm nên được đối diện để giải quyết. Điều này dường như nói lên điểm nổi bật là trong Bát Chánh Đạo chánh định theo sau chánh niệm.

Người ta có thể gặp không ít những người đã (hoặc giả như đã từng tuyên bố) có những chứng đạt nào đó trong Thiền định. Vâng, chỉ với một số ít ngoại lệ, họ xuất hiện (trong mắt chúng ta) chỉ như những người có khuynh hướng ích kỷ và những ganh tị nhỏ mọn như bất cứ một kẻ tầm thường nào mà ta tình cờ gặp. Quả thật vài người trong số họ còn có những biểu hiện như bất an, cô đơn, và rất không hạnh phúc. Mặt khác, những người mới chỉ có một số ít tiến bộ trong Thiền tập, tuy nhiên, trên lộ trình của việc thực hành, lại cho thấy có những giảm thiểu của ngã mạn, bất mãn, trầm uất, và ích kỷ. (Tuy nhiên, có một người mà tôi được biết sau những tháng chuyên tâm Thiền quán, đã tỏ ra có những tiến bộ rất lớn trong việc giải trừ phiền não thuộc mọi loại, và nay cũng là người duy nhất mà tôi được biết có khả năng nhập định vào từng Thiền thứ ba bất cứ lúc nào.)

Những quan sát trên cũng đúng cho phương pháp đặt tên; nay là phương pháp rất phổ biến trong các khoá Thiền tích cực ở Burma. Với kỹ thuật này, những người hành Thiền khi nhận thấy mình đang ‘mơ ngày’ sẽ chỉ đơn giản (thầm tự nhắc mình) “tưởng tượng”, tưởng tượng”, hoặc “mơ màng”, “mơ màng” và rồi trở lại trên đề mục quán niệm của hơi thở hay cảm thọ. Tuy nhiên, trạng thái mơ màng hay vọng tưởng lại thường là những biểu hiện của những ước muốn , hay những xung đột tình cảm trong ta. Nếu hành giả kiểm điểm lại sự mơ tưởng trong tâm: “Nó muốn diễn đạt gì đây?”, “Nó lại đòi hỏi gì nữa đây?”, “Nó mang sắc thái tình cảm gì ?”; như vậy hành giả có được tuệ giác soi chiếu vào thế giới tình cảm và những đòi hỏi của nó, và đó cũng chính là lúc mà hành giả đối diện với những vết nhơ trong tâm hồn mà Thiền quán là để vượt qua chúng. Kỹ thuật đặt tên là, tuy nhiên, có tính ứng dụng rất cao trong việc đối kháng với những phân tâm do thân khổ thọ như ngứa, đau, ồn; và với một số loại tâm trạng như chán ngán, hay với một số ký ức ‘không mời mà đến’. Nhưng nó phải được sử dụng một cách thận trọng; vì nếu nó được sử dụng thái quá, nó có thể làm chậm lại sự tiến bộ.

Có một qui luật chung trong sự thực hành mà nhiều hành giả đã dùng để nhảy bực như say: hành giả bắt nay thực hành bằng cách làm tâm lắng dịu và định tâm. Nhưng say vài phút thấy tâm cứ tiếp tục lang thang ra khỏi đề mục Thiền, hành giả liền lùi lại và tự hỏi: “Tâm tôi đang ở trạng thái nào đây”? “Điều gì đã khiến nó rời khỏi đề mục Thiền?’ Đây chính là phân tích và đối diện. Về cơ bản điều này rất giống với một kỹ thuật hữu dụng khác đó là Thiền sinh không chọn một đề mục thiền cụ thể nào, thay vì chỉ ngồi đó đơn giản ghi nhận: điều gì đang hiện khởi trong tâm đây? Cảm thọ thô nào đây? Cảm thọ tế nào đây? Ký ức hay mộng tưởng nào đây? Ý định hay ham muốn gì đây?”Trong thực tế của hành thiền điều này không phải được làm như nói chuyện trong tâm, như nó có vẻ ở những câu trên, đúng hơn nó là một trạng thái tỉnh giác quán sát mà trong đó chỉ có ít ngôn ngữ tư tưởng xuất hiện. Thường thì vào những lúc như vậy hành giả thấy một loại phiền não vi tế mà nó phải được xác nhận và loại bỏ. Nó là tư tưởng: Bây giờ đây tôi đang hành thiền và muốn có vài trạng thái thiền. Tôi muốn điều gì đó xẩy ra”. Hoặc nó có thể là: “tôi muốn đối diện và chiến thắng sân hận trong tôi, nhưng bây giờ khi tôi tìm kiếm nó thì nó lại đi đâu mất tiêu!” Và điều này đưa đến cảm giác hụt hẫng. Ở đây hành giả đã đặt ra một mục tiêu nên mới bị phá ngang. Như vậy sự ước muốn dưới hình thức một mục đích đặc biệt và kết quả của nó là sự hụt hẫng chính là trạng thái tâm cần được giải quyết. Sự hành thiền tốt đẹp đòi hỏi phải tóm bắt được những gì đang hiện khởi.

Cuối cùng một điều đáng nhớ trong chứng đạt của thiền tập: trừ khi hành giả rất lão luyện, đừng trông mong hay ước ao những kinh nghiệm mới hay khác thường hơn là những gì được thấy trong đời sống bình thường[1]. Ngược lại, chứng đạt lại là những thứ có tính phủ định và chúng được thấy trong sự nhìn lại. Cho ví dụ, hành giả bỗng nghiệm thấy: “một năm trước mình thường bị chứng trầm uất mãn tính, phiền muộn, bực bội và thủ thế. Bây giờ hiếm khi như vậy. Những thứ như vậy như vậy thường làm mình bực dọc điên đầu, Nay nó xẩy ra mà mình hầu như không để ý tới.”

Nó có thể là một sự khẳng định hơi mạnh mẽ rằng trong hành Thiền hành giả không tìm kiếm để đạt được gì cả. Vì rằng có sự tăng trưởng của hạnh phúc và bình an trong tâm hồn. Nhưng khi được hỏi: “bạn đạt được điều gì khi hành thiền?” câu trả lời có thể là: “không phải  những gì tôi đạt được là quan trọng, mà chính là những gì tôi đã giảm thiểu, chúng là tham, sân, si.”

 

Ayyakhema Centre June 1st, 2005.

 

 



[1] Mong muốn khác thường coi chừng bị ‘bất thường’ đó nghe! Cổ nhân nói ‘bình thường tâm thị đạo.’

 

[1] Xem Madhupiìkasutta, MN.

[1] Năm qui luật được bàn đến trong triết học Phật giáo là: (1) citta niyāma- qui luật của tâm, hay những nguyên tắc vận hành của tâm; (2) karmaiyāma- qui luật nghiệp quả; (3) utu Niyāma- qui luật của thời tiết, hay sự vận động của các mùa; (4) bīja niyāma- luật sinh học; và (5) dharma niyāma- Sự vận hành có tính tất yếu của pháp.

[1] DN, Brahmajala sutta 1.27: “the ascetic Gotama reftrains from such base arts and wrong means of livelihood”. It is, monks, for such elementary, inferior matters of moral practice that the worldling would praise the Tathagata.

There are, monks, other matters, profound, hard to see, hard to understand, peaceful, excellent, beyond mere thought, subtle, to be experienced by the wise, which the Tathagata having realised them by his own super-knowledge, proclaims. This is which those who would truthfully praise the Tathagata should rightly speak. [Wisdom Publication USA 1995. p. 73]

[1]  DN, Kevaddha sutta: there are three kinds of miracle that I have declared, having realized them by my own insight. Which three? The miracle of psychic power (iddhi-patihariya), the miracle of telepathy (adesana- patihariya), and the miracle of instruction (anusasani- patihariya). [Wisdom Publication USA 1995. p. 176]

[1]  DN, Brahmajala sutta

[1] Trường phái thiền Pa Auk ở Myanmar

[1]  Chuyện này được ghi lại trong Chú giải Kinh Pháp cú (Dhammapada atthakatha)

[1]  SC dùng từ ‘lũ quét’ để nói lên tính chất nguy hiểm và bất ngờ của các phiền não khi chúng sanh khởi, bành trướng và ngự trị trong tâm chúng ta. Cũng giống như lũ quét cuốn trôi mọi tài sản, triệt phá mùa màng và nhấn chìm mọi thứ trong dòng nước hung dữ, phiền não đến từ các căn môn không được phòng hộ cũng cướp sạch, cuốn trôi tất cả những thiện nghiệp đã tích luỹ. Chúng biến thân tâm thành bãi chiến trường, và khi nó đi qua, cũng như những cơn bão khốc liệt đi qua, chỉ để lại rác rưởi, đổ nát và hoang tàn, tang thương trong tâm hành giả.

[1]  Metta sutta, KN.

[1]  Canki sutta, MN.

[1]   Sigāla sutta DN.

[1] Mangala sutta, KN.

[1]  Kinh Aditta- Lửa cháy, Tương Ưng Bộ Kinh, Salytana samyutta, Sabba vagga.

[1]  A V. 43: Này gia chủ có năm điều đáng mong cầu, được yêu chuộng và được nhiều người đồng ý là khó đạt được trong đời này. Gì là năm? Sống lâu, sắc đẹp, hạnh phúc, danh tiếng, và tái sanh lên cõi trời. Nhưng, này gia chủ, Như Lai không dạy rằng năm điều này có thể đạt được nhờ cầu nguyện hay bằng lễ lạt. Nếu ai cũng đạt được chúng bằng sự nguyện cầu thì ai mà không đạt được?...”

[1] AN, X, 1, 2; M 78, M 126…

[1]  MN, Alagaddpamasutta, Kinh Ví Dụ Con Rắn, Trung Bộ Kinh số 22, tap I; Kinh Di Giáo.

[1]  Vin. III, Vin. IV, 4: Satta adhikaraa samathā dhammā: có bảy cách dàn xếp và giải quyết các sự tranh tụng đã sanh khởi hoặc chưa sanh khởi: (1) nên áp dụng cách hành xử Luật với sự có mặt (sammukhāvinayo), (2) nên hành xử Luật bằng sự ghi nhớ (sativinayo), (3) nên hành xử Luật khi không bị tâm thần (amūhavinayo), (4) nên phán xử theo sự thừa nhận (paiññāya), (5) thuận theo số đông (yebhuyyasikā), (6) theo tội của vị ấy (tassapāpiyasikā), (7) cách dùng cỏ che lấp (tiavatthārako).

 

[1]  M. I, sutta No 48, p322

[1] SN: 17:3, 5: "Tỳ khưu, “lợi dưỡng của sự cúng dường và danh tiếng là những thứ tai hại, khó vượt qua, làm cản trở lộ trình giác ngộ giải thoát khỏi những vướng mắc trói buộc” – các con phải học tập như vậy: ‘Chúng ta phải đặt lợi, danh qua một bên, và chúng ta sẽ không để cho lợi và danh ràng buộc, thiêu đốt và sai sử.”

[1] D. I, 136 – The Long Discourses of the Buddha p.138; Trans. From Pali to English by Maurice Walshe; Wisdom Publication USA 1995. Việt dịch Sc Pháp Hỷ: “Brahmin, Thuở xưa có một vị vua tên là Mahāvijita, giàu có với nhiều tài sản và tài nguyên. […] Vị vua này muốn làm một cuộc hiến tế lớn để cầu xin thịnh trị và bình yên trong quốc độ bằng cách kêu gọi dân chúng đóng góp sản vật để làm hiến tế. Khi nghe dự định của nhà vua, vị quan cố vấn lễ nghi kiến nghị rằng:

 “Muôn tâu hoàng thượng, trong quốc độ của ngài đang có những tệ nạn như cướp bóc, tàn phá; làng mạc bị phá phách và dân tình bị nhũng nhiễu. Nếu Hoàng thượng đánh thuế những vùng này thì thật không hợp lẽ. Giả sử như hoàng thượng nghĩ rằng: ‘Ta sẽ loại trừ những tệ nạn nhũng nhiễu và cướp bóc bằng những hình phạt nặng như tử hình hay tù đày, tịch thu tài sản, đe dọa và lưu đày’, những tệ nạn kia sẽ không được giải quyết một cách thích hợp. Những người còn sót lại có thể củng cố lực lượng và rồi tiếp tục phá hoại quốc độ. Tuy nhiên, với kế hoạch như vầy Hoàng thượng có thể tận diệt những tệ nạn xã hội kia. Với nông phu trồng trọt và những nông dân làm nghề chăn nuôi, hoàng thượng (và các cấp lãnh đạo) phải cung cấp nguồn giống tốt cho họ; những ai buôn bán, hãy cho vay vốn đầu tư; với những cán bộ công nhân viên nhà nước, hãy trả lương thích hợp cho họ có đời sống ổn định. Làm như vậy, những công dân này sẽ có đủ việc làm và bằng lòng với đời sống của họ nên không phá phách quấy nhiễu nữa. Lợi tức của Hoàng thượng (và thần dân trong quốc độ) sẽ được tăng trưởng, đất nước sẽ được bình yên và không bị cướp bóc quấy nhiễu nữa, dân chúng vui vẻ trong lòng được vui đùa với con cái họ, và mọi người được sống trong những ngôi nhà không cần đóng cửa.”

[1] M136, p1063

[1] Asoka verdict, Buddhist Cultural Centre, 3rd Ed.

[1] M139, p1081.

[1] AN , VI, 36.

[1]  Vivādamūla sutta, AN VI, 36.

[1] M. I, Kosambiyasutta.

29  Đây là cách phân loại các chúng sinh trong cõi dục giới: loài người và trời (chư thiên) thuộc về cảnh vui; loài Asura (A Tu la) là một dạng chúng sinh có thần lực hơn con người nhưng lại không tỏa sáng như chư thiên vì tâm họ thường bị sân hận chi phối; loài Nāga thuộc về súc sinh dạng lớn (như rồng, rắn thần, voi, vv) và có chút ít thần lực; loài Ganthabba (Càn thát bà) cũng thuộc về dạng quỉ thần (như Asura và Nāga) biết bay và hưởng thụ mùi hương như thức ăn.

 

 

 

Phương danh Phật tử ấn tống

 

Từ Hùng, Diệu Hương, Diệu Dung, Diệu  Hiền, Diệu Hạnh, Diệu  Quang, Diệu  Huệ, Vạn Tuệ, Vạn Nhã, Vạn Trí, Chánh Thiện Hoàng, Chánh  Công, Chánh Lộc, Nghiêm Pháp, Khánh Tịnh, Khánh Nhu, Nguyên Khai, Nguyên Định, Quảng Đức, Thu Le.

Nguyện phước thí này luôn hỗ trợ quí vị và gia đình trên đường học Đạo và trong mọi nẻo đời!



Tiêu điểm:

Âm lịch

Ảnh đẹp