VẺ ĐẸP CỦA CUỘC SỐNG DƯỚI ÁNH SÁNG TỨ DIỆU ĐẾ


Tỳ khưu ni Dr. Pháp Hỷ - Dhammananda scphaphy@gmail.com
15/02/2011 10:04 (GMT+7)
Số lượt xem: 18796
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Pháp Tu của người Phật tử

Vấn đề trong bài pháp này là ‘người Phật tử tu gì ?’ Để giải quyết câu hỏi này, chúng ta cần trả lời câu hỏi tại sao chúng ta trở thành Phật tử?

Sau khi đã trở thành Phật tử, có Tam qui, Ngũ giới rồi, người Phật tử phải sống ra sao để có an lạc hạnh phúc? Việc giữ giới có khó hay không? Làm sao để giữ giới tốt mà không cảm thấy đó là những điều bắt buộc quá khó hay không thiết thực. Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta phải trở về với những điểm thiết thực nhất cần thảo luận để làm rõ vấn đề. Đó là mục đích tu Phật và động cơ tu hành.

Có phải mọi người tu Phật đều muốn trở thành Phật hay không? Phật là ai? Câu hỏi này kéo theo những câu hỏi khác… và cuối cùng chúng ta có rất nhiều câu hỏi để giải quyết, nhưng đây là một lựa chọn duy nhất để không còn nghi ngờ. Nghi (vicikiccha) là một chướng ngại trên con đường tu hành vì khi có nghi ngờ, chúng ta  sẽ không còn quả quyết. Nghi là không tin Phật là Bậc giác ngộ,  Bậc tối thắng giữa nhân- thiên và ma vương, Bậc thầy luôn sáng suốt dẫn dắt những ai tin theo phương pháp mà ngài đã đề ra để có được giải thoát giác ngộ giữa cuộc đời này. Giải thoát là gì? Và giác ngộ điều gì cũng là những câu hỏi cần thiết phải giải đáp để làm rõ vấn đề. Nghi cũng là không tin theo phương pháp mà Phật đã chỉ ra (Pháp) mà nếu thực hành theo một cách đúng đắn, chúng ta có được an lạc giải thoát khỏi những phiền não nghiệp chuớng mà chúng ta đang vướng vào. Nghi cũng có thể là không tin rằng có người tu hành chân chính (Tăng), có khả năng cởi trói cho mình, và có thể giúp người được cởi trói khỏi những ràng buộc của chấp thủ và thói quen cố hữu. Và điều nghi ngờ tai hại nhất chính là không tin vào khả năng có thể giác ngộ giải thoát của chính mình, do đó chúng sinh buông trôi theo vô minh và ái dục, vật vờ vô định theo dòng chảy của cuộc đời và thế cuộc.

 

Trở lại với vấn đề mục đích tu hành, chúng ta phải biết vì sao chúng ta muốn tu tập. Có nhiều động cơ khác nhau dẫn người ta đến Đạo Phật, mỗi người có một hoàn cảnh, một duyên nghiệp khác nhau khiến chúng ta tìm đến Đạo Phật. Đạo là gì? Là con đường hay cách sống để có được một đời sống tốt đẹp, an toàn và hạnh phúc hơn. Như vậy rõ ràng là hầu hết chúng ta luôn có xu hướng tìm kiếm một cái gì khác hơn là cái đang là, điều này được gọi là sự không thỏa mãn (dukkha). Giác ngộ chính là thấy ra bản chất của cuộc sống vốn tiềm ẩn một cái gì đó không ổn định và không đem đến một sự thỏa mãn tuyệt đối. Sự không thỏa mãn này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thô đến tế. Ở những nước kém phát triển, điều này rất dễ nhận thấy, nạn nhân mãn, thiếu hụt lương thực, đói, khát, nóng, lạnh, thiên tai, chết chóc, chiến tranh ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là những tồn tại dễ thấy nhất của khổ. Ở những nước đang phát triển, nó là sự cạnh tranh khốc liệt, những đòi hỏi phải thay đổi, phải nâng cao trình độ nhận thức và nghiệp vụ không ngừng gây nên căng thẳng, chán nản, bực bội, thất vọng, nghi ngờ và ganh tỵ, thậm chí phẫn uất; chúng đều là những hình thức khác của khổ (dukkha) mà con người phải đối mặt hàng ngày. Ở những nước đã phát triển, nơi điều kiện vật chất đã tương đối hoàn hảo, kinh tế đã đi đến chỗ bão hòa, chiến tranh, thiên tai cũng xẩy ra đâu đó không phải kề cạnh họ, phải chăng khổ không còn? Lúc này con người lại phải đối mặt với những vấn đề khác, khi cái khổ không còn là vấn đề bức bách bên ngoài, nó lại là vấn đề bên trong, ngay trên thân thể chúng ta hay trong tâm hồn mỗi người, trong các mối quan hệ giữa những cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội. Hầu hết chúng ta đang ở trong điều kiện thứ ba mà sư đã đề cập ở trên. Ở đây có điều kiện vật chất tốt đẹp hơn nhiều nơi khác trên thế giới, đó là một sự thật đáng lạc quan. Chúng ta cũng có một thể chế chính trị tương đối hoàn hảo, nơi có tự do, công bằng và văn minh thực sự trong xã hội, đây là một điều đáng tự hào vì chúng ta đang sống trong một xã hội như vậy. Nhưng thỉng thoảng con người vẫn phải đối đầu với sự thay đổi của thiên nhiên, nhất là khí hậu, môi trường mà chúng ta đang sống ngày càng nóng lên mà biểu hiện khủng khiếp nhất là vụ cháy vừa qua ở Victoria. Điều này khiến chúng ta phải luôn đối diện với những phấp phỏng lo toan thường xuyên về hỏa hoạn, bão lụt, động đất hay sóng thần đột ngột cướp đi những gì mà chúng ta đang có. Ngoài ra, vẫn còn rất nhiều điều mà chúng ta không thể đạt được vì giới hạn của con ngừơi.

Người ta sinh ra, già đi rồi chết. Không ai chọn được cha mẹ, quê hương, đất nước mà mình đã sinh ra, đây là một sự thật. Không ai chọn được chiều cao và dáng vẻ, đường nét trên thân thể và gương mặt mình. Ai cũng muốn mình xinh đẹp hơn, khoẻ mạnh hơn, thông minh hơn, đáng yêu hơn, và khi đã có rồi, chúng ta muốn chúng tồn tại mãi mãi, nhưng có ai không phải trải qua già, bệnh và chết? Đây là một sự thật mà không ai tránh khỏi, cho dù người đó sống ở bất cứ đâu trên thế giới này.Thêm nữa, gần gũi với người /vật không thương, xa lìa với người /vật /thứ mà ta thương, mong cầu mà không đạt được cũng gây nhiều rắc rối phiền não. Và không phải bao giờ người /vật ta thương cũng đáng yêu dễ thương và muốn ở gần ta, dưới sự điều khiển của ta. Tình cảm của chúng ta luôn thay đổi, và tình cảm, nhận thức và những đòi hỏi của người cũng vậy, luôn thay đổi khiến ta phải phải phấp phỏng lo sợ không biết những gì mà chúng ta đang có sẽ đi về đâu. Khi mất đi những gì mà ta cho là ‘của ta’, chúng ta thất vọng, đau khổ, và thậm chí tuyệt vọng muốn quyên sinh. Tình cảm thay đổi còn nhanh hơn cả thời tiết. Như vậy sự không thoả mãn (dukkha) tồn tại ở khắp mọi nơi, dưới nhiều hình thức và cấp độ, tuy nhiên, chúng ta nhận ra nó hay không, và khi nhận ra nó rồi, chúng ta chấp nhận nó như một sự thật trong đời sống hay tìm cách trốn tránh, che đậy nó bằng nhiều thứ khác để có được cảm giác an toàn giả tạo.

Để giải quyết những vấn đề trên chúng ta cần phải biết nguyên nhân của chúng, điều giác ngộ cần thiết phải có để loại trừ nguyên nhân của khổ. Có những vấn đề chúng ta có thể thay đổi được, hay tác động lên điều kiện khiến nó phải thay đổi. Nhưng cũng có những thứ chúng ta không thể thay đổi được, và điều tốt nhất là chính chúng ta phải thay đổi để phù hợp hơn với hoàn cảnh sống. 1300 năm trước, Santideva, một nhà sư ở Ấn độ đã thốt lên: “L

àm sao ta có thể có đủ thảm da để che trọn mặt đất. Nhưng chỉ với đôi dép này ta có thể bảo vệ chân mình khỏi trầy xước” (trên đường đời đầy chông gai). Đây chính là trí tuệ biết chấp nhận và hóa giải những khúc mắc trong cuộc sống.

Nhưng chúng ta phải làm sao khi không thể thay đổi đối tượng, không thể thay đổi chính mình? Để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải thay đổi thái độ nhìn nhận sự việc. Chính thái độ của chúng ta mới là yếu tố quyết định trong việc nhìn nhận, đánh giá sự kiện là tốt hay xấu, tiêu cực hay tích cực. Mà thái độ này lại tuỳ thuộc vào nhận thức, nhận thức lại tuỳ thuộc vào hoàn cảnh sống, môi trường tuổi thơ, nền giáo dục mà chúng ta đã thọ nhận. Như vậy, chúng là một chuỗi những liên hệ nhân - quả, tương duyên tương tức mà mỗi cá nhân là một mắt xích, mỗi lựa chọn, mỗi quyết định là một thành tố tạo nên chuỗi diễn tiến mà chúng ta gọi là cuộc đời này. Theo cách này, chúng ta khó mà lần ra được đâu là điểm khởi đầu và đâu là điểm kết thúc. Chính vì vậy Đức Phật nói sinh tử luân hồi là vô thuỷ vô chung. Khi Sư hỏi một đứa bé: “con vịt sinh ra từ đâu?” Em bé trả lời: “từ quả trứng.” “Vậy quả trứng sinh ra từ đâu?” em bé nói: “từ con vịt.” Và như vậy không ai xác định được con vịt có trước hay cái trứng có trước, cái gì là nguyên nhân và cái gì là kết quả. Để giải quyết vấn đề này, những tôn giáo tin vào Thượng đế đưa ra một định đề khẳng định rằng Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên và sáng tạo ra muôn loài, từ đó muôn loài liên kết với nhau để sinh sôi nảy nở. Tuy nhiên, sự nảy nở và phát triển này có nằm trong sự điều khiển của Thượng đế hay không lại là một vấn đề khác, và chúng gây ra rất nhiều giải thích, tranh cãi, luận bàn mà kết quả là ngày nay chúng ta có rất nhiều tôn giáo và học thuyết. Nhiều tôn giáo và học thuyết không phải là chuyện xấu, nhưng điều tai hại là mỗi người hay nhóm người lại thủ chấp vào những gì mình đã được dạy, đã được huân tập, hay ý kiến của những người xung quanh cho rằng đó là chân lý duy nhất, và điều này dẫn đến xung đột, chia rẽ và hận thù, chiến tranh, hay tìm cách triệt tiêu lẫn nhau.

Khác với những tôn giáo tin vào Thượng đế, Đức Phật nói rằng không có một nguyên nhân đầu tiên và duy nhất cho mọi hiện tượng. Mỗi cái đều là nhân cho một cái khác, và chính nó cũng chỉ là quả của một chuỗi các tiến trình nhân- duyên khác nhau. Như vậy nhân cũng là quả và quả cũng là nhân như câu chuyện về con vịt và cái trứng. Sau đây là một đoạn trích dẫn trong Trường Bộ Kinh, Câu hỏi của Thiên chủ Sakka liên quan đến vấn đề mà chúng ta đang thảo luận hôm nay. Cuộc đối thoại giữa Đức Phật và vị Thiên chủ diễn ra như sau:

1. Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:

- Bạch Thế Tôn, do trói buộc gì (vì nguyên nhân nào), các loài Thiên, Nhân, Asurà, Nàgà, Càn Thát Bà[i], và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù?

Ðó là hình thức câu hỏi thứ nhất, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn. Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:

- Do tật đố (ganh tỵ) và xan tham (keo bẩn), các loài Thiên, Nhân, Asurà, Nàgà, Càn Thát Bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.

Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:

- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con diệt tận, do dự của con tiêu tan.

2. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu trả lời Thế Tôn, liền hỏi câu hỏi tiếp:

- Bạch Thế Tôn, tật đố, xan tham, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì tật đố, xan tham có mặt? Cái gì không có mặt, thì tật đố xan tham không có mặt?

- Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu, ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có mặt; ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.

- Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì ưa ghét có mặt? Cái gì không có mặt thì ưa ghét không có mặt?

- Này Thiên chủ, ưa ghét do tham cầu làm nhân duyên, do tham cầu làm tập khởi, tham cầu khiến chúng sanh khởi, tham cầu khiến chúng hiện hữu. Tham cầu có mặt thì ưa ghét có mặt; tham cầu không có mặt thì ưa ghét không có mặt.

- Bạch Thế Tôn, nhưng tham cầu do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến tham cầu sanh khởi, cái gì khiến tham cầu hiện hữu? Cái gì có mặt thì tham cầu có mặt? Cái gì không có mặt thì tham cầu không có mặt?

- Này Thiên chủ, tham cầu do suy nghĩ làm nhân duyên, do suy nghĩ làm tập khởi; suy nghĩ khiến tham cầu sanh khởi, suy nghĩ khiến tham cầu hiện hữu. Suy nghĩ có mặt thì tham cầu có mặt; suy nghĩ không có mặt thì tham cầu không có mặt.

- Bạch Thế Tôn, suy nghĩ lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi? Cái gì khiến suy nghĩ sanh khởi, cái gì khiến suy nghĩ hiện hữu? Cái gì có mặt thì suy nghĩ có mặt? Cái gì không có mặt thì suy nghĩ không có mặt?

- Này Thiên chủ, suy nghĩ lấy các loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tưởng hý luận khiến suy nghĩ sanh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến suy nghĩ hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý luận có mặt thì suy nghĩ có mặt. Do các loại vọng tưởng hý luận không có mặt thì suy nghĩ không có mặt". (DN. 21)

 

Cuộc đối thoại này cho thấy Thiên chủ là một vị trời rất có trí tuệ, luôn muốn tìm hiểu vấn đề một cách rốt ráo. Vì như một vị lãnh đạo các chư thiên (năng lực thiện chủ đạo trong mỗi người hay trong vũ trụ), vị thiên chủ này muốn giải quyết vấn đề một cách có ý thức và có hệ thống, đúng phương pháp dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của vấn đề và các mối liên hệ tương quan tương tác. Đây là một phương pháp trực diện để giải quyết vấn đề rất Phật giáo: quan tâm một cách sáng suốt và khách quan nhìn nhận để giải quyết sự việc. Tuy nhiên, sự quan tâm đúng đắn này phải có nền tảng từ tình yêu thương không phân biệt và không thiên vị. Điều này là điểm khác biệt giữa sự tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm thuộc về tâm linh và tôn giáo với khoa học và kỹ thuật thuộc về chủ nghĩa vật chất. Đoạn kinh trên cũng cho thấy khái niệm về thiên thần và Thiên chủ (không phải là Thượng Đế như quan niệm của người Thiên chúa hay người Hồi giáo, Hindu giáo) trong đạo Phật rất khác với các tôn giáo khác.

Câu hỏi của Thiên chủ Sakka phản ảnh một vấn đề rất thực tế trong thế giới này: tại sao mọi người muốn hòa bình, yên ổn và hạnh phúc nhưng họ lại tự làm khổ mình và làm khổ người bằng cách gây bất đồng, bất ổn và chiến tranh? Câu trả lời của Đức Phật chỉ ra nguyên nhân là các phiền não nghiệp chướng của chúng sanh bắt đầu từ sự ích kỷ và thủ chấp. Chúng ta hãy trở lại với chuỗi nhân duyên tạo ra cái thế giới bất ổn này, nó như sau: ganh tỵ- ích kỷ có nguyên nhân trong ưa - ghét, cái này lại bắt nguồn từ tham cầu, và tham cầu lại đến từ suy nghĩ có nền tảng là vọng tưởng hý luận. Vọng tưởng hý luận chính là nhận thức sai lầm; khi các dữ liệu là không chính xác, suy nghĩ dựa trên các dữ liệu đó là tà tư duy (micchā sakappa = vitakka) và các tà tư duy đó dẫn đến ưa –ghét dựa trên sự suy xét cảm tính chủ quan của cá nhân, và nó tạo ra đố kỵ và ích kỷ đều dẫn đến hiềm thù, xung đột và chiến tranh. Khi tham cầu được thỏa mãn, con người sanh tham (ưa thích), và từ tham này khiến họ ích kỷ muốn những gì vừa đạt được chỉ thuộc về mình, không muốn chia sẻ; khi tham cầu bị từ chối, người ta nổi sân hận (ghét), và ganh tỵ với những ai đang có cái mà mình mong muốn. Và như vậy, trong vô minh, chúng sinh mong cầu hạnh phúc và an ổn nhưng lại tự tạo ra đau khổ và bất ổn trong xã hội do chúng thiếu hiểu biết về chính mình và không biết rằng những gì đang diễn ra là mang tính nhân quả, không có một Thượng đế hay Sa tăng nào sau đó. Câu trả lời của Đức Phật đưa chúng ta về với sự thực đang diễn ra xung quanh chúng ta, về bản chất của con người nói riêng và về các hiện tượng của đời sống nói chung trong mối tương quan nhân quả.

Trong đời sống hàng ngày cũng vậy, mọi sự việc xẩy ra đều có nguyên nhân và tạo duyên cho một hay nhiều sự việc khác. Sinh ra ở đâu và như thế nào cũng có nguyên nhân và duyên nghiệp của nó. Xinh đẹp hay xấu xí, khoẻ mạnh hay yếu đuối, thông minh hay tầm thường, thành đạt hay không thành đạt, vv… tất cả đều có những nguyên nhân sâu xa mà Phật giáo gọi là Nghiệp (kamma) và quả của nghiêp (kamma-vipāka).

Vậy, nghiệp là gì? Theo nghĩa đen, nghiệp chính là hành động. Hành động biểu hiện qua 3 cửa là: thân (3), khẩu (4) và ý (3). Về phương diện đạo đức, nghiệp lại được chia ra 3 loại: thiện, bất thiện và trung tính, nghĩa là không thiện cũng không ác. Về phương diện triết học, nghiệp chính là ý chí (cetanā) hay động lực (sañcetanā) sau mỗi hành động. Trong mối quan hệ tương tục nhân quả trong thời gian, nghiệp lại được đề cập đến như hiện nghiệp, quá khứ và quả báo trong tương lai. Nghiệp cũng được nói đến dưới một số thuật ngữ khác như cận tử nghiệp, thường nghiệp, đoạn nghiệp, chướng nghiệp, vv… Đây là một vấn đề khá rộng lớn, mà bài viết này không đi sâu vào giải thích tất cả các khía cạnh mang tính triết lý của chữ nghiệp. Tuy nhiên, theo sự phân tích tâm lý ở đoạn kinh trên, chúng ta cũng đã có được một cái nhìn khá thực tế về vấn đề nghiệp quả.

Trở lại với vấn đề căn bản nhất liên quan đến khái niệm về nghiệp và quả của nghiệp, đó chính là hành động và kết quả của nó. Hành động như thế nào thì được gọi là thiện, và hành động như thế nào thì gọi là ác, điều này liên quan đến quan niệm thiện- ác vốn được hình thành và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của xã hội loài người. Quan niệm thiện-ác có thay đổi theo thời gian và cũng có những điểm dị biệt tuỳ theo xã hội, cộng đồng hay tôn giáo. Trong Đạo Phật, thực hành 5 giới cấm là tránh làm ác, tu Thập thiện là làm lành, vun bồi phước đức, như bố thí, giữ giới, tu thiền ,vv. Trong phần này Sư sẽ chỉ đề cập sơ qua về 10 thiện nghiệp và 10 ác nghiệp. Đoạn đối thoại sau đây giữa Đức Phật và một nhóm Bà la môn ở Ấn độ vào hơn 2500 năm trước được ghi lại trong Trung Bộ Kinh nói về nghiệp trong ý nghĩa phổ biến nhất của từ này. Câu hỏi liên quan đến một vấn đề mà các Bà la môn trưởng giả đang quan tâm về sự sai biệt của các chúng sinh trong thế giới. Và câu trả lời của Đức Phật là những lời giải thích dùng khái niệm nghiệp- quả, vốn là một niềm tin rất thịnh hành ở Ấn độ, nhưng cách phân tích của Đạo Phật cho thấy một sự lý giải mới, khác với niềm tin thông thường của đại chúng.

 

“-- Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào nơi tốt đẹp, Thiên giới, đời này?

-- Này các Gia chủ, do nhân hành phi pháp, hành phi pháp chánh đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, ở đây có một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào nơi tốt đẹp, Thiên giới, đời này.

-- Chúng con không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt nếu không được giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng con để chúng con có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt!

-- Như vậy, này các Gia chủ, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

-- Thưa vâng, Tôn giả.

Các vị gia chủ Bà-la-môn, ở Sa-la vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Này các Gia chủ, có ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo, có ba loại ý hành phi pháp, phi chánh đạo. Này các Gia chủ, thế nào là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình. Người này lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà hạnh đối với các dục lạc, giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, nữ tù nhân, cho đến những nữ nhân đã đính ước. Như vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành phi pháp, phi chánh đạo. [10 ác nghiệp 3 qua thân, 4 qua khẩu và 3 qua ý hành]

Này các Gia chủ, có ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Này các Gia chủ, thế nào là ba loại thân hành đúng pháp, đúng thánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình; từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy; từ bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, vv. Như vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành đúng pháp, đúng chánh đạo.
Và này các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông biết", nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết"; nếu không biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người ấy nói: "Tôi thấy". Như vậy, lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân vị kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia; như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi. Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

Và này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, không nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!" Lại có người không có tâm sân, không có khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: "Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không bị oán thù, không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự thân!" Người ấy có chánh kiến, không có tưởng điên đảo, nghĩ rằng: "Có bố thí, có kết quả của bố thí, có tế lễ, có cúng dường, các hành vi thiện ác có kết quả sai biệt, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời, có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau". Như vậy, này các Gia chủ, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Như vậy, do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, này các Gia chủ, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào nơi tốt đẹp, nhân gian hay thiên giới.

Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia, vương tộc Sát-đế-lị!" Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào đại phú gia, vương tộc Sát-đế-lị. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh vào đại phú gia Bà-la-môn... đại phú gia gia chủ!" Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào đại phú gia gia chủ. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo. Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sanh thân hữu với chư thiên Tứ thiên vương... với chư thiên cõi trời Ba mươi ba... với chư thiên Dạ ma... với chư thiên Ðâu-suất-đà... với chư thiên Hóa lạc... với chư thiên Tha hóa tự tại... với chư thiên Phạm chúng... với chư thiên Quang thiên... với chư thiên Thiểu Quang thiên... với chư thiên Vô lượng quang thiên... với chư thiên Quang âm thiên... với chư thiên Tịnh thiên... với chư thiên Thiểu tịnh thiên... với chư thiên Vô lượng tịnh thiên... với chư thiên Biến tịnh thiên... với chư thiên Quảng quả thiên... với chư thiên Vô phiền thiên... với chư thiên Vô nhiệt thiên... với chư thiên Thiện hiện thiên... với chư thiên Thiện kiến thiên... với chư thiên Sắc cứu kính thiên... với chư thiên Hư không vô biên xứ thiên... với chư thiên Thức Vô biên xứ thiên... với chư thiên Vô sở hữu xứ thiên... với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thiên!" Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh thân hữu với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thiên. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo, mong ước: "Ôi, mong rằng, với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu !" Sự kiện này xảy ra, vị ấy với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chánh đạo.

Khi nghe nói vậy, các gia chủ Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vị diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện để trình bày. Và nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng, mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng!” (Saleyyasutta M.41)

 

Như vậy, tu là chuyển nghiệp hay sửa đổi thái độ và cách hành xử trong cuộc sống. Sự sửa đổi này được bắt đầu từ chánh tín (niềm tin đúng đắn) và chánh kiến (hiểu biết về nhân-quả thiện ác để rồi bỏ ác làm lành, tu tâm sửa tánh. Như vậy ai cũng phải ‘tu’ thì mới có hạnh phúc an lạc ngay trong đời này, và cũng là tạo duyên cho một sự tái sinh tốt đẹp cho đời sau.

Việc tu thường bắt đầu từ một sự nhận thức hay kinh nghiệm nào đó khiến người ta phải thay đổi cách sống và cách nhìn nhận về con người và cuộc đời. Sự kiện này có thể đến từ một cú sốc nào đó trong các mối quan hệ, cũng có thể nó đến từ một sự mất mát lớn lao khiến người ta cảm thấy hụt hẫng trong cuộc sống khiến họ thấy khổ, nó cũng có thể là một người chiêm nghiệm về tính chất vô thường giả tạm của đời sống qua những gặp gỡ, tiếp xúc và trải nghiệm. Nhưng thấy khổ và thấy vô thường giả tạm cũng chưa đủ để người ta vượt qua chúng, người ta cần phải hiểu chính mình qua các mối quan hệ và các sự kiện xẩy ra trong đời sống, và từ đó thấy ra tính vô ngã trong vạn pháp để thôi thủ chấp và tích lũy. Như vậy, đến giai đoạn cuối, tu là buông bỏ, bắt đầu từ buông bỏ tà kiến chấp thủ, buông bỏ các ác hạnh khiến mình và người đau khổ, buông bỏ các định kiến và thói quen không lành mạnh đã được điều kiện hóa, cho đến buông bỏ cả pháp môn đã từng tu tập trong một giai đoạn nào đó trên con đường giải thoát. Phải biết rằng Pháp Phật như những liều thuốc chữa bệnh cho chúng sinh, khi bệnh hết thì không cần phải uống thứ thuốc đó nữa.

     Diệu pháp là thần dược, Pháp (như dược liệu) được liệt kê là gồm 37 ‘vị’, chia ra thành 7 ‘thang’, nhưng tựu trung lại là có ‘7 pháp’ gọi là ‘bồ đề phần’. Khi Phật Pháp được xem như một con đường sống để có hạnh phúc an lạc chân thật, thì nó lại được gọi là ‘Bát Thánh Đạo’. Và khi Pháp được miêu tả như những gì cần phải huấn luyện, học tập để có được an lạc giải thoát thì chúng ta lại phải thực hành ‘Giới –Định- Tuệ”. Người Phật tử tu chính là học hỏi và thực hành những pháp trên.

 

Rằm Tháng Ba, Chùa Bồ Đề, Melbourne 10. 04. 09.


 



[i] Mong muốn khác thường coi chừng bị ‘bất thường’ đó nghe! Cổ nhân nói ‘bình thường tâm thị đạo.’

 


Tiêu điểm:

Âm lịch

Ảnh đẹp