I . Vô Minh Duyên Hành
Đôi khi ta gặp những người rất tệ hại, nhưng ngay cả
những người không được tốt đó vẫn thích được khen ngợi là tốt đẹp, cao thượng,
dễ thương, vv, và căm tức, công phẫn khi bị chỉ trích. Những người rất xấu vẫn
thích đẹp và mong muốn mình xinh đẹp hơn, hay ít nhất là cũng được khen đẹp ở
một khía cạnh nào đó. Phải chăng những người tệ hại xấu xa trong thâm tâm vẫn
thích cái tốt đẹp, thích được tán thưởng, thích được chú ý đến? Có một qui luật
chung, đó là ai cũng muốn được yêu thương, quí trọng và được chú ý đến. Nhưng
có bao nhiêu người biết rằng người khác cũng như ta vậy, có một tự ngã và muốn
được đánh giá đúng mức? Và muốn được người yêu, hãy yêu người, muốn được người
kính, hãy kính người, muốn được quan tâm, hãy quan tâm đến người khác. Nhưng cũng có những người thiển cận đến nỗi
không thấy được những nguyên tắc rất căn bản này, và luôn bị thúc đẩy bởi tham - sân – si, những năng lực không
lương thiện khiến họ nói năng hành động và cư xử một cách thô lỗ, tồi tệ đến
mức mọi người đều muốn tránh xa. Đó chính là từng cấp thấp nhất của vô minh, sự
ngu muội và thiếu hiểu biết, thiếu trí tuệ phán đoán và thiếu kỹ xảo trong
những tình huống thực tế. Tất cả các hành động xuất phát từ bản ngã, dù trực
tiếp hay gián tiếp như trên đều được gọi là vô minh duyên hành.
1. Những
cấp độ khác nhau của vô minh và hệ quả của chúng
Ở cấp độ thô thiển nhất, vô minh là sự ngu muội không biết
đâu là tốt, đâu là xấu, đâu là hữu ích, đâu là bất lợi. Những con bạc, những kẻ
trộm cướp lưu manh, những kẻ giết người, hay tra tấn hành hạ người, hành hạ súc
vật, chim, cá, (chúng sanh hữu tình), những kẻ tà gian, dâm dật vô độ, vv, đều
bị khống chế, dẫn dắt bởi cấp độ thô thiển này của vô minh. Vì nghĩ rằng nó có
thể tìm được lạc thú, hay thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn một cách nhanh chóng
bằng những hành động bất thiện, trái pháp luật, đáng bị chỉ trích công kích bởi
đại chúng và những người có trí. Những kẻ ngu muội này lầm tưởng rằng nó có thể
thoát khỏi hậu quả xấu của những hành động tồi tệ của chúng nên những chúng
sanh lầm lạc này cứ làm tới mà không cảm thấy sợ hãi hay hổ thẹn bởi những hành
động bất chính của chúng. Trong thuật ngữ Phật học, đây gọi là vô minh làm
duyên cho bất thiện hành (avijja paccayā
abhuññābhisankhārā).
Những
hành động như thế nào thì gọi là bất thiện hành? Bất thiện hành hay những hành
động bất chính cũng có những cấp độ khác nhau, từ dễ thấy, lộ liễu và trơ trẽn
đến tinh vi khéo léo và xảo quyệt. Hầu hết mọi người bình thường trong xã hội
đều thấy trộm cướp, giết người, đồ tể hay đàng điếm, bài bạc, nghiện ngập, chửi
bới tục tĩu, hay điêu ngoa dối trá là xấu ác, bất thiện và đáng bị nguyền rủa,
đáng bị trừng phạt trong mọi xã hội từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Nhưng vì
sao chúng sanh lại ngu muội, nghĩ xấu, nói xấu và làm xấu như vậy?
Khi
một con bạc tìm đến sòng bạc thường là do tham lam, muốn có tiền một cách dễ
dàng nhanh chóng. Thậm chí nó nghĩ rằng đó là cách kiếm tiền dễ dàng, nhanh
chóng và…công bằng nữa! Nó tin rằng nó thông minh khôn khéo và lọc lừa hơn đối
thủ và sẽ vớ được một khoản tiền béo bở trong đêm. Đối thủ của nó cũng nghĩ như
vậy, và hầu hết những con bạc trong sòng bạc đều có ý nghĩ tương tự. Trong sòng
bạc thường chỉ một vài người thắng bạc, còn lại là thua nhưng mọi người đều
không mất hy vọng. Hope against hope, những kẻ bài bạc bị thúc đẩy, cắn xé và
lao tới với tia hy vọng khi thì mãnh liệt, khi thì mong manh, rằng nó sẽ gỡ hoà
hay thắng trong ván kế tiếp. Và những con bạc vẫn tham lam một cách lì lợm ngồi
đó. Thứ năng lượng nuôi dưỡng nó lúc này là tham lam và giận dữ, cay cú khi nó
thua, hể hả đắc thắng khi nó được. Cho dù thua bạc hay thắng bạc thì những con
bạc đều bị thiêu đốt, thôi thúc bởi những tình cảm mãnh liệt mà trong tâm lý
học Phật Giáo gọi là bất thịện tâm. Những bất thiện tâm này xuất phát từ vô
minh, hay nói bằng ngôn ngữ bình dân, đó là sự ngu muội, sự thiếu hiểu biết và
khả năng nhìn nhận, suy tư một cách đúng đắn.
Vì
chúng sanh không tin vào nhân quả thiện ác, chúng không biết hoặc không tin
rằng những hành động bất chính sẽ mang lại những hậu quả tai hại ngay trước mắt
cũng như trong lâu dài. Khi tức giận người ta có thể đánh đập người hay đánh
đập, gây thương tích trên cơ thể và tâm hồn kẻ mà họ căm ghét (cho bõ ghét!)
Khi tham lam, người xấu có thể giết người cướp của hay lừa đảo, mưu mẹo để đạt
lấy của người, hay trộm cắp tinh vi, hay gian dối lang chạ, hay bài bạc rượụ
chè. Cũng có khi người ta đến sòng bạc hay quán rượu chỉ để tìm quên những đau
khổ khó khăn mà họ không thể đối mặt để giải quyết. Những lạc thú tạm thời do
những hành động bất chính kể trên đem lại có thể làm cho kẻ lầm lạc cảm thấy
thoả mãn nhất thời và hắn có thể tiếp tục làm ác, hay thúc đẩy khuyến khích kẻ
khác làm ác. Những kẻ ngu muội và thiển cận này không biết rằng giết người hay
đánh người thì sớm hay muộn gì cũng bị người giết lại hay đánh lại. “Hại nhân
nhân hại sự này tại đâu”
Những kẻ trộm cướp gian dối hay lừa đảo thì có thể hưởng
thụ những thứ mà chúng đã đạt được một cách bất chính chừng nào mà hành động
của chúng chưa bị phát giác. Điều gì sẽ xẩy ra khi chúng bị phát hiện? Bị tù
đày, bị khảo tra, bị kết án, bị trả thù, bị khinh chê, bị xa lánh, bị tịch thu
tài sản… Ngay cả khi chưa bị phát hiện, những kẻ lầm lạc này cũng không được
sống hoàn toàn yên ổn. Chúng lo lắng và sợ hãi những hành động bất chính của
chúng có thể bị phát hiện, chúng tìm mọi cách để che đậy, lấp liếm những tội đã
phạm phải. Có khi để che đậy tội ác đã làm chúng phạm thêm những tội ác mới, để
chứng tỏ gian dối là thật, chúng phải gian dối nhiều hơn nữa, và trong vòng
luẩn quẩn này chúng cứ trôi lăn, từ sự mù quáng này đến sự mù quáng khác. Trong
trường hợp này họ là những chúng sanh được gọi là đi từ bóng tối vào bóng tối.
Đến
một lúc nào đó, nghĩ ác, nói ác, làm ác trở thành một thói quen gần như không
thể nào sửa đổi. Những chúng sanh tội nghiệp này được gọi là incorrigible trong
tiếng Anh, nghĩa là đã quá hư hỏng đồi bại, không thể bỏ qua hay tha thứ. Một
số những chúng sanh loại này nhận lãnh án tử hình hay chung thân, khổ sai trong
một xã hội có pháp luật nghiêm minh, rõ ràng. Một số khác do nghiệp quả chưa
chín mùi, tạm thời thoát khỏi pháp luật thì cũng thường bị chê bai, nguyền rủa.
Có chăng chỉ có những kẻ xu nịnh xấu xa tuyên dương họ khi họ còn có quyền lực
và tiền bạc. Những kẻ này khi ác nghiệp chưa chín mùi, chưa trổ quả khổ đau đôi
khi còn dương dương tự đắc, vỗ ngực ca tụng xấu ác một cách trơ trẽn, tuyên bố
rằng không có nhân quả nghiệp báo gì cả. Chúng có thể nói rằng đạo đức, nhân
quả nghiệp báo và sự thánh thiện chỉ là những giáo lý nhảm nhí vô căn cứ, và
không chứng minh được trong một thế giới nhiễu nhương đầy cám dỗ bởi vật chất
và lạc thú, trong một thế giới mà sống gấp, sống vội kiểu ‘mì ăn liền’ thường
được quảng cáo và tán dương khắp nơi. Ở đây, những hành động không lương thiện
được dẫn dắt bởi tà kiến.
Những
người cờ bạc và tửu quán không phải do tham lam, nhưng để tìm quên những khổ
đau thầm kín (mà họ không dám đối mặt giải quyết) cũng chỉ là một giải pháp tai
hại chỉ có những kẻ thiếu suy nghĩ mới làm. Vì rằng cờ bạc tửu điếm không những
không giúp người đó thoát khỏi tình cảnh
đang vướng mắc, mà còn tạo thêm nhiều rắc rối khác như khánh kiệt tài sản, trở
nên nghiện ngập, vướng bệnh xã hội, vv. Và như vậy những kẻ yếu đuối này càng
ngày càng lún sâu vào con đường truỵ lạc và tội lỗi. Đoạn cuối của những chúng
sanh tội nghiệp này thường rất bi thảm. Họ là những kẻ uống nước mặn để thoả
mãn cơn khát tạm thời, càng uống càng khát thêm, và cuối cùng chết vì bị nhiễm
độc. Dạng vô minh này được tâm lý học gọi là ‘hội chứng tự ti mặc cảm’-
(inferior complex).
Ở mức độ trung bình,
vô minh là sự không thấu hiểu nguyên nhân, gốc rễ của các hành (saṅkhārā, pháp
hữu vi, hay pháp được tạo thành, pháp được cấu tạo). Phần nhiều chúng sanh nằm
trong cấp độ này của vô minh. Các hành ở đây chỉ cho hai loại hành: thiện hành
và ác hành. Thiện hành là hành động, nói năng và suy nghĩ một cách thiện xảo và
chín chắn đưa lại lợi ích cho mình, cho người hay cho cả hai. Bất thiện hành là
những hành động, nói năng và suy tư thiếu tử tế, thiếu khôn ngoan và không sáng
suốt khiến dẫn đến hại mình, hại người, hay hại cả hai. Những người này khi thì
làm tốt, nói năng và cư xử khôn ngoan khiến được lợi ích và ca ngợi, nhưng khi
khác lại làm xấu, nói năng và cư xử một cách thiếu khôn ngoan tử tế khiến hại
mình, hại người.Tuỳ điều kiện hoàn cảnh người đó có vẻ tốt, nhưng trong một
điều kiện hoàn cảnh khác lại xấu xa tồi tệ. Do đâu những người này có những
hành vi hay cách cư xử bất nhất như vậy? Do họ không có khả năng nhìn nhận và
suy tư một cách sáng suốt và sâu sắc. Họ bị ảnh hưởng bởi những người quanh họ,
bởi sự tuyên truyền quảng cáo, và bởi vẻ xuất hiện bên ngoài, không thấy được
thực chất bên trong.
Trong môi trường tốt
và được giáo dục chu đáo, những người này trở thành tốt, đôi khi khả kính và
đáng yêu. Nhưng trong môi trường xấu hay trong hoàn cảnh khó khăn, họ sẵn sàng
(đôi khi do dự) làm ác, miễn sao tạm thời thoát khỏi tình trạng túng quẫn; họ
không nghĩ đến hậu quả xấu có thể đối mặt trong tương lai. Do khi thiện, khi
ác, khi xấu khi tốt bất nhất như vậy nên đời sống của những người này là sự đắp
đổi giữa hạnh phúc và khổ đau. Trong ngôn ngữ bình dân gọi là “khi lên voi, khi
xuống chó”.
Những người này ít
nhiều có hiểu biết đâu là tốt, đâu là xấu, những gì đem lại lợi ích và những gì
đem lại bất lợi, nhưng họ thường chỉ thấy biết trên bề mặt của vấn đề/ hiện
tượng mà không thấy bản chất của vấn đề/ hiện tượng. Họ là những kẻ “theo
dòng”, hay gió cuốn chiều nào thì lay theo chiều đó, trôi nổi dật dờ theo trào
lưu và xu hướng chung của xã hội. Trong số họ, nếu có đủ thông minh, tài trí và
gặp thời thì có thể trở thành những “ngôi sao” hay những nhà lãnh đạo, có khi
giàu có và nổi tiếng, thậm chí còn có thể trở thành thần tượng cho đám đông.
Nhưng khi được đám đông hoan hô và tán thưởng không bõ cho khi bị nguyền rủa và
chà đạp cũng bởi đám đông đó, hay bởi một đám đông khác bất đồng quan điểm,
khác niềm tin, đối nghịch.
2. Nguồn gốc và Động lực
Trong tâm lý và triết
học Phật Giáo, nguyên nhân hay động lực được chia thành hai nhóm.
(1) Thiện căn (kusalamūla) bao gồm vô tham (không keo
kiệt bủn xỉn, không ham muốn nhiều, tri túc hay biết đủ); vô sân (từ hoà và bi
mẫn); và vô si (hiểu biết và sáng suốt). Những suy nghĩ, lời nói và hành động
bắt nguồn từ một trong ba thiện căn này được gọi là thiện hành (puññābhisankhārā). Thiện hành cũng
thường được miêu tả như là bố thí, cúng dường, biết ơn, cung kính, hoà ái, có
tấm lòng rộng rãi và bao dung, hay làm từ thiện, ham học hỏi và ưa gần gũi các
bậc thiện tri thức, hoan hỷ chỉ bày và giúp đỡ, khuyến khích người cùng làm
thiện, trì giữ năm giới và nói chung là hành Thập Thiện, Thiền định, vv.
(2) Bất thiện căn (akusalamūla) bao gồm tham lam, sân hận,
và si mê. Những hành vi xuất phát từ những bất thiện căn này được gọi là bất
thiện hành (abhuññābhisankhārā).
Những bất thiện hành này đã được đề cập đến ở những trang trước.
Hầu hết những hành
động xấu ác, phạm pháp và không thiện xảo đều bắt nguồn từ cái tâm bất chính bị
vô minh hay si mê dẫn dắt. Nhưng cũng có những hành động tưởng như tốt, có vẻ
như từ thiện và khôn khéo nhưng lại chỉ xuất phát từ động lực vụ lợi, nghĩa là
tham. Đôi khi người ta làm phước chỉ vì tham lam hay ngã mạn như muốn được khen
ngợi là người tốt, muốn được chú ý đến, muốn được quả báo tốt đẹp cho đời này
hay đời sau, muốn được sanh lên cõi trời, vv. Đôi khi người ta hô hào cổ vũ
người khác làm điều mà họ cho là tốt như hy sinh cho tổ quốc đồng bào, yêu nước
hơn yêu thân, vv, nhưng bản thân người hô hào lại không làm như vậy. Hoặc những
điều mà họ cho là tốt đẹp thực ra chỉ là kiến chấp có gốc rễ trong si mê và sân
hận dẫn dắt người tới kỳ thị, phân biệt và tàn nhẫn. Những nghiệp tạo tác như
vậy được gọi là ‘nghiệp lốm đốm’- nghĩa là những hành động có động lực không rõ
ràng minh bạch.
Có khi những động lực
có vẻ như tốt nhưng lại cho kết quả không tốt đẹp gì. Người ta nói về một xã
hội “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, một xã hội không có tư hữu và cạnh
tranh nhưng kết quả lại khá bi thảm vì chúng sanh phần lớn lại khá tham lam,
lười biếng và vô trách nhiệm. (Tư hữu và cạnh tranh thường bắt nguồn từ tham
lam và ngã mạn). Chúng ta đã chứng kiến nền kinh tế tập trung sụp đổ ra sao vì
nó gián tiếp tạo ra nạn cửa công cửa quyền, nạn quan liêu, và bao cấp dẫn đến
nạn vô trách nhiệm. Chung qui lại tất cả những hiện tượng đó đều bắt nguồn từ
một ý tưởng thiếu sáng suốt và thiếu thực tế mặc dù nhìn qua thì ý tưởng đó rất
cao thượng và có vẻ logic. Đó chính là vô minh. Mọi ý tưởng đều không nằm ngoài
vô minh, dù là Xã hội chủ nghiã (socialist) hay Tư bản chủ nghĩa (capitalist), dù là kinh tế thị trường hay
kinh tế tập trung. Một ý tưởng (vô minh) có thể đưa người ta đi xa vạn dặm
(hành). Đôi khi có vẻ như thành công, hạnh phúc và thoả mãn. Nhưng rồi thời
cuộc đổi thay, những lý tưởng, tiền đồ và sự nghiệp mà ta đã dày công tạo lập
bỗng chốc sụp đổ như lâu đài trên cát. Người ta mất phương hướng, người ta
tuyệt vọng, người ta thở dài than thân
trách phận, hay trở nên bi quan yếm thế, hay cay cú, hoài nghi…
Xã hội loài người đã
có những bước tiến bộ khá ngoạn mục. Từ thời đại đồ đá chuyển đến thời đại đồ
đồng. Từ đời sống du mục đến đời sống canh tác định cư và đô thị hoá; từ nền
kinh tế nông nghiệp đến công nghiệp và thương mại. Cùng với sự phát triển về
kinh tế và vật chất, con người cũng có vẻ ngày càng văn minh và cư xử với nhau
tử tế hơn chăng? Trong một giai đoạn lịch sử, xã hội loài người đã từng tồn tại
chế độ nô lệ. Những người nô lệ thường bị đối xử tàn bạo như súc vật, họ không
có quyền gì cả, ngay cả quyền làm người. Thật đáng tiếc, trong xã hội được gọi
là văn minh và tiến bộ của chúng ta ngày nay tệ nạn này vẫn còn, có những người
chồng, người cha xem vợ con như nô lệ. Trong một số hệ thống tôn giáo và thần
quyền, người phụ nữ cũng bị lợi dụng và áp bức bởi những luật lệ và cách cư xử
rất thiếu công bằng và phi nhân bản. Những hành động tàn bạo này bắt nguồn từ ý
tưởng chủ-tớ, sang-hèn, có quyền lực và không có quyền lực, ông chủ và kẻ làm
thuê, tư tưởng trọng nam khinh nữ, vv.
Mọi ý tưởng hay tư
tưởng xuất phát từ vô minh, dù mới hình thành hay đã tiêm nhiễm nhiều đời (có
tính truyền thống), đều có khả năng đẩy người ta tới hành động bất thiện và phi
nhân bản. Mọi tư tưởng hay ý tưởng khiến người ta đối xử tồi tệ với nhau đều
bắt nguồn từ vô minh. Ở cấp độ này vô minh là sự thiếu hiểu biết về những chân
lý trong đời sống mà thuật ngữ Phật học gọi là Tứ Diệu Đế- bốn sự thực cao quí, và Tam Pháp Ấn- ba dấu hiệu không đổi của mọi hiện hữu. Vì vô minh
người ta không thấy rằng bản chất của đời sống vốn không toại nguyện. Vì sao
đời sống lại không toại nguyện? Phải chăng Đạo Phật dạy người ta cái nhìn yếm
thế bi quan trước cuộc đời?
3. Vô thường
Chúng ta đều thấy
rằng có những người đủ tài trí thông minh, may mắn và đủ khả năng tạo dựng hạnh
phúc, thành công trong đời họ, như vậy không phải là họ đã có được một cuộc đời
toại nguyện ư? Vâng. Chúng ta hoàn toàn có thể đạt được hạnh phúc và ít nhiều
những mức độ thoả mãn nào đó trong cuộc sống. Khi nói về Sự Thật của Khổ (dukkha sacca), Đức Phật không phủ nhận
hạnh phúc của thế gian, nhưng ngài hướng chúng ta đến một cái nhìn sâu xa hơn,
đó là những gì đi kèm với cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc và toại nguyện trong
đời. Những đổi thay của thiên nhiên, những đổi thay của thời cuộc, những đổi
thay của lòng người khiến mọi vật thể, mọi hiện tượng, mọi ý tưởng, mọi tình
cảm và mọi mối quan hệ trở nên bấp bênh không bền vững. Khi những đổi thay theo
chiều hướng mà ta mong muốn thì hy vọng tăng trưởng, ta nuôi hy vọng và ít
nhiều cảm thấy hạnh phúc thoả mãn với đời sống. Khi những sự đổi thay không như
ta mong cầu thì ta thất vọng, đau khổ và bất mãn. Nhưng thử hỏi có ai có thể ra
lệnh cho thời tiết đừng đổi thay? Có ai không già và không chết? Có ai luôn
luôn dịu dàng, lịch lãm, phóng khoáng và hào hiệp như khi đang yêu? Đổi thay
chính là qui luật duy nhất không thay đổi, nhưng vì thủ chấp, bám víu và ngu
muội chúng ta làm như mọi vật phải theo ý ta, và chúng ta đau khổ vì sự ngốc
nghếch này không ít.
4. Khổ và Nguyên nhân của Khổ
Tất cả mọi người đã được sinh ra đều bình đẳng
trước đau khổ. Đau khổ là hệ quả của bám níu và thủ chấp vốn không chịu chấp
nhận sự đổi thay tất yếu. Khi còn trẻ tuổi ta mong rằng lớn lên ta sẽ như thế
này hay như thế kia. Dù rõ rệt hay tiềm ẩn, mỗi người trẻ tuổi đều tự xây một
hình mẫu nào đó trong đầu và cố gắng để đạt được, hay gần hơn với thần tượng.
Đối diện với thực tế không như ý, nhiều thanh thiếu niên đã bất mãn, mất phương
hướng và niềm tin, thậm chí chọn biện pháp tự tử để kết thúc một cuộc đời vô
nghĩa. Sự thất vọng và bất mãn có nguồn gốc từ việc bám níu, thủ giữ vào những
giá trị, chuẩn mực định sẵn trong đầu những ai thiếu thực tế. Nếu họ đừng xây
những lâu đài trên cát, hay ít nhất cũng biết rằng mộng tưởng chỉ là những trò
chơi lãng mạn không đi tới đâu, và nếu họ biết quay trở về với những gì chỉ là
bình thường của cuộc sống,.. thì có lẽ nhiều bi kịch trong cuộc đời đã không
xảy ra.
Đau khổ vì phản ứng
một cách thiếu sáng suốt trước những đổi thay bất ngờ có thể gây ra một chuỗi
sự kiện đau đầu không kiểm soát được. Chẳng hạn bạn đang lái xe vào giờ cao
điểm, nạn kẹt đường đang là chuyện thường ngày trên lộ trình mà bạn phải đi
qua. Có ai đó làm một cú rẽ bất ngờ ngay trước mũi xe bạn, bạn chỉ kịp thắng xe
vừa đủ tránh tai nạn. trong đầu bạn hình thành những ý nghĩ bực tức và giận dữ.
Không kiềm chế được bạn bóp còi inh ỏi, hay thậm chí chửi rủa kẻ đó. Những
chiếc xe phía sau cũng mất kiên nhẫn và bóp còi hay tìm cách nhích lên bất chấp
luật lệ. Nếu tai nạn xẩy ra, và các tài xế vẫn còn đủ mạnh để xông vào nhau hơn
thua, có lẽ một cuộc ẩu đả đã xẩy ra mà hậu quả còn tai hại hơn chỉ là một vụ
tai nạn. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong vô số tình huống bi thảm mà những phản
ứng tiêu cực có thể đem lại. Một trong chúng là những cuộc vận động quân sự và
những cuộc chiến tranh được mệnh danh là ‘chống khủng bố’ mà chính phủ Mỹ đã
khởi xướng nhằm trả đũa cho cuộc khủng bố ngày 11 tháng chín (11 September).
Đau khổ vì những sai lầm đã qua, đau khổ vì
những hậu quả tai hại trong hiện tại, đau khổ vì không biết điều gì sẽ đến ngày
mai. Và chung qui lại, có bốn điều mà mọi người đều gặp trong cuộc sống, cho dù
là ông vua, là hoàng tử, là tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng cho đến kẻ đầu đường
xó chợ, kẻ ăn mày vất vưởng không nhà cửa thân thích, tất cả đều bình đẳng
trước sanh, già, bệnh, chết. Bạn có thể nói: Sanh, già, bệnh, chết là lẽ tự
nhiên, hà cớ gì phải bận tâm đến chúng?
Có
ai trong chúng ta khi sinh ra không cất tiếng khóc vì bỗng dưng phải tiếp xúc
với một môi trường hoàn toàn xa lạ? Đây chỉ mới là điểm khởi đầu cho một đời
sống bấp bênh mà không phải lúc nào chúng ta cũng có thể làm chủ tình huống. Ai
cũng muốn mình luôn xinh đẹp, khoẻ mạnh, vui tươi và hấp dẫn, nhưng những ước
muốn này phần lớn là không được toại nguyện. Có ai trong chúng ta không phải
già và chết không? Cho dù chẳng ai muốn già cả, tuổi già vẫn cứ đến, bệnh tật
vẫn cứ đến không thèm hỏi ý kiến của chúng ta. Và những gì mình muốn mà không
được, không muốn nhưng vẫn phải chấp nhận đều được cho là khổ. Trong cuộc đời,
chúng ta phải gặp gỡ và chung sống với những người mà ta không ưa, không
thương, không yêu mến, điều này thật không dễ chịu một chút nào; trong khi đó
những gì ta thương yêu, trìu mến và thiết tha thì lại phải chia xa, cách trở.
Dù không rơi nước mắt thì tim ta cũng đã bao phen nhói đau vì phải rời xa
người/vật/ hay nơi chốn mà ta đã từng yêu mến- đây gọi là khổ của sự chia ly.
Có những cuộc chia ly chỉ là tạm thời, và dù khổ sở, người ta vẫn nuôi hy vọng
gặp lại người/ vật/nơi chốn mình thương yêu, nhưng cũng có những cuộc chia ly
vĩnh viễn mà nỗi đau là gần như không thể nào hàn gắn.
Lại có nhưng nỗi đau
do thay lòng đổi dạ. Người ta yêu mến không luôn luôn dễ thương, người đó cũng
có những cá tính, những đỏng đảnh đồng bóng thất thường. Do đó từ yêu thành
ghét, từ thương thành giận, từ bạn thành thù, và ngược lại. Không có gì đứng
yên, không có gì là mãi mãi, nhưng vì thủ chấp bám níu vào những ý tưởng ngốc
nghếch của mình, ta không đối diện người, vật và cảnh như bản chất đổi thay vốn
có trong đó, nên ta phải khổ khi nhận ra sự đổi thay. Những khổ thương, khổ
sầu, khổ luyến ái biệt ly, khổ tương tư mòn mỏi, khổ day dứt bi ai, mỗi mỗi
những nỗi khổ chồng lên nhau thành một đống khổ!
Đời người chỉ vẻn vẹn
trong ngoài một trăm năm. Trong suốt quảng thời gian đó chúng ta đã trải qua
bao thăng trầm, bao sự kiện mà phần nhiều là bất như ý muốn. Chúng ta hy vọng
rồi thất vọng, hạnh phúc và khổ đau, thành công và thất bại, được khen ngợi,
được thương yêu, nhưng cũng nhiều khi bị chê bai, chỉ trích và ghét bỏ. Những
bước thăng trầm trong cuộc đời không ai không trải qua dù ít dù nhiều.
Cuộc đời cũng giống
như những con sóng: lên rồi xuống, dạt vào bờ tan biến để cho những con sóng
khác tràn lên, nhưng chẳng có con sóng nào cứ lên cao mãi mãi mà không có lúc
tụt xuống rồi tan biến. Có những con sóng mãnh liệt vỗ vào ghành đá tung bọt
trắng xoá, có những con sóng cuồng nộ lao vào bờ, nghiền nát và đập tan mọi lực
cản, nhưng cũng có những con sóng chỉ hiền hoà, lăn tăn dịu dàng êm ái vỗ nhẹ
vào bờ. Những cuộc đời mà ta đã gặp cũng vậy, nhưng rốt cuộc rồi ai cũng phải
chết, những hy vọng rồi thất vọng, những hạnh phúc và khổ đau, những được và
mất trong cuộc đời chỉ như phù du ảo hoá. Không nhận biết được điều này, bị mê
hoặc bởi ý thích và đam mê, người ta lao vào cuộc đời như lao vào cuộc chiến,
cố gắng giành giật hơn thua. Trong chợ đời không ít lúc ta phải chứng kiến cảnh
cá lớn nuốt cá bé, cay đắng ta thở dài mặc nhiên công nhận “chân lý thuộc về kẻ
mạnh”. Vì ích kỷ và ngã chấp, người ta có thể chà đạp lên nhau để đạt được điều
mình muốn. Khi không đạt được điều mình mong muốn hay không thoả mãn với đối
tượng mà mình muốn bóc lột, người ta sân hận, tức tối và muốn đập phá, nghiền
nát đối tượng. Tất cả những phản ứng này đều không ngoài “vô minh duyên hành” (avijja paccayā saṅkhārā) mà kết cuộc “là tạo dựng một đống khổ đau” (dukkhakkhandhassa samudayo hoti).
Bản chất của cuộc đời
là bất toại nguyện. Cho dù chúng sanh có nhận ra điều này hay không thì chân lí
này không vì vậy mà thay đổi. Đây không phải là cái nhìn bi quan yếm thế, mà là
cái nhìn thực tế và giác tỉnh trước sự thật. Chúng sanh hầu hết đều không thấy
biết điều này nên cứ lao vào “cuộc chơi” như những con thiêu thân lao vào bóng
đèn. Chỉ khi thấy biết bản chất ảo hoá phù du của “cuộc chơi”, người ta mới lùi
lại để nhìn nó từ một góc độ khác, một cái nhìn sâu hơn, xuyên suốt bề mặt của
hiện tượng để thấy bản chất và nguyên nhân của những hiện tượng đó. Trong thuật
ngữ Phật học gọi thái độ này là nhận chân nguyên nhân của đau khổ và bất toại
nguyện- hai mặt của một vấn đề góp phần vào nhận thức ra Tam pháp ấn.
5- Nguyên nhân của Bất Toại Nguyện
Nếu như vô minh dẫn
dắt chúng sanh đến hành động tạo tác thiện ác để rồi phải gặt hái, thọ nhận
những khổ vui trong cuộc đời, thì ái dục (yêu-ghét, thương-giận, thích-không
thích, vv) chính là sợi dây trói buộc, là vòng lưới bủa vây khiến chúng sanh cứ
luẩn quẩn trong một vòng xoáy không lối ra gọi là luân hồi.
Vì vô minh, chúng
sanh thường phản ứng theo bản năng, tìm cách giành lấy và cố giữ những gì ta
thích, những gì khiến ta dễ chịu (lạc thọ). Chúng ta bị thu hút về xu hướng này
một cách gần như vô thức, và cũng gần như vô thức, ta phản ứng một cách khó
chịu với những gì mà ta không thích, ta tránh xa hay cố gắng đẩy lùi những cảm
giác khó chịu (khổ thọ). Chính những phản ứng này khiến ta khổ hơn những diễn
biến tự nhiên. Gì gọi là diễn biến tự nhiên? Đổi thay gọi là diễn biến tự nhiên,
nhưng ta không muốn thay đổi nên khi thay đổi đến ta tiếc nuối, bất mãn và khó
chịu. Những gì ta không thích, ta muốn nó thay đổi, ít nhất là đổi vị trí, đừng
phải gần nó nữa, nhưng chúng dường như khư khư bất biến khiến ta buồn bực sân
hận nhiều hơn. Thực ra không có gì bất biến cả, nhưng cảm giác của chúng ta vốn
chủ quan và cảm tính nên ta thấy thời gian tâm lý. Thuật ngữ Phật học gọi đây
là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Tìm kiếm và ngụp lặn, đắm đuối trong dục lạc
hưởng thụ gọi là dục ái. Duy trì và tiếp nối, leo thang và cải thiện những
hưởng thụ và khoái lạc gọi là hữu ái. Né tránh và xua đuổi, cố gắng dập tắt hay
chặn đứng những gì ta không ưu, không muốn gọi là phi hữu ái. Nền tảng của tất
cả những hành động và phản ứng kể trên chính là vô minh.
Vô minh trong thuật
ngữ Phật học không phải bao giờ cũng dẫn đến bất thiện hành. Ở đây vô minh
chính là thấy rằng sinh tử luân hồi là vui, hay nói cách khác chúng sanh không
thấy nguy hiểm trong sinh tử, họ đắm nhiễm và thoả thích trong bất cứ cảnh giới
nào mà họ đã được sinh ra. Ví dụ như trong cảnh người, một người đàn ông sẽ
thấy người đàn bà là hấp dẫn nhất, và ngược lại, người đàn bà cũng thấy người
đàn ông là hấp dẫn nhất; nhưng ở trong cảnh thú, ví dụ như con gà trống sẽ thấy
con gà mái là hấp dẫn nhất, và ngược lại; những loài thú khác cũng thấy những
nhân vật đồng loại với chúng là hấp dẫn, là xinh đẹp nhất. Người viết bỗng nhớ
rằng ai đó đã nói rằng đối với con cóc đực thì con cóc cái là sinh vật dễ
thương nhất trên thế gian! Có một câu chuyện hài hước kể rằng có một người đàn
ông nọ yêu thương một người đàn bà chột mắt, anh ta thấy rằng tất cả các phụ nữ
khác trên thế gian đều thừa một mắt! Điều này cũng làm cho vấn đề tự tử vì tình
(hay vì tiền, vì danh dự, gì gì đi nữa) trở nên khá dễ hiểu. Trong mắt người
trí những trò ngốc nghếch đó thật là vô minh. Vô minh này từ đâu ra?
Vì tâm chúng sanh đã được điều kiện hoá bởi
những yếu tố khiến sinh ra trong một hình hài nào đó, trong một cảnh giới nào
đó nên chúng không thấy được những gì không thuộc về tầm nhận thức của nó. Ví
dụ như một đứa trẻ sinh ra ở nông thôn, suốt thời ấu thơ nó chỉ biết ruộng
đồng, cây cỏ, chim muông, v.v, đối với nó những đồ chơi xa xỉ ở thị thành chẳng
có ý nghĩa gì cả; và ngược lại, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên giữa bốn bức tường
xi-măng, được vây bọc bằng những toà nhà cao từng của thành phố thì thường
không thấy hứng thú gì giữa cảnh thiên nhiên. Một ví dụ khác là với một người
không hiểu biết gì về âm nhạc, gảy đàn cho họ nghe chẳng khác gì đàn khảy tai
trâu. Cách thẩm thấu về thức ăn, mùi vị, thẩm mỹ, v.v cũng như vậy.
Chúng
ta lệ thuộc vào những thói quen mà chúng ta đã được nuôi dưỡng, vào cách giáo
dục mà chúng ta đã thọ nhận, vào môi trường văn hoá mà ta đã lớn lên. Nhân cách
và cá tính của con người được hình thành và phát triển tùy
thuộc vào những điều kiện như gia đình (cho gene di truyền, cho môi trường tuổi
thơ,..), kinh tế – xã hội, văn hoá - nếp sống, vv. Những ‘vật liệu’ thô này
điều kiện hóa cái bản ngã được xây dựng do chấp thủ vào chúng, đồng hoá với
kinh nghiệm mà cho là ‘của ta’, là ‘ta’. Ta cho là ngon, là đẹp, là thú vị với những gì ta đã quen
thuộc, và ngược lại ta cho là dở và có phản ứng nếu những thứ đó xa lạ với ta.
Những giá trị mà chúng ta gắn lên các đối tượng chỉ là những giá trị tương đối
và hữu hạn, nhưng cái tâm vô minh lại cho rằng chúng là tuyệt đối và vô hạn. Từ
sự vô minh này dẫn đến sự bám víu, thủ giữ vào những giá trị đã được xác nhận
(bằng cái tâm đã bị điều kiện hoá), và chối từ, đả kích những gì xa lạ hay
không thuộc về ‘mode’ của nó. Bị hấp dẫn về những gì được cho là an toàn, dễ
chịu, hợp ý,.. hay phản ứng lại những gì không hợp ý, là khó chịu, là không dễ
thương,.. là hai mặt của tâm tham ái. Những phản ứng kiểu này có gốc rễ từ vô
minh.
Vô minh khiến người
ta có những phản ứng cực đoan vì tin tưởng rằng những giá trị mà mình đang nắm
giữ là giá trị chuẩn mực duy nhất. Chiến tranh, giết chóc, tàn sát và nhiều
hành động bất nhân khác đều có thể tìm thấy nguồn cội trong vô minh. Vô minh và
thủ giữ dẫn người ta đến thái độ thiếu khoan hòa, thiếu bao dung và phi nhân
bản. Vô minh khiến người ta thấy những giá trị giả danh, tạm bợ và phiến diện
mà không thấy được bản chất thực sự của hiện hữu hay không thấy được mối tương
quan, tương duyên của các hiện hữu. Ở cấp độ này vô minh được gọi là kiến chấp.
Từ sự nhận thức hẹp hòi (do đã bị điều kiện hoá) người ta đi đến chỗ đả phá,
hay cưỡng bức, triệt tiêu những gì không đồng quan điểm, không đồng giá trị
trong nhận thức của họ. Những cuộc chiến tranh tôn giáo, những xung đột chính
trị thường bắt nguồn từ kiến chấp.
Ở một mức độ vi tế
hơn, vô minh chính là ngã chấp. Tại sao có những yêu-ghét, thương-thù, thích-
không thích? Vì có Ta, có Người. Những gì thuộc về ta thì thương yêu, gần gũi,
những gì thuộc về người thì xa lạ, dè bỉu. Chúng ta thường thiên vị cho những
gì mà chúng ta thương yêu, và ngược lại, thành kiến với những gì mà chúng ta
không ưa. Nhận thức về một cái Ta tồn tại độc lập và tách biệt, đặc biệt với
những gì không phải là Ta khiến chúng ta có những yêu ghét và sợ hãi phát sinh
từ những yêu ghét đó. Cái ta này muốn được thương yêu, muốn được kính trọng,
muốn được quan tâm đến, và nói chung là nó muốn những gì khẳng định sự tồn tại
độc nhất vô nhị của nó. Cái ta này không muốn bị chia sẻ, và nó sẵn sàng làm
bất cứ điều gì để ngăn chặn điều đó. Cái ta này tìm mọi cách xây những bức
tường thành kiên cố mà vật liệu của nó là những cảm giác, những ý tưởng và tình
cảm, những mối quan hệ và hoàn cảnh dẫn đến cái hình tượng ‘ta’ trong tâm mỗi
người. Chúng ta bám níu vào những hình tượng ‘ảo’ này, tìm mọi cách để bảo vệ
và duy trì nó. Chúng ta cảm thấy thương tổn và căm hận khi nó bị xúc phạm.
Chúng ta cảm thấy sợ hãi khi nó có nguy cơ tan rã. Chúng ta sợ sự không tồn
tại, sự vô nghĩa và sự lãng quên.
Tất cả những hiện tượng kể trên chính là Ái - Thủ - Hữu, nguyên nhân của Sinh trong các mắt xích duyên sinh
làm thành vòng quay bất tận của hiện hữu mà chúng ta gọi là cuộc đời. Ái- Thủ-
Hữu cũng chính là Hành- tạo tác hay sáng tạo, vẽ vời trên nền tảng của vô minh. Trong Tứ Diệu Đế, vòng quay
bất tận này làm thành Khổ Đế - sự thực
về khổ và Tập Đế - sự thực về nguyên nhân của khổ trong mắt các bậc thánh. Khi
hành giả nhận chân ra chúng, chúng mất đi vẻ thâm u và bí ẩn. Nhưng có gì là
cao thượng trong đau khổ và sự hình thành đau khổ? Vâng. Chúng ta sẽ tìm ra vẻ
đẹp trong khổ đau và sự mầu nhiệm mà những kinh nghiệm đó có thể thức tỉnh
chúng ta trong dòng đời có vẻ như mù loà vô nghĩa này. Phần hai của bài viết
này sẽ đề cập đến những giá trị đó dưới tiêu đề Bi-
Trí- Dũng và Vô ngã- Vị tha.