07-(A)Về Văn Học (1)NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA ĐẠO PHẬT
CHO DÂN TỘC, DƯỚI TRIỀU LÝ (1010 - 1225)
Hòa Thượng. Thích Đức Nhuận
Về
Văn Học - Trước khi tìm hiểu nền văn học đời Lý, thiết tưởng cũng nên
nhìn lại hai thời Đinh - Lê xem thế đứng của Phật giáo lúc ấy đã có
những ảnh hưởng gì để tự đó, chúng ta khả dĩ có một nhận định chính xác,
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi viết trong Việt Nam Cổ Văn Học Sử:
"Đạo Phật truyền bá trong dân gian đã rộng. Một vài đạo viện vừa là chỗ
tu hành vừa là nơi học tập, đã sản xuất được số đông nhà thơ, nhà văn,
trong số đó có nhiều nhân tài ra giúp việc nội chính cũng như ngoại giao
cho triều đình.
"Năm 971, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi, lúc ban định chức tước cấp cho
các quan cũng định luôn giai phẩm cho hàng tăng đạo có công giúp nước.
Đứng đầu có chức Tăng thống trao cho Ngô Chân Lưu và ban hiệu là Đại sư
Khuông Việt - Hiệu này có nghĩa: chống đỡ nước Việt - kể cũng đặc biệt,
đủ biết vị Hoàng đế ở Hoa Lư rất chuộng Đạo Phật và cái công việc vạn
thắng nhờ ở Đại sư khá nhiều.
"Nhà Lê kế chân nhà Đinh cũng ưu đãi tăng đồ, từng sai sứ qua Tàu
thỉnh Cửu kinh và Đại Tạng (1007). Vua Đại Hành còn dùng cha con Sư
Mahà, người Chàm về dịch kinh sách bối diệp bên Tiểu thừa để truyền rộng
Phật học, nhưng cũng không cạnh tranh nổi với môn phái hai nhánh Thiền
tông của Vinitaruci và Vô Ngôn Thông.
Nói tóm lại, trong khoảng thế kỷ thứ X, cửa chùa đã đóng một vai
trò quan trọng về văn học. cũng vì thế mà Đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng
lắm tín đồ và được chính phủ vì nể" (Sđd trang 96, 97).
Qua những nhận định trên cho thấy: Đạo Phật thời Đinh - Lê đã có một
địa vị vững chãi trong dân gian. Các ngài Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận đã
chính thức công khai làm cố vấn chỉ đạo cho triều đình. Chỉ khác một
điều là các ngài lúc nào cũng vẫn là nhà tu hành. Sự dấn thân "nhập thế
hành đạo" của các ngài là hoàn toàn do lòng nhiệt thành vì đạo pháp, vì
dân tộc thúc đẩy; trong lúc hoàn cảnh nước nhà vừa mới giành lại quyền
độc lập. Rất có thể tước đó các ngài đã ngầm giúp mưu kế cho Vạn thắng
vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân mà dựng nên nghiệp nhà Đinh. Cho
nên ngay sau khi thành lập vương triều, định quan chức cho những người
hữu công đối với Tổ quốc, đồng thời cũng để tỏ lòng tri ơn Phật giáo,
vua đã tặng ngài tăng thống Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Đại sư.
. Để mở đầu cho một nền văn học dân tộc, về thể thơ, thì bài "từ" của
Đại sư Ngô Chân Lưu viết thay vua Lê Đại Hành để tiễn sứ thần nhà Tống
là Lý Giác lúc trở về Tàu dưới đây được coi là đóa hoa đầu mùa đã nở
trong vườn thơ văn Việt Nam, thế kỷ thứ X.
Nguyên văn bài từ ấy như sau:
Trời quang, gió thuận, cánh buồm giương
Dõi theo sứ thần về cố hương
Ngàn trùng non nước vượt đại dương
Xa xôi hút dặm trường
Tình thắm thiết, xin nâng chén rượu lên đường
Cầm tay nhau, lòng vấn vương...
Nhờ đem ý nguyện người biên cương
Bày tỏ với thượng hoàng.
Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương.
Dao vọng thần tiên phục đế hương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang
Cửu thiên qui lộ trường
Tình thảm thiết, đối ly thương
Phan luyết sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã hoàng1
Trong lời tựa tập sách toàn Việt Thi Lục, Lê Quí Đôn đã đưa ra những nhận xét về Tình hình sinh hoạt văn học dưới hai triều đại Lý - Trần:
". Nước Việt ta ngay từ buổi đầu dựng nước cũng đã văn minh không
kém gì Trung Hoa. Bài từ của thời Tiền Lê tiễn sứ thần Lý Giác nhà Tống,
lời lẽ bóng bẩy nõn nà, có thể vốc được. Đến các vua nhà Lý đều là
những bậc giỏi chữ hay thơ, nhưng nay không biết tìm kiếm vào đâu, chỉ
thấy sách Thiền Uyển Tập Anh còn chép được của vua Thái Tông hai bài,
của vua Nhân Tông hai bài. Cho đến các vua nhà Trần cũng rất mến thích
sáng tác thơ văn, mỗi vị đều có tập thơ riêng, nhưng đã rơi rụng mất mát
nhiều, trong Việt Âm Thi Tập chỉ còn thấy độ vài ba chục bài. Nói chung
thì hồn thơ Lý - Trần rất phóng khoáng, tình cảm cao siêu mà thanh nhã,
phong vị phảng phất THIỀN NGỮ, nên đã tạo được tiếng vang có ảnh hưởng sâu rộng đến chính sự và giáo hoá đương thời".
(Ngã bang triệu khải văn minh vô tốn Trung Hoa. Lê tiên hoàng
tống Tống sứ Lý Giá nhất từ, uyển lệ khả cúc. Lý gia Thánh, Nhân nhị
tông giai năng thư công thi, kim vô khả khảo. Thái Tông nhị thủ, Nhân
Tông nhị thủ, cẩn kiến Thiền Uyển Tập Anh. Trần triều chư đế, tối
ái đề thi, các hữu thi tập, tán lạc thất truyền, kiến ư Việt âm, cẩn sổ
thập thủ, đại để thác hứng di khoáng, ký tình cao nhã, phong vị dật
nhiên do tồn. Tuy thiền ngữ vi đa, diệc túc kiến đương thời chính giáo,
thanh âm chỉ ngạnh khái.) (Sđd trang 22).
Nói về nền văn học đời Lý, khi nền văn học nước ta mới bắt đầu hình
thành, những công trình sáng tác thơ văn của các thiền sư và văn, thi sĩ
thời ấy, còn truyền lại đến nay, được ghi trong các sách Thiền Uyển Tập Anh 1; Việt Âm Thi Tập của Phan Phu Tiên; Toàn Việt Thi Lục và mục Nghệ Văn Chí trong bộ Đại Việt Thông Sử (hay Lê Triều Thông Sử) của lê Quí Đôn; mục Văn Tịch Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phán Huy Chú; và bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên v.v..
Các tuyển tập phú và tản văn thì phải kể đến một bộ sách quan trọng về thể phú: Quần Hiền Phú Tập của Hoàng Tụy Phu, và truyện tích có: Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam Chích Quái
của Trần Thế Pháp v.v.. Trên chặng đường phát triển một nền văn học dân
tộc, ở đây, ta có thể hình dung được sự kết quả rực rỡ của nó, theo như
lời nhà sử học Phán Huy Chú, mục Văn Tịch Chí trong bộ Lịch Triều Hiến
Chương Loại Chí, thì: "Nước Việt ta được gọi là nước giữ lễ đã hơn
nghìn năm. Sách vở thư tịch vốn ra đời từ lâu lắm. Kể từ Đinh, Lê dựng
nước, đã đứng ngang hàng với Trung Hoa; mệnh lệnh, từ chương dần dần rõ
rệt.
Đến Lý, Trần nối trị, văn vật mở mang; về thẩm định thì có
những sách điển chương, điều luật; về tiếp nối, văn nhã rỡ ràng. Huống
chi, nho sĩ đời nào cũng có, văn chương nảy nở như rừng. Trứ tác mỗi
ngày một nhiều. Nếu chẳng phải trải qua cướp bóc, đốt phá mà hóa tro
tàn, thì hẳn là trâu kéo đến tót mồ hôi, chứa đầy đến tận xà nhà".1.Và tiến sĩ Hoàng Đức Lương, người biên soạn Trích Diễm Thi Tập năm 1497, trong lời đề tựa sách đó, đã than vãn: ". Còn
như thơ các đời Lý - Trần thì không có căn cứ nào để khảo sát, đính
chính. Một đôi khi có nhặt được dăm chữ nửa câu ở nơi chỗ "giấy rách
vách nát" thì vỗ sách mà than thở, có ý thầm đổ lỗi cho các bậc học thức
tài danh đương thời. Thán ôi! Há có một nước văn hiến, dựng nước đã mấy
nghìn năm, thế mà không có lấy một chút sách vở gì làm bằng, chẳng cũng
đáng đau xót lắm thay!
Rồi ông kể tiếp: "Thế mà tất cả những gì thu nhập được cũng chỉ là
một hai trong trăm ngà phần. Bèn chọn lọc rộng thêm ở những trứ tác của
các vị đang tại triều, nhặt lấy những gì tinh tuý nhất, rồi sắp xếp,
phân loại thành các thiên, được sáu quyển, đặt tên là Trích Diễm.
Vả chăng, việc phẩm bình, cân nhắc, văn chương mà có chút ý vị, là
ở chỗ, cốt sao các thơ văn được truyền bá rộng ra, ngõ hầu tránh được
lời chỉ trích của người sau đối với hiện nay, như chúng ta hiện nay đã
chỉ trích người xưa vậy.(1)
Thật đáng tiếc! Cả một nền văn học rực rỡ như thế, sau khi nước ta bị
nhà Minh cai trị (1407 - 1427), bao nhiêu sách vở của người mình trứ
tác, chúng thu nhặt đốt sạch biến thành tro than.2
Mãi tới năm 1901, trường Viễn Đông Bác cổ (Eùcole Francaise d'Extrême
Orient), thành lập tại Hà Nội mới bắt đầu xúc tiến việc sưu tầm và bảo
tồn những si sản văn hóa quốc gia còn sót lại, từ cuối đời Trần - Hồ đến
hết thế kỷ XV, gồm các thể loại: thơ, văn, truyện tích, bi ký v.v...
Nhưng còn kho tàng kinh sách Đạo Phật Việt thì sao?
Chúng tôi tìm tòi trong các sách đã dẫn, và nhất là cuốn Thơ Văn Lý
Trần, đã giúp chúng tôi rất nhiều bản văn quí giá để viết mục này.
Những tác phầm văn học Phật giáo đời Lý gồm có:
* Về Thơ:
- Ngộ Đạo Ca Thi Tập của Khánh Hỷ.
- Viên Thông Tập của Viên Thông. Cuốn này có tới một ngàn bài thơ.
* Về Trứ Tác:
- Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn của Pháp Thuận
- Dược Sư Thập Nhị nguyện Văn của Viên Chiếu.
- Tán Viên Giác Kinh của Viên Chiếu.
- Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng của Viên Chiếu.
- Tham Đồ Hiển Quyết của Viên Chiếu.
- Chư Phật Tích Duyên Sự, 30 chương, của Viên Thông.
- Tăng Già Tạp Lục, 50 chương, của Viên Thông.
- Pháp Sự Trai Nghi của Huệ Sinh.
- Chư Đạo Tràng Khánh Tán Văn của Huệ Sinh.
- Nam Tông Tự Tháp Đồ của Thường Chiếu. (Do trạng nguyên Lương Thế Vinh viết tựa).
Tất cả sách kể trên đều đã bị thất lạc. Riêng cuốn Tham Đồ Hiển Quyết
của thiền sư Viên Chiếu thì có lẽ được trích một đoạn trong sách Thiền
Uyển Tập anh mà ta có hiện nay1
* Về Minh và Bia:
- ·Bài minh khắc vào quả chuông chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích (Nhất
Thống Chí chép là chùa Vạn Phúc) ở núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh, do vua Lý Thánh Tông (1054-1072) xây dựng, thiền sư
Huệ Hưng viết bài minh, đề năm Nguyên Hóa thứ 9, triều nhà Lý2.
- ·Bài minh khắc vào bia tháp Hội Thánh, núi Lăng Già3 do Pháp sư Lê Kim soạn, dựng năm Hội Phong thứ 9.
- ·Văn bia chùa Báo Ân, núi An Thạch, trấn Thanh Hóa, do Chu Văn Thường soạn, dựng năm Hội Phong thứ 9 (1100).
- ·Văn bia chùa Bảo Ninh, Sùng Phúc (hiện nay bia nằm ở chân núi Đan
Hàn, tỉnh Tuyên Quang) do Lý Thừa Ân soạn, dựng năm Long Phù Nguyên Hóa
thứ 7 (1107).
- ·Văn bia chùa Diên Phúc, thôn Cổ Việt (?), do nguyễn Công Diễm soạn, dựng năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113).
- ·Văn bia chùa Sùng nghiêm Diên Khánh, quận Cửu Chân (Thanh Hoá), do
đại sư Hải Chiếu (Pháp Bảo) soạn, dựng năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9
(1118).
- ·Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, núi Long Đội (thuộc huyện Duy
Liên), do Nguyễn Công Bật soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121).
- ·Văn bia chùa Viên Quang, huyện Giao Thủy, lộ Thiên Trường, do sư Dĩnh Đạt soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 3 (1122).
- ·Văn bia chùa Hương nghiêm, núi Càn Ni (Thanh Hoá), dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1125) (Khuyết danh).
- ·Văn bia chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn, xã Ngọ Xá, huyện Vĩnh Phúc,
tỉnh Thanh Hóa, do thiền sư Pháp Bảo soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ
thứ 7 (1127).
- ·Bài ký chùa Báo Ân, ở xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trĩ, huyện Yên Lãng,
tỉnh Phúc Yên, do Ngụy TưHiền soạn, dựng năm Trị Bình Long Ứng thứ 5
(1209)*
Nền văn học đời Lý có thể chia ra các thể:
1-Thi ca: - Thơ sấm truyền.
-Thơ Đạo lý (hay tâm linh).
2-Tản Văn: Chiếu, biểu, bia, ký.
3-Truyện Tích:Sử truyện, văn ngữ lục, di ngôn của các thiền sư.
Đến đây, ta thử xét hai quan niệm của văn chương đời Lý:
1/Vũ trụ
2/ Nhân sinh.
Thơ văn đời Lý chịu ảnh hưởng sâu xa của nguồn giáo lý đại thừa Phật giáo, nhất là về Thiền tông và Mật tông, nên "huyền diệu, thần bí lạ lùng!"
Chúng ta thử rút tỉa một vào bài làm tiêu biểu chứng minh cho hồn thơ
vừa siêu thoát vừa hiện thực về quan niệm vũ trụ nhân sinh của đời Lý.
Khoảng những năm Thiên Thành Thông Thụy (1034-1036); vua Lý Thái Tông
có lần đến thăm chùa Thiên Phúc, đã cùng các bậc kỳ túc bốn phương tham
cứu về những yếu chỉ Đạo Phật. Vua nói: "Bàn về nguồn gốc cái tâm của
Phật Tổ thì các thánh hiền đời xưa còn chưa khỏi bị chê bai, huống chi
những kẻ hậu học. Nay ta muốn cùng các vị trưởng lão trình bày sơ lược ý
nghĩ của mình, mỗi người hãy thuật một câu kệ xem ý tứ thế nào?"1
Mọi người còn đang suy nghĩ, vua đã làm xong bài kệ:
Bát nhã thực không tông
Người không, ta cũng không
Ba đời các đức Phật
Thể "Pháp tính" chung đồng.
(Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá, hiện, vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng).
Đứng về Bản thể luận thì Phật (hay bản thể của vũ trụ vạn hữu) là thể
tuyệt đối duy nhất, trong sáng, tự tại, tròn đầy, không sinh, không
diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt, không bị không gian
và thời gian và động lực làm ngăn ngại mà (nó) chu biến khắp pháp giới
bao la. Nhưng dời sang Hiện tượng giới, khi vạn hữu đã hình thành, từ
một mảy lân hư trần đến trăng, sao, sông, núi, cây cỏ, người và vật, đều
mang trong tự thể cái tính dời đổi: vô ngã, vô thường, có, không, còn,
mất. Như vậy, cho ta thấy, Bản thể Tuyệt Đối được mệnh danh là Tâm hay
Chân Như.
Nói theo Thiền ngữ thì:
"Bát nhã thực không tông
người không, ta cũng không
Ba đời các Đức Phật
Thể "Pháp tính" chung đồng"
Nên giữa Phật (người giác ngộ) và chúng sinh (người chưa giác ngộ)
không còn biên giới cách ngăn nữa; ta và người đã hòa chung trong một
Nguồn Sống (Pháp tính bản lai đồng) trong sáng, tự tại, tròn đầy, chu
biến khắp pháp giới bao la.
Cũng trong dịp gặp gỡ này, thiền sư Huệ Sinh đã trả lời vua Lý Thái
Tông bằng một bài kệ mang tính cách triết lý "Bất Nhị" vượt lên trên cả
lẽ Có và Không:
Pháp cũng như không pháp
Không có cũng không không
Nếu biết được lẽ đó
Chúng sinh, Phật vốn đồng.
Trăng Lăng Già1in bóng
Thuyền đậu bến chân không
Biết không, không là có
Định tuệ chiếu vô cùng.
(Pháp bản như vô pháp
phi hữu diệc phi không
nhược thân tri thử pháp
Chúng sinh dữ Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già nguyệt
Không không độ hải chu
Tri không, không giác hữu
Tam muội nhậm không chu)
Lời thơ đẹp như châm ngôn. Khí thơ chuyển động như những nhịp thở của
trái tim. Hồn thơ phiêu dật như có thần lực làm thức tỉnh chúng sinh
hãy quay về với bản tính trong sáng saün có của mình.
Ngôn ngữ là sự thể hiện của tư tưởng, các thiền sư đời Lý quen sống
với tư tưởng nên họ nhìn vũ trụ nhân sinh quan bằng quan niệm: Có,
Không: "Hữu hình cũng là một với cái vô hình và ngược lại, cái vô hình
cũng có thể diễn đạt bằng cái nhìn hữu hình".
Có thì có tự mảy may
Không thì cả vũ trụ này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi là có, không không mơ màng2
Thiền sư Đạo Hạnh
Cảm sống hết cái triết lý Bất Nhị, các thiền sư đời Lý nhìn thấy đâu cũng là Chân Như2.
Thi ca đời Lý, có thể nói, là thứ ngôn ngữ siêu ngôn ngữ, triết lý
siêu triết lý, có khả năng rút tất cả thế giới vào một vài chữ (Có -
Không) bằng một ý niệm (idée) mà vẫn diễn đạt được hết mọi lẽ sinh hóa
của vũ trụ vạn hữu.
Một ánh nắng, một bông hoa nở, một áng mây, một giọt sương rơi đều
mang một ý nghĩa mật ẩn sâu xa; tất cả. chỉ là hình ảnh của Tâm hay Chân
Như biến hiện và sự sống từ đó tràn lan bất tận vô thủy vô chung.
Phụ chú: Dưới đây chúng tôi xin trích một số ít bài thơ và văn
bia của các vị thiền sư đời Lý để chúng ta suy ngẫm về những thiền ngữ
đã có "ảnh hưởng sâu trong chính sự và giáo hóa đương thời".