NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA ĐẠO PHẬT
CHO DÂN TỘC, DƯỚI TRIỀU LÝ (1010 - 1225)
Hòa Thượng. Thích Đức Nhuận
Về Chính Trị -
Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho một thời đại văn
minh cường thịnh ở Việt Nam. Việc làm trước tiên của vị minh chủ này
là: "cho đốt chài lưới, giải phóng các loài chim muông. trên rừng
dưới biển, bãi ngục tù, ban chiếu từ nay trong nước ai có điều gì oan ức
cho đến triều đình tâu, vua sẽ đích thân giải quyết".
Mùa thu nắm ấy, vua cho dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại La là Thăng
Long thành, tức là Hà Nội bây giờ, Cùng với việc dời đô, nhà Lý đổi châu
Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, thành Hoa Lưthành phủ Trường An, sông Đuống
(Bắc Giang) làm sông Thiên Đức.
Đây là nguyên văn bài "Thiên Đô Chiếu[5].
"Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương
tam tỉ. Khởi Tam đại chi số quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự nhiên tỉ? Dĩ kỳ
đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh,
hạ nhân dân chí, cảu hữu tiện triếp cải; cố quốc tộ diên trường, phong
tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng
đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vụ tư; trí thế đại phất
trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm
thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao vương cố đô Đại La Thành, trạch thiên địa khu vực chi
trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính nam bắc đông tây chi vị; tiện
giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao
nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi
phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi
yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trầm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?" (Sử Ký Toàn Thư)
(Xưa, nhà Thương đến vua Bàn Canh[6] đã năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương[7] cũng ba lần dời đô. Phải đâu các thời Tam Đại[8]
theo ý riêng mình mà tự tiện dời đổi? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung
tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh
trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận lợi thì thay đổi, là cốt mong vận
nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh Lê lại vẫn theo ý riêng mình, khinh thường
mệnh trời, không noi theo dấu củ của nhà Thương nhà Chu, cứ đóng yên đô
thành ở đấy, đến nỗi triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi,
trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót
về việc đó, không thể không dời đi. Huống nữa thành Đại La, kinh đô cũ
của Cao Vương[9],
ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng vị trí
các hướng nam bắc đông tây, rất tiện cho sự nhìn sông dựa núi; địa thế
vừa rộng vừa bằng phẳng, đất đai lại cao và thoáng; dân cư khỏi chịu
cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Ngắm
khắp nước Việt ta, chỉ có nơi đây là "thắng địa". Thật là chốn tụ hội
trọng yếu của bốn phương đất nước, xứng đáng là nơi kinh đô bậc nhất của
đế vương muôn đời.
Trẫm muốn nhân cái thế thuận lợi âý để định chỗ ở. Ý các khanh thế nào?[10]
Sau khi dời đô về thành Thăng Long, cùng lúc với công cuộc kiến thiết
các cung điện của triều đình, như: điện Càn Nguyên để coi chầu, điện
Lập Hiền, điện Quảng Vũ, điện Long An, điện Long Thụy, điện Nhật Quang,
điện Nguyệt Minh, cung Thúy Hoa và Long Thụy cho cung nữ ở. Thành có bốn
cửa: Tường Phù (đông), Quảng Phúc (tây), Đại Hưng (nam) Diệu Đức (bắc).
Cộng 13 sở, xây thành lũy chung quanh. Vua cũng cho dựng ở phủ Thiên
Đức 8 ngôi chùa. Triều đình có dựng bia ghi công. Riêng trong nội thành,
vua cho xây chùa Hưng Thiên Ngự; ở cung Thái Thanh, chùa Vạn Thọ, nhà
tàng kinh Chấn Phúc; và ở ngoại thành là những chùa: Thắng nghiêm, Thiên
Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức. Triều đình
cũng ra lệnh cho các làng trùng tu những chùa hư hại. Phát 310 lạng vàng
để đúc chuông chùa Hưng Thiên. Tuyển dân làm tăng, lập giới đàn ở chùa
Vạn Thọ cho chư tăng thụ giới[11].
Năm sau (1011), vua ban lệnh đại xá, cấp quần áo thuốc mem cho những
người bị Ngọa Triều bắt được trả về quê cũ làm ăn sinh sống. Đồng thời
xóa thuế trong ba năm cho cả nước. "Xóa hết nợ thuế cũ của những người mồ côi, góa chồng, già yếu".
Niên hiệu Thuận Thiên thứ 7, 8, 9 trong ba năm liền, vua lại xuống
chiếu tha cho dân không phải đóng thuế ruộng (nguồn tài chính trong nước
lúc ấy gồm các thuế: gỗ rừng, cá biển, buốn bán, thuế thổ sản; thuế đất, đồ cống hàng năm, trong 6 hạng thuế này chính phủ chỉ thu 4 hạng; trừ thuế thổ trạch, thuế đất).
Năm 1018, vua sai Lý Đạo Thành và Phạm Hợp đi Tống thỉnh Kinh Tam
Tạng. Năm 1093, sai các quan nội thị sảnh viết lại Kinh Tam Tạng, rồi
trữ tại Tàng Kinh Đại Hưng. Năm 1025, dựng chùa Chân Giáo ở trong nội
thành để tiện việc tụng niệm.
Ngô Thời Sỹ, trong Việt Sử Tiêu A'n, có lời bình phẩm:
" Vua Lý Thái Tổ sinh trưởng nhờ cửa Phật. Khánh Vân nuôi lớn, Vạn
Hạnh dạy đỗ, thuyết nhân quả ăn sâu trong lòng, cho nên khi mới kiến
quốc, đã sáng tạo nhiều chùa, cấp điệp độ tăng chúng, muốn đưa cả thế
giới vào nước Phật, bất luận hiền ngu muốn cho qui Phật, đến đời sau nhà
Lý mới khởi lên ngôi chùa cao sát mây lập nên cột chùa bằng đá cao vót,
lấy sự thờ Phật làm việc thường phải có của một nước (lập hơn 300 ngôi
chùa, đúc quả chuông nặng đến 1 vạn 2 nghìn cân đồng). Khi khánh thành
chùa thì mở hội, xá các tội nhân." (Sđd, trang 108).
Nhà Lý trải qua các triều vua: Thái Tổ, Thái Tông (1028-1054), Thánh
Tông (1072-1127). Các vua trên đây đã cho tổ chức lại cơ cấu hành
chin1h, soạn thảo luật pháp, xây dựng nhu yếu quốc phòng, an sinh và
giáo dưỡng, kiến thiết thủ đô Thăng Long, và làm việc để bảo toàn lãnh
thổ, thống nhất nhân tâm, nhằm củng cố nền độc lập lâu dài: Năm 1054, nhà Lý đổi tên là nước Đại Việt.