03-Về Cơ Cấu Tổ Chức Hành Chính (Ngoại
Giao và Quân Sự)
NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA ĐẠO PHẬT
CHO DÂN TỘC, DƯỚI TRIỀU LÝ (1010 - 1225)
Hòa Thượng. Thích Đức Nhuận
Về Cơ Cấu Tổ Chức Hành Chính - Đầu năm
1011, nhà Lý đổi pháp cũ của nhà Tiền Lê làm 24 lộ. Dưới lộ có phủ, huyện,
hương, giáp. Lại đặt thêm đạo như đạo Hải Đông, đạo Tuyên Quang, trại Ái Châu,
trại Hoan Châu. Và một số châu, trại được đặt làm phủ, như: phủ Trường An, phủ
Thiên Đức, phủ Thanh Hóa. Về hành pháp, đứng đầu triều đình là vua, rồi đến các
quan cao cấp; về văn và võ chia làm chín phẩm cấp, và một số cơ quan chuyên
trách. Bộ máy hành chính được thiết lập từ trung ương đến các đơn vị cơ sở. Khu
vực hành chính gồm có bộ và phủ rồi đến huyện và cuối cùng là hương, giáp.
(LSVN. TI).
"Để giúp vua nắm mọi mặt chính trị, quân sự, nhà Lý đặt
thêm Trung thư sảnh (với các chức trung thư thị lang) và Khu mật sứ (với các
chức tả hữu khu mật sứ). Cùng bàn việc với tể tướng có tả hữu tham tri chính
sự.
Trông coi về việc đàn hặc, giám sát quan lại, có ngự sử đài với các chức tả
hữu giám ngự đại phu. Giúp việc tể tướng, còn có các chức hành khiển đồng trung
thư môn hạ hình chương sự. Dưới đó có thượng thư sảnh với các chức thượng thư
sảnh viên ngoại lang. Chức đình úy trông coi việc hình án, chức đô hộ phủ sĩ sư
chuyên xét các án còn nghi ngờ.
Trông coi các việc trong triều đình có nội thị sảnh. Giúp việc soạn các lời
chiếu, chế của vua, có Hàn Lâm Học Sĩ"[12].
Về Ngoại Giao -
Ở phía nam, nước Đại Việt giáp với Chiêm Thành, một tiểu vương quốc vốn có
tiếng hung bạo, thường hay xua quân sang đánh phá miền duyên hải nước ta. Bằng
chứng: Khi nhà Tiền Lê mới chấp chính, vua Đại Hành sai sứ sang Chiêm
Thành, bị vua nước này bắt giam sứ lại. Vua Đại Hành giận lắm. Chờ tới sau khi
phá được Tống rồi, vua đem quân qua đánh báo thù. Quân nhà Tiền Lê tràn vào đô
thành nước Chiêm đốt phá, bắt người, và lấy rất nhiều của cải châu báu, rồi rút
quân về nước một cách an toàn.
Buổi đầu thời nhà Lý, khi Lý Thái Tổ lên ngôi, Chiêm Thành vẫn cho sứ thần
sang cống. Kể từ năm 1028, thái tử Phật Mã, tức lý Thái Tông lên làm vua, đã
mười lăm năm Chiêm Thành không chịu thông sứ. Do đó năm 1044, vua Thái Tông
đích thân ngự giá đi đánh Chiêm Thành. Quân ta kéo vào kinh đô Vijaya, bắt sống
vua nước ấy là Rudravarman III. Từ đấy phía nam được tạm yên. Vua nước Chiêm
Thành hằng năm lại vẫn phải triều cống như cũ[13] .
Về phía Bắc, nước ta ở sát nách một nước khổng lồ (Trung Hoa). Mà các ông
vua Trung Hoa vốn luôn luôn tự xem mình là một nước "Thiên triều", coi
các lân quốc ở chung quanh là man di, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là đem quân tới
xâm lăng, hòng áp đặt lại ách thống trị thời Hán Đường của cha ông chúng. Ngay
sau khi mới lên ngôi, lý Thái Tổ đã có chủ trương giao hảo với nhà Tống. Năm
1010, viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tài Nguyên được cử đi sứ Tống, do đó
quan hệ giữa hai nước tương đối hòa hảo.
Cho tới khi Tống Thần Tông (1068-1078) lên cầm quyền. Vương An Thạch được cử
làm tể tướng. Bấy giờ ở Ung Châu có quan tri châu là Tiêu Chú làm sứ dâng về
Tống triều, nói rằng: "Nếu không đánh lấy đất Giao Châu thì về sau
thành ra một mối lo cho nước Tàu". (Trong lúc) Vương An Thạch có ý
muốn lập công ở ngoài biên và nhân dịp, để khỏa lấp sự thất bại về "Tân
pháp"[14] do
y chủ xướng để cải tổ việc chính trị trong nước, bị người dân Trung Hoa không
chịu thi hành, cho là trái với chế độ phong tục cổ truyền.
Cuộc chiến tranh xâm lăng nước Đại Việt của nhà Tống vẫn được khởi sự. Quan
hệ bang giao Lý - Tống trở nên căng thẳng trong một thời gian.
Nhưng sau kháng chiến chống Tống đã toàn thắng (xem mục quân sự: Kháng
Tống), nhà Lý vẫn giữ tư thế một nước độc lập, tiếp tục giao hảo với nhà Tống.
Trong hơn hai thế kỷ, nhà Lý vẫn theo đuổi một chính sách ngoại giao lúc
cương nghị, lúc uyển chuyển, thật linh động: nhằm mở rộng quan hệ ngành thương
nghiệp với các nước láng giềng, đồng thời bảo toàn được lãnh thổ và nền tự chủ
của dân tộc.
Về Quân sự:
Quân đội của nhà Lý gồm có quân cấm vệ và quân các lộ. Đội
quân chuyên bảo vệ cung điện của nhà vua, đóng chung quanh kinh thành, gọi là
cấm vệ (mỗi quân 200 người, cộng 2000 người), đặt tên là Quảng Thành, Quang Vũ,
Ngự Long, Phủng Nhật, Trừng Hải. Năm 1059, đời Lý Thánh Tông, lại thêm sáu quân
nữa. Cấm quân bấy giờ gồm có 16 quân. Cộng 3.200 người. Tên quân cũng đặt lại
như sau: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thông Điện, Phủng Thánh, Bảo Thắng, Hùng
Lược, Vạn Tiệp (LTK). Tất cả cấm quân đều thích trên trán 3 chữ "Thiên tử
quân". Đứng đầu các tướng phụ trách cấm quân là chức thiếu uý. Toán quân
trực ở trước điện vua do điện tiền đô chỉ huy sứ chỉ huy. Các vệ thì có các cấp
tướng như: Tả hữu kim ngô vệ tướng quân, kim ngô độ lãnh binh sứ, tả hữu vệ
tướng quân, hàm vệ, đinh thắng thượng tướng quân, đại tướng quân, tướng quân.
Ngoài cấm quân, có quân các lộ, các phủ. Tất cả nhân dân đến tuổi hoàng nam
(18 tuổi) đều phải đăng lính, nhưng vẫn được ở nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải
đi phiên một kỳ ngắn. Đó là chính sách "ngụ binh ư nông" (Có nghĩa
là giữ quân lính ở nhà nông) vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi
không may có chiến tranh xảy tới. Các chức chỉ huy quân đội có: Đô thống,
nguyên soái, thống quản, thượng tướng, đại tướng, đô tướng.
Những lần chinh phạt lớn, vua tự làm tướng hay cử các hoàng tử thân vương
làm nguyên soái chỉ huy. (LSVN, TKX - 1427, q 1. T2)
"Quân đội nhà Lý đã đạt đến một trình độ tổ chức và huấn luyện khá cao.
Quân đội phiên chế thành các đơn vị: Quân, vệ và bao gồm các binh chủng: bộ
binh, thủy binh, kî binh, tượng binh. Trang bị quân đội, ngoài các loại vũ khí
đã thấy từ trước như giáo mác, cung nỏ, khiên v.v.. còn có thêm máy bắn đá. Lực
lượng quân đội hùng hậu đó giữ vai trò rất quan trọng trong việc củng cố nhà
nước về mặt đối ngoại, đã lập nên nhiều chiến công rực rỡ trong các cuộc chiến
tranh bảo vệ đất nước".[15]
Năm 1011, sau khi Lý Thái Tổ lên ngôi vua thì Chiêm Thành chịu cống. Nhưng
chỉ được ít năm, rồi thôi; mùa hè năm 1043, lại còn cho quân tới quấy phá ở ven
bể. Vì thế vua Lý Thái Tông mới mở cuộc thân chinh. Chuyến ấy, quân ta vào sâu
trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 36 con voi, 5.000 người[16]và
chém giết nhiều người bản xứ. Thái Tông trông thấy động lòng thương, hạ lệnh
cấm không được giết người Chiêm Thành, ai trái phép sẽ chiếu theo quân luật trị
tội. Rồi vua kéo quân vào kinh đô Vijaya, bắt cung nhân, nhạc nữ rất nhiều.
Sau khi chiến thắng Chiêm Thành trở về, vua ban thưởng các quan, đổi niên
hiệu: Thiên Cảm Thánh Vũ, và ban bố tờ chiếu xá nửa tiền thuế cho toàn dân:
"Việc đánh dẹp phương xa, làm tổn hại công việc nhà nông. Thế mà có
ngờ đâu, mùa đông năm nay lại được mùa lớn! Nếu trăm họ cùng no đủ thì trẫm còn
lo gì thêm nữa? Vậy, xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay để an ủi nỗi khó
nhọc lội suối trèo đèo"- ĐVSKTT, Nguyễn Đức Vân dịch -
Từ đấy Chiêm Thành chịu thần phục nhà Lý.
Năm 1038, châu Quảng Nguyên (nay thuộc tỉnh Cao Bằng) có tên tù trưởng Nùng
Tồn Phúc làm loạn, tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Trường
Sinh, đắp thành, luyện quân, không nộp cống cho nhà Lý nữa. Vì vấn đề thống
nhất quốc gia, và để ngừa trước không cho xảy ra tình trạng hùng cứ địa phương,
nên năm 1039, Thái Tông thân chinh đi đánh dẹp, bắt được Nùng Tồn Phúc đem về
kinh xử tội. Vua xuống chiếu phủ dụ toàn dân:
"Trẫm từ làm chủ thiên hạ tới nay, các bề tôi văn võ, không người nào dám
bỏ tiết lớn; phương xa cõi lạ, không nơi nào không thần phục. Mà họ Nùng đời
này qua đời khác cũng giữ yên bờ cõi được phong, hằng năm đều nộp cống phẩm.
Nay Tồn Phúc càn rỡ, tự tôn tự đại, tiếm xưng vị hiệu, ban hành chính
lệnh, tụ tập quân ong kiến, làm hại dân biên thùy. Vì thế, trẫm cung kính thi
hành mệnh trời trách phạt, bắt được bọn Tồn Phúc, gồm 5 người, đều đem chém đầu
ở chợ" - ĐVSKTT, Nguyễn Đức Vân dịch -
Trong khi Nùng Tồn Phúc bị quân nhà Lý bắt sống thì A Nùng (vợ Nùng Tồn
Phúc) và con là Nùng Trí Cao chạy thoát. Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng với mẹ là
A Nùng từ động Lôi Hỏa về châu Thảng Do (gần Quảng Nguyên) lập ra một
nước Đại Lịch. Thái Tông cắt quân đi đánh, bắt được Trí Cao đưa về kinh. Nhưng
vua nghĩ trước đã giết cha chúng, nay thương tình không giết, tha cho về và lại
phong cho làm Quảng Nguyên mục. Tình hình được tạm yên.
Sau khi Lý Thái Tông đã chiến thắng Nùng, lúc trở về, dân động Vũ Kiến, châu
Quảng Nguyên, dâng một khối vàng sống 112 lạng. Triều đình họp xin đổi niên
hiệu là Càn Phù Hữu Đạo và tặng thêm tên hiệu tám chữ "Kim Dũng Ngân Sinh,
Nùng Bình Phiên Phục" (vàng nổi lên, bạc sinh ra, bình trị được họ Nùng,
qui phục được nước Phiên). Vua đã đáp lời quần thần xin dâng tên hiệu:
". Trẫm đem tấm thân cô đơn, sống gửi trên (tất cả) sĩ dân, dậy sớm thức
khuya, lúc nào cũng (lo sợ) như lội vực sâu, chưa biết lấy đạo gì để thấu trời
đất, lấy đức gì để kịp Nghiêu Thuấn.
"Vừa rồi giặc Nùng dẹp yên, nước Chiêm qui phục, hang nảy vàng vòng,
đất sinh bạc trắng, ý chừng có điều gì mà được như thế chăng? Hay là có điều gì
(trời đất) cảnh tỉnh chăng?
"Trẫm rất lấy làm lo sợ, sao xứng đáng tôn danh hiệu tốt đẹp. Lời
bàn của các khanh nên dẹp bỏ đi"[17]bản
dịch của Phạm Tú Châu, Thơ Văn Lý Trần, tập I.
Năm 1044, Nùng Trí Cao về chầu vua Lý ở Thăng Long. Nhưng sau bốn năm, năm
1048, Nùng Trí Cao lại phản, chiếm động Vật Ác (tây bắc Cao Bằng). Vua
sai quan thái uý Quách Thịnh Dật đem quân đi đánh nhưng không thắng được. Năm
1052, Nùng Trí Cao đem 5.000 quân đánh lấy Ung Châu, rồi chiếm hết vùng đất ở
Quảng Đông, Quảng Tây, tự xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu Đại Nam. Nhà
Tống lo sợ. Vua Lý biết quân lực nhà Tống yếu, vờ xin đem quân sang giúp. Vua
Tống đồng ý. Nhưng Địch Thanh là tướng có kinh nghiệm can đi. Do đó vua Tống
không nhờ quân nhà Lý nữa.
Năm 1053, Địch Thanh được vua Tống cho phép cầm quân đi đánh Trí Cao. Trí
Cao chống cự không nổi, phải rút quân. "Trí Cao cử Lương Châu đến triều
đình Lý xin cứu viện, nhà Lý muốn nhân đó, kiềm chế cuộc tiến quân của nhà
Tống, bèn cử chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân lên giúp. Nhưng quân Trí Cao vẫn không
tiến thêm được bước nào. Thất bại liên tiếp, Trí Cao phải chạy sang nước Đại Lý
rồi chết ở đấy" (LSVN, thế kỷ X - 1427, q 1 t2).
Để chuẩn bị chống Tống, điều cần trước nhất là, đánh Chiêm Thành, nhằm cảnh
cáo nước này (đã) dựa vào thế lực nhà Tống, cắt đứt quan hệ với Đại Việt, và
còn đem quân quấy phá vùng biên cảnh nước ta.
Năm 1069, Lý Thánh Tông xuống chiếu thân chinh Chiêm Thành (VSL). Quân sĩ
gồm 5 vạn (TT). Lý Thường Kiệt được chọn làm Đại tướng quân và đi tiên
phong (VĐUL). Cách ba ngày sau, vua xuống thuyền xuất quân, giao quyền
bính cho Nguyên Phi Ỷ LAN[18] và
Thái úy Lý Đạo Thành. [19]Quân
ta đã vào lấy được Vijaya nhưng vua Chiêm trốn thoát. Vua sai Lý Thường Kiệt
đem quân đuổi bắt vua Chiêm. Vua đợi mãi chưa bắt được. Sợ vặng mặt lâu, trong
nước dân sự không yên, nên đưa một phần quân về nước. Nhưng về dọc đường, được
tin bà Nguyên Phi (Ỷ LAN) coi nội trị giỏi, khiến nhân hòa hợp, cõi nước yên
lặng. Vua tự nghĩ rằng: "kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như thế, ta là đàn
ông, há lại vụng về sao?" Rồi vua quay trở lại đánh, bèn thắng.
Sau khi bắt được Rudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua
Chiêm.
Cuộc rước vua viễn chinh khải hoàn diễn ra tại kinh đô Thăng Long rất long
trọng. vua Chiêm Thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai, tay
trói sau lưng, có 5 tên lính hiệu Vũ đô dắt đi. Các thuộc đảng cũng bị trói dắt
theo sau.
Thế là vua Lý Thánh Tông đã thỏa lòng tự lập: sau khi xưng đế, lập được vũ
công, vua bèn đổi niên hiệu Thiên Huống Bảo Chương ra Thần Vũ để ghi vũ công
lớn lao ấy.
"Rudravarman II xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố Chính,
Đại Lý, Ma Linh thuộc Chiêm Thành từ đó sáp nhập về nước ta. Nay là địa phận
Quảng Bình, phía tây Quảng Trị.
Rudravarman III được tha về nước[20]
"Rồi năm 1103 ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) có Lý Giác làm
phản. Lý thường Kiệt đích thân đi dẹp giặc. Lý Giác thua, chạy sang Chiêm Thành,
đem quốc vương là Chế Ma Na qua đánh lấy lại 3 châu: Địa lý, Ma Linh, Bố Chính.
Nhưng năm sau (1104) vua Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt vào đánh Chiêm Thành, Chế
Ma Na thua xin hàng, trả lại 3 châu như cũ.
"Từ khi bình phục được nước Chiêm thành rồi, thanh thế nước ta bấy giờ
rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn luôn dặn biên thần đừng gây sự với
ta. Còn Chiêm Thành, thì kinh sợ và thần phục".[21]
Sử chép: Dưới thời LÝ THÁNH TÔNG, năm kỷ dậu (1069) nhân khi vua đi đánh
Chiêm Thành, có bắt được vua nước ấy là Rudravarman III (Chế Củ) và nhiều lính
làm tù binh, trong số các tù binh có Hòa thượng Thảo Đường.
Với chính sách khoan dung của triều đình ta hồi ấy là, trong số những tù
nhân, được vua trọng dụng, cho làm chức quản hầu; nhân một hôm vị Tăng lục đi
vắng lúc trở về, nhìn vào bản "Ngữ Lục" của mình thấy nhiều đoạn văn
bị sửa chữa. Vị tăng lục đem tự sự trình lên vua. Vua cho điều tra. Có một tù
nhân nhận là mình đã sửa. Vua cho đòi tên tù nhân ấy tới thẩm vấn, thì y ứng
đối thông thái, luận về những yếu lý Đạo Phật rất tinh tường quán triệt. Hỏi ra
thì biết đó là vị thiền sư người Trung Hoa sang truyền đạo ở Chiêm Thành, chẳng
may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy chính là hòa thượng Thảo Đường. khi biết
rõ tông tích vua liền phong ngài làm quốc sư và cho mở đạo tràng giảng kinh
trong thành Thăng Long. Số đệ tử theo học đạo mỗi ngày một đông, cả vua cũng
xin làm đệ tử . Từ đấy Đạo Phật Việt có thêm một phái Thiền tông thứ ba, phái
Thảo Đường.
Dòng Thiền Thảo Đường (1069-1205) truyền được 5 đời, gồm 19 vị tổ kế
thừa.
Cuộc Đánh Cảnh Cáo Nhà Tống Dưới Triều Vua Lý Nhân Tông 1075.
Năm 1068, khi Tống Thần Tông lên cầm quyền, triều đình nhà Tống gặp phải
cảnh huống khủng hoảng về quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội. Qua năm sau,
năm 1069, Vương An Thạch, một nho thần, được cử làm tể tướng, y đề ra chính
sách cải cách kinh tế, "làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc khố
dồi dào, làm binh lực nước mạnh"[22]nhằm
cứu vãn tình thế khó khăn trong nước và sự uy hiếp của hai nước Liêu - Hạ ở
phía Bắc và tây bắc Trung Hoa,[23] đồng
thời có ý đồ mở rộng biên cương xuống phía Nam mà Quảng Nam là vùng ở cực nam
nước Tống gồm hai lộ: quảng Nam tây lộ và Quảng Nam đông lộ. Gọi tắt là Quảng
tây và Quảng Đông. Nước Đại Việt đời Lý tiếp giáp đất Quảng Tây. Theo kế hoạch
trên "nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, và các nước Liêu - Hạ sẽ phải kiêng
nể". Vẫn theo sự tính toán của Vương An Thạch thì:
"Lúc quân ta (tức quân Tống) diệt được Giao Chỉ (tức nước ta), uy ta
sẽ có. Rồi ta báo cáo cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ có thắng khí.
Với thắng khí ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được nước Hạ thì ai dám
quấy nhiễu Trung Hoa nữa".[24]
Vương An Thạch làm nội chính cách mạng, nhưng khi đem ra thực hiện "Tân
pháp" gặp phải rất nhiều sự chống đối trong nước, nhất là các lão thần.
Khoảng tháng 6 năm 1074, Vương An Thạch tự thấy không làm được gì, xin
từ chức. Nhưng tình hình mỗi ngày càng phức tạp hơn. Đến tháng 3 năm 1075, chỉ
sau mười tháng vắng mặt ở Biện Kinh, Vương An Thạch lại được vua Tống triệu về
chấp chính.
. Nước Đại Việt, từ lâu, đã là mục tiêu của vua tôi nhà Tống muốn đánh lấy.
Theo Vương An Thạch vẫn là "đánh lấy nước yếu để dọa nước mạnh". Triều
đình nhà Tống ra lệnh cho các tướng tá phòng thủ phía Nam[25] "chuẩn
bị lương thực, bắt lính, đóng chiến thuyền và tổ chức tập trận". Nhà Tống
còn ra sức mua chuộc các thủ lĩnh bộ tộc thiểu số vùng biên giới, hòng làm suy
giảm tiềm lực kháng chiến của dân tộc ta.
Trong lúc Tống sửa soạn đánh Lý, thì có sứ Liêu đến Biện Kinh, hỏi viên tiếp
sứ rằng:
-"Nam Man có việc gì?"
Nam Man tức là Giao Châu. Viên tiếp sứ trả lời:
- Nam Man cướp. Triều đình đã sai người dẹp.
- Binh dùng có đến vài vạn không?
- Không đến vài nghìn.
- Ai làm tướng?
- Quách Quỳ và Triệu Tiết" (LTK trang 237)
Ở nước ta, khi Lý Thường Kiệt lên cầm quyền, trước hết, ông lo việc củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng quốc phòng, để kịp thời đối phó
với quân xâm lăng nhà Tống. Trong khi đó, có người Tống ở Quảng Tây tên là Từ
Bá Tường, gửi mật thư cho vua Lý (1075) nói rằng: "Tống sửa soạn đánh
Giao chỉ. Theo binh pháp: Trước khi người có bụng cướp mình chi bằng mình đánh
trước. Lúc nào quân đại vương vào đánh, Bá Tường này xin làm nội ứng".
Khi đã nắm vững được tình thế chủ động rồi, một mặt Lý Thường Kiệt[26] tâu
vua Lý Nhân Tông xin gửi công hàm tới triều đình Tống đòi lại tụi Nùng Thiện Mỹ
và 700 bộ thuộc đã trốn sang Trung Hoa; một mặt, ông lập tức tâu vua: "Ngồi
im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc".
Triều đình Lý tán thành.
Thế là cuộc chuẩn bị đánh Tống được nhanh chóng thực hiện. Với một đội quân
từ sáu tới mười vạn người, chia làm hai đạo thủy và bộ, do Lý Thường Kiệt tổng
chỉ huy, nhằm tiêu diệt các cứ điểm quân sự của Tống ở các trại biên giới, cửa
biển Khâm Châu, Liêm Châu, và chủ yếu là đánh Ung châu.
Ngày 27 - 10 - 1075, quân ta mở đầu cuộc tiến công vào đất Tống. Trước khi
ra quân, Lý Thường Kiệt tuyên bố:
"Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi
dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin
kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép "thanh miêu", "trợ
dịch", khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mưu nuôi mình béo
mập.
Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le
độc hại. Lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót, Những việc từ trước, thôi nói làm
gì nữa!
Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp
yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng
dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng
Thuấn thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn
truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ
hãi".
Bản dịch của Trần Văn Giáp, trích Thơ Văn Lý Trần tập 1.
Lý Thường Kiệt ra lệnh tập trung thủy quân ở Vĩnh An và bộ quân ở dọc biên
thùy các châu: Quảng Nguyên, Môn, Quang Lang và Tô Mậu. Khí giới thì ngoài cung
nỏ, trường thương mà hai bên đều dùng, ta có tên tẩm thuốc độc, và máy bắn đá.
Ta còn dùng nhiều chiến thuyền và voi để xung phong. Voi có thể do cả đường
thủy và đường bộ tiến vào.
Đạo quân thuộc các bộ tộc thiểu số, do Tôn Đản chỉ huy, được lệnh xuất quân
trước, chia thành nhiều ngả vượt biên giới tiến chiếm các trại Vĩnh Bình, Thái
Bình, Hoành Sơn. châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới
Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo. "Quân
ta tới đâu như vào nhà trống không người" (VSL).
Trong khi ấy, Lý Thường Kiệt dẫn đại quân đi đường thuỷ, từ châu Vĩnh An
(móng cái) tới Khâm châu và Liêm châu. Ngày 30 - 12 - 1075, quân ta tiến chiếm
thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân, không phải giao phong một trận nào. Ba
ngày sau, 2 - 1 - 1076, Liêm Châu cũng mất vào tay quân ta. Tám nghìn
thổ binh bị ta bắt làm phu khiêng vác.
Chiếm xong hai Châu Khâm, Liêm, Lý Thường Kiệt dùng chính sách "phủ dụ"
để nêu danh nghĩa làm yên lòng dân Tống, ông sai yết bảng dọc đường kể tội quân
Tống. Lời Lộ Bố nói rằng: "Quan coi châu Quế đã kiểm điểm dân các động
và dã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao chỉ". OÂng cũng
lợi dụng sự tranh chấp giữa hai phái tân và Cựu trong triều đình Tống, để chia
rẽ hàng ngũ địch. Trong các lộ bố có nói: Trung Hoa dùng các phép thanh miêu,
trợ dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đem quân tới cứu".[27]
Khi được tin hai châu Khiêm, Liêm đã mất, vua tôi nhà Tống rất lo ngại,
hoang mang. Triều đình náo động. Các tướng ở địa phương bối rối. Ti kinh lược
Quảng Nam tây lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm
khí giới, đồ dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động,
tất cả lấy dọc đường từ Kinh đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng,
Ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía Bắc Ung Châu (LTK).
Trong lúc bối rối, triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức
Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây, đồng
thời xuống chiếu cho các quan lại địa phương, dặn rằng: "Nếu xem chừng
quân Giao Chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ lấy chỗ hiểm mà thôi.
Chỗ nào có tiền, vải, lương thực, thì phải chở tháo đi, đừng để lọt vào tay
địch" Sau đó lại ra một lệnh trái ngược, nói rằng: "Nếu quân
bỏ thành đi chỗ khác, thì lo rằng dân rối sợ. Hãy bảo các quan Ti đều phải trở
lại thành mình".
Trên các mặt trận, quân Lý hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở
Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung
châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn
đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, hình như để
chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Rồi hẹn ngày 18 - 1 - 1076, hai
đạo quân sẽ cùng hội lại tạo thành một sức tiến công bão táp và bất ngờ vây
chặt lấy Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giàm cùng với 2.800 quân
cương quyết cố thủ; để chờ quân các châu và quân triều đình tới tiếp cứu: "Cuộc
chiến đấu ở thành Ung Châu, bởi thế, sẽ rất gay go, quyết liệt, và sẽ là một
trường tranh đấu giữa mưu trí của Lý Thường Kiệt và lòng dũng cảm của Tô
Giàm" (LTK).
Ngày 11 - 2 - 1075, Trương Thủ Tiết, từ Quảng Châu, đem quân tới cứu viện;
bị quân ta chặn đánh ở ải Côn Lôn (phía bắc Ung Châu) cách Ung Châu 40 cây số.
Quân Tống bạc nhược chưa đánh đã chạy. nhiều tên quân hàng theo ta. Trương Thủ
Tiết và nhiều tướng tá bị giết.
Thành Ung châu vẫn tiếp tục bị vây hãm. Quân ta dùng một thứ công cụ (thường
gọi là máy bắb đá) nhằm bắn vào trong thành, khiến người và ngựa chết như
rác. Quân của Giàm có cung thần tí bắn một phát được nhiều tên, giết
nhiều lính và voi của ta. Lý Thường Kiệt ra lệnh cho quân sĩ chiếm thành. Nhưng
thành cao và chắc, quân ta phải dùng vân thê, là một thứ thang bắc
truyền nối nhau rất cao, để leo lên thành, nhưng vẫn không tiến thêm được bước
nào. Ta phải dùng đến kế đào đường hầm, định chiu vào thành, cũng không
vào nổi. Sau dùng hỏa công, nghĩa là bắn các chất cháy như nhựa thông
vào thành. Trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy.
Sau 42 ngày công phá mà không sao phá được, cuối cùng ta dùng phép thổ công;
lấy đất bỏ vào bị, xếp chồng lên nhau, thành bực thềm để lên thành. Bao đất
chất hàng vạn, dần dần cao như núi. Chốc lát đã cao đến vài trượng. Quân Lý nối
tiếp nhau như kiến mà trèo lên, rồi lọt vào trong thành. Hôm ấy là ngày 1 - 3 -
10761.
Lý Thường Kiệt sai phá thành Ung Châu, lấy đá lấp sông để ngăn ngừa quân cứu
viện của địch. Rồi tiếp tục tiến lên phía bắc, định lấy Tân Châu. Viên quan coi
Tân Châu, nghe thấy quân ta kéo gần đến thành, bỏ thành chạy trốn (LTK).
Sau khi Ung Châu thất thủ. Mộng Vương An Thạch định đánh lấy nuớc ta đã tan
tành như mấy khói. Dư luận xôn xao ở khắp nơi rất bất lợi cho y. Các triều thần
nhao nhao phản đối vì "ai cũng biết y là chủ mưu và hoàn toàn phải mang
trách nhiệm".Tuy nhiên, Vương An Thạch vẫn tìm mọi cách để tự bào
chữa: "Đáng lẽ, ta phải đánh khi Càn Đức (tức Lý Nhân Tông) mới lập.
Bấy giờ, các khê động đều muốn nội phụ. Nếu lúc ấy ta muốn đánh Giao Chỉ, thì
chỉ cần hai vạn tinh binh, chọn năm, sáu tướng vừa vừa, là có thể làm xong chuyện!"
Y còn nói thêm: Tôi, khi trước thấy Giao Chỉ đánh Ung Châu chưa hạ được,
trong nước chúng bỏ hoang; nên tính có thể hành động chóng mà đánh úp ở hậu
phương nó. làm như thế, thì ta không cần đánh quân nó đương cướp ở nước ta, mà
chúng cũng bị tan. Sau khi Ung Châu mất, sự đánh úp chúng không thể bàn đến
nữa" (LTK).
Cuộc hành quân thần tốc của Lý Thường Kiệt nhằm đánh phủ đầu vào đất Tống - trước
khi chúng định đánh lấy nước ta - đã làm đảo lộn hết mọi kế hoạch của địch,
khiến chúng phải chùn bước; đang từ thế chủ động rơi vào thế thụ động; vì thế
cuộc đánh phục thù và có ý đồ xâm lăng nước Đại Việt của Tống đành phải lùi lại
một thời gian nữa mới có thể thực hiện. Vương An Thạch không kịp chờ kết quả
của cuộc phát binh trả thù mà mình đã chủ mưu. Tháng 10 năm 1076, tể tướng
Vương An Thạch phải từ chức.
Khi mục tiêu của cuộc "hành quân" đã đạt được, Lý Thường Kiệt ra
lệnh cho toàn bộ quân sĩ nhanh chóng rút về nước, chuẩn bị cuộc kháng chiến mới,
chống Tống sắp sửa kéo xuống xâm lăng nước ta1.
Cuộc Khởi Binh Của Tống Đánh Nước Đại Việt
Cuộc khởi binh của Tống lần này có mục đích rõ rệt: vừa đánh báo thù, sau
khi quân ta tiến chiếm các châu: Khâm, Liêm, Ung vừa có chủ ý "chinh
phục nước ta và sáp nhập đất đai ta vào Tống".
Chỉ sau 8 ngày, Ung Châu bị quân Lý chiếm, ngày 9 - 3 - 1076, vua Tống cử
Quách Quỳ làm An Nam đạo hành doanh mã bộ quân tổng quản chiêu thảo sứ, Triệu
Tiết làm phó, cầm quân sang đánh Đại Việt.
Muốn chắc đạt mục đích, một mặt, Tống sửa soạn một cách chu đáo về đủ mọi
phương diện: tướng tá, quân bộ, quân thủy, khí giới, thuốc men, xe ngựa, tàu
thuyền, tuyên truyền, phủ dụ.; mặt khác, vua Tống sai sứ qua Chiêm Thành, Chân
Lạp xúi giục các nước này đánh biên thùy phía Nam nước ta.
Trong chiếu dụ vua Tống có đoạn:
"Chiêm Thành, Chân Lạp từ lâu nay bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sứ sang
đánh Giao Chỉ để phạt tội. Các nuớc ấy nên thừa cơ hội, hiệp lực mà trừ nó.
Ngày nào đánh dẹp xong, trẫm sẽ ban thưởng cho"2
Ngày 27 - 3 - 1076, Quách Quỳ từ giã Phu Diên về đén Biện Kinh. Quỳ vào yết
kiến vua Tống, vua hỏi: "Dẹp An Nam bằng chước nào?"
Quỳ cẩn thận trả lời: "Về việc binh, khó lòng ở xa mà tính trước.
Xin đợi đi đến Ung Châu, rồi sẽ hiến phương lược". Vua lại hỏi: "Dùng
quân phải thế nào? Quỳ đáp: "Xin đưa theo tất cả tướng, lại, quân, sĩ cũ ở
các châu Phu Diên tại Hà Đông (Thiểm Tây)" (LTK).
Lời tâu của Quách Quỳ được vua chuẩn y vì trước kia, triều đình Tống cũng đã
có lệnh chọn những tướng tài có kinh nghiệm chiến đấu ở chiến trường phía bắc
sung vào việc cầm các đạo quân Nam chinh.
Tống Thần Tông xuống chiếu dặn rằng: "Sau khi bình được Giao Châu,
sẽ đặt châu huyện như nội địa".
Với một đạo quân hùng hậu hơn mười vạn người, do chính tướng từng có kinh
nghiệm chiến đấu chống quân Liêu - Hạ từ phía bắc xuống, đặt dưới sự chỉ huy
của Quách Quỳ. Mỗi tướng điều động chừng 5.000 quân. Vậy có 45 ngàn quân chính
qui, trong số đó có 2.500 kî binh châu Kinh, Nguyên, Tần, Lũng.1 Bộ
binh phần lớn lấy ở doanh trại đóng gần biên thùy Liêu _ Hạ, là những toán quân
chiến đấu giỏi. Ngoài 5.000 quân chính qui ra, dọc đường sẽ mộ thêm binh các lộ
Hà Bắc, Kinh Động và ở miền nam, Động Đình và quân tình nguyện.(1)
Vua Tống còn dặn thêm: "Hãy coi chừng tụi thuyền chài bờ bể, thường
làm nghề đánh cá, mò châu. Chỉ cho chúng ở các vùng bể. Nếu chúng ra vào, thì
phải xét chúng đi đâu, kẻo sợ chúng làm trinh thám cho Giao Chỉ" (LTK).
Tại chín huyện thuộc Quế Châu, Quách Quỳ ra lệnh bắt 8.500 bảo đinh, 91.200
các hạng khác. Bảo đinh được cấp tiền gấp hai những hạng kia, vì bảo đinh có
thể dùng làm chiến binh (LTK). Do đó, quân tuy nhiều, nhưng là ô hợp, ngôn
ngữ bất đồng, khó điều khiển, nên giá trị chiến đấu không đều.
Chủ lực Tống là bộ binh. Quách Quỳ và Triệu Tiết đều là những tướng giữ bắc
thủy, quen với lính cưỡi ngựa vùng cao nguyên và sa mạc, nên cuộc nam chinh lần
này, Quách Quỳ đã đem theo một vạn con ngựa. Tống cũng chuẩn bị một toán thủy binh
phối hợp với bộ binh, nhưng thủy binh Tống tới khi hữu sự, mới chiêu nạp hay
cưỡng bức đám dân chài lưới ở dọc bờ bể tòng quân, và rất ít được tập luyện;
hơn nữa, thủy binh không có chiến hạm, như vậy làm sao so được với thuỷ binh
của ta vốn đi chiến trận và có truyền thống đánh đuổi quân Hán - Tống, dưới
thời Ngô Quyền - Lê Đại Hành, lập nên những chiến công hiển hách, làm khiếp vía
kẻ địch.
- ·Về Lương Thực Và ChuyênChở
Vua Tống hạ chiếu lấy ở Kinh Phong 1000 cỗ
xe, đóng 1000 thuyền đáy bằng để chở tiền và lương thực, và phải dùng tới
bốn vạn phu khuân vác. Ti chuyên vận xin 45 vạn quan để mua 50 vạn thạch thóc
(mỗi thạch bằng 10 bát). 44.800 thạch đậu, hơn 36 vạn bó cỏ, và trâu, dê, lợn,
rượu. Ngày 28-10-1076, vua Tống cấp thêm 150.000 quan, giao cho Quảng Đông mua
lương thảo. Theo Lý Bành Nhật: "Lương khẩu cần cho 10 vạn quân và một
vạn con ngựa ăn trong một tháng phải có 40 vạn phu chuyên chở. Một tháng đã
vậy; huống chi, từ nay đến lúc tới sào huyệt giặc, không phải chỉ một tháng mà
thôi. Nay tính cho rộng rãi, trừ phần quân và ngựa tự chở lấy, trừ phần có thể
lấy ở địa phương sản xuất; còn dư, ta sẽ mua trâu bò mà chở. Dọc đường, ta lại
làm thịt, sẽ cấp cho các đồn điền cày. Làm như thế ta có thể giảm bớt phu. Ta
lại bỏ bớt những đồ không cần gấp. Ta sẽ dùng xe lừa kéo, cho đi đi, lại lại, ma
chở. Nói tóm lại, ta có thể bớt số phu đi một nửa, còn 20 vạn mà thôi" (LTK).
Cũng vì thiếu phu khuân vác, Ty An Nam chiêu thảo đã phải bỏ bớt một nửa tên
bằng sắt, chỉ mang theo 32.400 cái mà thôi.
- ·Về Y Dược theo viện Hàn
Lâm y quan chọn 75 bài thuốc trị lam chướng, vàsai sở hạp dược chế thành
tể, rồi mang theo quân. Vua tống còn sai thái y cục chế 30 bài thuốc chữa
lam chướng, bảo sứ đem giao Ti An Nam hành doanh tổng quản, và truyền 5, 7
lương y gửi gấp theo quân.
Đại quân Tống sẽ kéo xuống, tập trung tại chân Ung1, phân
phối đóng ở các thành, trại, dọc theo biên giới các châu thuộc nước ta: Quảng
Nguyên, Môn Châu, Quang Lang và Tô Mậu. Quách Quỳ cũng ra lệnh cho viên Hàm hạt
Quảng Đông là Hòa Mân cùng Dương Tùng Tiêu đem thủy binh từ Quảng Đông dọc ven
biển tiến vào hải phận Vĩnh An.
Bắt đầu tháng 8 năm 1076, những cánh quân Tống đã đột nhập miền đất nước ta,
do Thẩm Khởi cầm đầu, đánh chiếm châu Vĩnh An.
Tháng 10, Yên Đạt đánh vào châu Quảng Nguyên (Cao Bằng), một vị trí chiến
lược của ta, mà có lần Quách Quỳ đánh giá rất quan trọng: "Quảng Nguyên
là cổ họng của Giao Chỉ. Có binh giáp mạnh đóng ở đó. Nếu ta không đánh lấy
được, thì sau khi ta đi sâu vào đất chúng, quân ta sẽ bị đánh cả mặt trước và
mặt sau".
Lưu Kỷ đốc thúc 5.000 quân cự chiến, nhưng đến ngày 1-1-1077, Quảng Nguyên
bị mất.
Ngày 8-1-1077, Quách Quỳ dẫn đại quân từ Tư Minh, Bằng Tường (giáp giới
phía bắc châu Quang Lang nước ta) theo đường, qua ải Nam Quan đánh vào ải
Quyết Lý, bị quân ta - do phò mã Thân Cảnh Phúc chỉ huy -1 chặn
lại ở đây. "quân Tống không thể tiến, Quỳ sai quân cung tiễn thủ lấy
nỏ bắn vào voi. Voi sợ, quay chạy, daüm xéo lên quân Lý. Quân Lý tan vỡ. Quyết
Lý mất"(LTK). Ở mặt tây, Khúc Trân rời Quảng Nguyên, tiến quân sang đông nam
đánh Môn Châu. Ở mặt đông, quân Tống từ các Lộc Châu, Tư Lang tiến vào Tô Mậu2.
Quân Tống đóng trên một tuyến dài 60 dặm (khoảng 30 cây số) từ bến đò Như
Nguyệt đến gần núi Nham Biền.
Bờ bên này là quân của ta trấn ngự.
Dòng sông Như Nguyệt trở thành chiến tuyến thiêng liêng mà Lý Thường Kiệt đã
"tiên liệu" chọn làm nơi phòng ngự cuối cùng nhằm chặn đứng cuộc tiến
công của địch vượt sông, chiếm lấy kinh đô Thăng Long. Ông đã sai đắp đê nam
ngạn cao như một bức thành đất.
Ngoài đê, đóng cọc tre mấy từng lớp để làm giậu. Quân ta đóng dọc theo sau
lũy tre dài gần 100 cây số, saün sàng đón đánh địch, nếu chúng chực qua sông.
Đại bản doanh quân ta đóng ở Thiên Đức và Thăng Long. Còn thủy quân chia làm
hai ngả: một, do Lý Kế Nguyên đốc suất, giữ sông Đông Kênh (Vân Đồn), để chặn
thủy quân Tống không để lọt vào nội địa; một, đóng ở Lục Đầu vùng Vạn Xuân để
tùy cơ ứng biến.
Phòng tuyến ta rất kiên cố. Mà quân Tống lại không có thuyền để qua sông.
Thủy quân1 cũng
không thể tới. Quân Tống bị chặn đứng ở bên kia sông Cầu. Quách Quỳ sai bắc cầu
phao, đóng bè lớn, mỗi lần, chở đuợc 500 quân sang sông, hết lớp này đến lớp
khác, rầm rộ tiến công vào phòng tuyến của ta. Quân ta từ trên bờ cao đánh
xuống quân Tống, phần bị chết, phần xin hàng, đạo quân đã qua sông hoàn toàn
tan rã.
Đã hai lần quân Tống vượt sông thì cả hai lần đều thất bại nặng nề.
Quách Quỳ chán nãn, thất vọng, không dám nghĩ đến việc vượt sông nữa, và ra
lệnh: "Ai bàn đánh sẽ bị chém".
Tống Thần Tông trước kia từng dặn Quách Quỳ: "Phải lo việc An Nam cho
chóng xong. Khi đem quân vào cõi chúng, ta phải đánh cho chóng được. Sau khi
bình được Giao Châu, sẽ đặt châu huyện như ở nội địa". Giấc mộng bá
chủ trên đây nhằm "chinh phục nước ta và sáp nhập đất đai ta vào
Tống", đã không thể nào thực hiện được.
Hơn một tháng bị lún chân ở bên kia khúc sông Như Nguyệt, quân Tống lâm vào
tình trạng bi đát: lương thực ngày một vơi dần, đường tiếp vận quá xa xôi, phu
phen thiếu thốn, lại bị quân ta chặn bít kín các ngả, không thể nào chuyển được
lương thực tới nơi. Sau lưng địch, những toán quân nhỏ của ta vẫn không ngừng
hoạt động quấy phá. Cộng vào đó, thời tiết đang chuyển dần sang nóng nực - sức
nóng dữ dội của mùa hè - không thích hợp với quân Tống. Số quân lính vàphu
vận chuyển mệt mỏi, chết dần chết mòn mất quá nửa, số còn lại cũng bị ốm đau. "Lương
ăn của chín đạo quân đã cạn. Lúc ra đi, quân có 10 vạn, phu có 20 vạn. Vì nóng
nực và lam chướng, quân phu đã chết mất quá nửa rồi. Còn non nửa, cũng đều
ốm" (LTK).
Thời cơ và hoàn cảnh rất thuận lợi cho ta chuyển sang thế phản công. Hai
hoàng tử Hoàng Châu và Chiêu Văn, theo kế hoạch đã vạch saün, dẫn 500 chiến
hạm, đổ bộ vài vạn quân đánh vào trận tuyến địch ở vùng sông Kháo Túc (sông Cầu
gần núi Nham Biền) để nhử địch về hướng này, rồi kéo quân xuống thuyền trở về
căn cứ địa, bị quân địch bắn đá như mưa làn thuyền chìm. Quân ta bị chết đuối
khá đông và hai hoàng tử cũng đã hy sinh anh dũng. Nhưng sau đó, vào một đêm
không trăng sao, đại quân của ta, do Lý Thường Kiệt chỉ huy, mở cuộc TỒNG PHẢN
CÔNG bất ngờ đánh úp vào doanh trại chính của địch. Quân Tống đại bại.
Trước khí thế chiến thắng oanh liệt ấy, Lý Thường Kiệt dõng dạc đọc vang
trước ba quân bài thơ lẫm liệt bất hủ:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư".
Tạm dịch:
1) Nước Việt nam, vua Nam quản trị
Sách trời vạch định rõ.. biên cương
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Quyết đánh không tha, buộc chúng hàng.
2) Vua Nam ngự trị nước Nam ta
Ranh giới. sách trời đã vạch ra
Quân giặc, cớ sao sang cướp phá?
Bọn ngươi chuốc lấy nhục thua mà!..
Bài thơ ngắn, vỏn vẹn chỉ chó 28 chữ. Mà hồn thơ là hồn của dân tộc nên lời
thơ như sấm sét đã tác động tâm lý người đọc (hay nghe) đến phải sửng sốt rợn
tóc gáy1. Toàn
bài thơ chứa đựng cả một nội dung triết lý "chính trị nhân sinh", nói
lên sức lớn mạnh của một nước Đại Việt Tự Chủ (mà) Lý Thường Kiệt là người đại
diện triều đình, đại diện cho toàn thể quốc dân, tuyên bố lúc mở cuộc tổng phản
công diễn ra tại khúc sông Như Nguyệt. Với lời thơ ấy, đã khích động lòng yêu
nước, trí thông minh sáng tạo, sức dũng cảm phi thường của tướng sĩ ta: cương
quyết đánh đuổi quân xâm lăng nhà Tống ra khỏi bờ cõi, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, giữ gìn nền độc lập thống nhất của dân tộc, mở ra một Sinh lộ mới
đầy tự hào, phấn khởi cho con cháu mãi muôn đời về sau.
Sau cuộc thắng trận ở sông Như Nguyệt và khi đã nắm vững tình hình một cách
chủ động, Lý Thường Kiệt cũng như triều đình nhà Lý, (thấy đã đến lúc) đứng ra
đặt vấn đề điều đình để Gơõ thế kẹt cho địch, đồng thời nhằm chấm dứt
chiến tranh, để mưu lợi cho dân tộc: "Không nhọc tướng tá, khỏi tốn
xương máu mà bảo toàn được tôn miếu, xã tắc"2
Công việc thương lượng được tiến hành gấp. Quách Quỳ đang ở trong thế bí,
như một kẻ sắp chết đuối vớ được phao, vội vã nhận "giảng hoà", rút quân
về nước.
Quách Quỳ bùi ngùi than thở với những thuộc hạ của y: "Ta không đạp
đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức, để báo mệnh triều đình; đó là tại
trời! Thôi ta đành liều một thân ta, chịu tội với triều đình, để mong cứu hơn
mười vạn nhân mạng3"
Tháng 3 năm 1077, đang đêm, Quách Qùy cho lệnh rút quân. Các bộ binh và kî
binh hoảng hốt rút chạy trong cảnh hỗn loạn "giày xéo lên nhau để mong
được thoát chết trở về nước". Quân Tống rút đến đâu, quân ta theo sát
đến đó và thu hồi những đất đai bị địch chiếm đóng (các châu: Quang Lang, Môn,
Tô Mậu, Tư Lang) một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng), nơi sản xuất nhiều khoáng sản quí, nhà
Tống toan tính chiếm làm thuộc địa. Nhưng triều đình ta nhất quyết đòi. Cho mãi
đến tháng 11 năm 1079, vua Tống đành phải giao trả lại châu Quảng Nguyên.
Cuộc chiến tranh xâm lăng do nhà Tống phát động với chủ ý "thôn tính nước
Đại Việt" bị thất bại, đã làm hao tổn rất nhiều nhân mạng, vật lực, tài
sản.
Sau khi rút quân về nước, kiểm điểm lại thì: "Lúc ra đi quân có mười vạn,
phu có 20 vạn, và một vạn con ngựa. Lúc trở về chỉ còn 23.400 người và 3.174
con ngựa. Phí tổn hết 5.190.000 lượng vàng" (dẫn theo sách LTK), còn
sách ĐVSKTTchép: "Khi quân ta đánh chiếm thành Ung Châu, giết
hết 58.000 người. Cộng với số người chết ở các châu Khâm - Liêm lên đấn 10 vạn.
Đấy là chưa kể số người bị quân ta bắt sống (ở 3 châu ấy) đem về."
Lịch Sử Việt Nam, tập I, đã ghi lại những thành tích cuộc kháng chiến
chống Tống dưới thời vua Lý Nhân Tông: "Do thắng lợi oanh liệt của cuộc
kháng chiến mà trong suốt cả thời kỳ thống trị ở phương bắc từ đó về sau, trong
khoảng 200 năm, nhà Tống không dám đụng chạm đến đất nước ta. Yù chí xâm lược
của nhà Tống thực sự đã bị đè bẹp dưới sức mạnh đoàn kết đấu tranh kiên cường,
bất khuất và trí tuệ sáng tạo của dân tộc ta. Ýnghĩa lịch sử quan trọng của
cuộc kháng chiến là buộc nhà Tống, năm 1164, phải công nhận nước ta là một
vương quốc độc lập" (Sđd trang 181).