07-(C)Về Văn Học (3)NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA ĐẠO PHẬT
CHO DÂN TỘC, DƯỚI TRIỀU LÝ (1010 - 1225)
Hòa Thượng. Thích Đức Nhuận
Và
dưới đây là Bia Tháp,Sùng Thiện Diên Linh của Vua Thứ Tư (nhà Lý) Đương
Làm Chủ Nước Đại Việt do Triều liệt hình bộ thượng thư, binh bộ viên
ngoại lang, đồng tri phiên công viện chư sự, thần NGUYỂN CÔNG BẬT phụng
sắc soạn, kể lại cuộc đời, công nghiệp của vua Lý Nhân Tông và việc xây
dựng Tháp cùng một số công trình kiến trúc khác dưới đương triều. Bản
văn quá dài, nên chỉ xin trích một đoạn cuối.
". Kính nghĩ đức hoàng đế, bệ hạ, bậc "Thánh hiền thế đạo, thánh văn
thần vũ, anh cách dân vật, vạn linh chiếu ứng, vĩnh long nguyên hóa,
thông minh quảng vận, nhân trí ý nghĩa, thuần thành minh hiếu" của triều
Lý, là do đất trời chung đúc; nhật nguyệt kết tinh. Cho nên điềm lành
báo trước; triệu tốt mở ra. Phụ hoàng nằm mộng, nước ngoài dâng voi
trắng sáu ngà; mẫu hậu có thai, gác tía phủ rồng vàng năm sắc. Đó là
điềm lúc bệ hạ đầu thai vậy.
..
"Ơn khắp cỏ cây muông thú; trí nhanh gió táp mưa sa. Sách kinh nội
điển, tinh thông tới chỗ yếu huyền; pháp thuật ngoại quyền, thâu tóm
được toàn tôn chỉ. Đức lớn đẹp như đá vàng, sáng hơn tinh đẩu; đặt tên
hay cho điện tháp, chiếu rọi xưa nay. Sành phép viết để thông thần; vận
bút vua đến tuyệt diệu. Thế chữ tựa rồng bay phượng múa, phép viết từ
tay ngọc viết ra; hình chữ như loan liệng thước bay, thể chữ do lòng vua
thể nghiệm. Khắc biển vàng để chốn phạm cung; chọn ngọc tốt đặt nơi đạo
quán. Tứ thơ tóm muôn hoa của thợ trời; nhạc phổ hòa âm thanh của nhà
Phật. Phép viết chữ thì cùng cứu đến huyền cơ; tài bắn cung thì tinh
thông đến diệu thuật. Đó là bệ hạ tinh thông sâu rộng ở chỗ tài nghệ
vậy.
"Gặp lúc trung thu cảnh đẹp; muôn việc nghỉ ngơi. Mở lòng thành sửa
soạn cỗ bàn; bày lễ thịnh cúng dàng hoàng khảo. Lại tới sớm mồng ba, mới
sắm sửa xe giá. Cưỡi xe ngọc ra ngoài chín bệ; lên xe châu giong ruổi
đường vàng. Quạt lông trĩ che ở hai bên; kiệu nạm bạc vây quanh bốn
phía. Lọng vàng rợp trời: cờ màu lóe nắng. (Như) sao băng rậm liễu;
(như) sao chuyển đường hoa. Hướng trường lô sông biếc; ngự điện báu linh
quang. Nghìn thuyền như chớp giật giữa dòng; muôn trống như sấm vang
dậy nước. Dưới hiên ngọc thết hội đồng phương bá; trong thềm đan tâu
chương biểu sứ tiên. Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập
dờn; phơi mai văn để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững. Liếc mắt nhìn
bờ; hé môi phun bến. Ngửa trông giải mũ nhà vua; cúi xét bầu trời lồng
lộng. Trông vách dựng cheo leo; dạo nhạc thiều réo rắt.
Cửa động
mở ra; thần tiên xuất hiện. Đều là dáng điệu thiên cung, há phải phong
tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi Phong (1); nhăn mày thúy ngợi ca
vận tốt. Chim quí từng đàn ca múa; thú lành thành đội xênh xang. Tới
lúc ác vàng xế bóng; xe báu sắp về. Đến giữa đường bằng phẳng; ở ngoài
cõi Quảng Thiên (2). Hướng thẳng đài cao về lục địa; quay lưng rùa lớn
đội ba non. Ngắm bàn son mà vẫy đầu, kéo đuôi an phận. Chim líu lo trong
mây; hổ hầm hầm xuống núi. Trổ hết oai hùng; cắn vồ thú nhỏ. Gặp lúc
Thượng lâm đệ tử, cầm lọng trĩ cán son. Thét thất thanh xô đến trước
vua; đắp bãi rộng làm nơi săn hổ. Kéo cung ruổi bắn; rút kiếm vây quanh.
Kẻ trổ oai trong chốc lát; người đón đánh lúc bất ngờ. Lân quốc mến nên
dắt già bế trẻ; chư hầu vui mà vượt núi băng tường. Chăm chú xét xem
chính giáo; ngóng chờ mong thấy mặt vua. Khắp chốn trang hoàng gấm vóc;
hàng năm vui vẻ ba ngày. Đưa đời người lên cõi Hồ thiên; đặt dân chúng
vào nơi lạc quốc. Đó là việc nhà vua suy xét mà chế tạo rùa vàng vậy.
Làm sáng tỏ sự kỳ diệu của mưu thần, nên chế tạo sự tinh kỳ của
thuyền ngự. Theo hình đặt hạm đội tráng hùng; lập cách dựng nghìn thuyền
tú lệ. Đặt lầu gác ngất trời; dựng thềm hiên cao vút. Trong đặt tòa
thêu cao vọi, để nhà vua rộng tầm mắt nhìn xa; cạnh xen hàng gấm rỡ
ràng, cho thể nữ được saün sàng hầu cận. Dốc châu báu trang hoàng; đủ ba
cung nhà cửa. Giữa dòng buổi sáng lênh đênh, ngỡ hải thần hà hơi chặn
sóng; góc bến ban chiều dừng lại, tưởng rùa vàng đội núi chọc trời. Đó
là tài chế tạo khéo léo và tân kỳ của bệ hạ vậy.
Rộng vận thần thông; cả suy thánh đoán. Sửa sang thắng sự; chăm tới
lương duyên. Dựng đài cao quảng chiếu; hướng sân trước đoan môn. Trong
nêu một cột; ngoài đặt bảy tầng. Uốn hình cung nâng lấy sen vàng; may
lồng nhiễu che cho ngọn lạp. Dấu cơ vi ở duới đất, như bánh xe xoay
chuyển; rực ánh sáng ở giữa trời, như bóng ác chói chang. Lại có bảo
thánh rực rỡ trang nghiêm; điện vàng viện báu. Do ý thánh nên; đặt tượng
vàng hai dãy, dáng tỏ linh văn; hình phô kỳ lệ. Lại có hai tòa lầu hoa,
trong treo chuông vàng, khắc chú tiểu mình mặc áo nâu sồng; vặn máy
ngầm giơ vồ chuông lên đánh. Nghe vỗ bao gươm mà đứng nghiêm quay mặt;
nhìn thấy thánh minh mà khom cật cúi đầu. (Những việc này) đều nảy ra từ
ý nhà vua, muốn sao được vậy. Lại có đài cao thất bảo, xếp thành một
dãy, chính giữa có một ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Như Lai Đa Bảo; bày
chân hình xe pháp mấy tầng.
Mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi
sáng; màu ngói huy hoàng vẻ mây biếc ban chiều. Thứ đến hai tòa bạch
ngân: bên tả đặt chân dung Phật A Di Đà; bên hữu để xá lị của sắc thân
mầu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khoẻ; vẻ đẹp phô rõ mái cong. Long lanh
ngỡ tuyết trắng đang tan; rực rỡ át trăng thu vằng vặc. Thứ nữa lại có
hai tòa Điểu văn; bên tả đặt từ nhan của Chính Giác; bên hữu đặt diệu
tướng của Bồ Đề. Đã hoàn thành gác lớn; lại xây dựng lầu cao. Nóc che
ngói quý; vách chạm hình rồng. Lại thứ nữa có hai tòa ngà voi; bên tả
chạm hình dung Phật Cam lồ; bên hữu đặt diệu tướng Phật Bảo Thắng. Gọt
mài chất quí; cao dựng cột hiên. Các cạnh nạm ngọc quí, cá khe khảm sừng
tê. Lại soạn kỹ những lời ghi đẹp đẽ, đều khắc vào bên cạnh tòa sen. Mở
tấm lòng trong trắng; soi sáng mãi đời sau. Lại tả chín phương bằng năm
sắc; khắc bốn cột bằng song huyền. Hai bên nghìn đèn nhấp nháy; bốn mặt
rực rỡ vàng son. Có thể gọi là: hơn xa chế độ xưa nay; vượt hẳn sinh
thành tạo hóa. Dồn hòa vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày; thỏa tâm
mục của thế gian, già nua nay trẻ lại. Đó là công lao khéo xây dựng
thắng duyên của bệ hạ vậy.
Tôn sùng Đạo Phật, hâm mộ thắng nhân. Mở chùa Diên Hựu; ở tại vườn
Tây. Dấu vết theo qui mô thuở trước; Lo toan do thánh ý ngày nay. Đào ao
thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một tòa sen
nghìn cánh xèo ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm; trong đến đặt pho
tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào
ao Bích Trì, bắc cầu cong để đi lại. Ởsân trước cầu, hai bên tả hữu xây
tháp lưu ly. Để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân
ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an; bồn chậu
đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở
vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng
khí cụ bồi hồi nhảy múa. Tinh cần chẳng trễ; kính phụng nào ngơi. Vì vậy
mà huyền tạo linh thông, để cùng phù hộ. Đó là bệ hạ dựng chùa thờ Phật
để cầu phúc thọ.
Trên vừa trị yên trong nước; dưới đương giúp đỡ lân bang. Bỗng lính
thú nơi biên khu trở mặt; gây nên hiềm khích dỡ dang. Vội vàng chống
địch; làm nhụt oan thù. Quân châu Ung muôn ức tan tành như mây mù gió
cuốn; quân Như Nguyệt trăm vạn đổ vỡ như gặp nắng băng tan. Tự thi hành
do viên tướng ngoài biên, đâu có phải lòng vua quyết định. Đưa hoàng cực
lên cõi thanh bình; dẫn sinh dân đến nơi giàu có. Quạt gió nhân giáo
hóa nước nhà; ra ơn huệ ban cho khắp chốn. (Do đó) Hoàng Vương Xạ Chế
lìa cung thất đến chửa khuyết xưng thần; quốc chúa La Vu bỏø đất nước
tới đan đình qui phụ. Dốùc ý kính yêu bệ ha; nghiêng lòng hướng tới mặt
trời. Gần đây bọn mán Ma Sa, cậy có non sông hiểm trở; sinh lòng lang
sói, không theo giáo hóa triều đình. Vua ta nổi giận; xe giá lên đường.
Mãnh tướng như mây theo; mưu thần như mưa họp. Dàn quân sĩ ở đồng hoang;
đánh úp bọn dân hung hãn. Bọn tù trưởng bị bắt; lũ đầu sỏ cầm tù. Ngoài
ra thì máu nhuốm cỏ hoang; thây phơi rừng suối. Thả hùm thiêng bắt
chuột, nào có khó gì; lăn đá to ép trứng, sao mà dễ thế. Đó là lệ thường
mỗi khi bệ hạ dùng võ vậy.
Nhân dân hòa hợp trăm họ yên vui. Mùa xuân ra mắt, dâng kính ngọc
ngà; mùa thu vào chầu, trình bày chức vị. Họp các nước chư hầu mà yến
thưởng; xây bảo đài cho ba cấp quân tiên. Lợp ngói bạc sáng chói trời
xanh; đặt tòa sen phô bày tướng báu. Trên nóc phượng hoàng đứng thẳng;
chung quanh rồng lớn đùa vờn. Lọng trang sức thất trân; đai trang hoàng
bách bảo. Đó là: thềm trên cao nhất, thánh thượng ngự chơi; bậc giữa tầm
thường, cung tần chầu chực. Nhạc quan đứng sắp dưới sân, đều cùng nhảy
múa. Ráng sức thiên tài làm nên điệu khúc; vỗ về phiên thuộc xa tới ấp
Phong. Lưng trời tiếng át mây bay; hòa sáo vang thêm ân sáng. Đó là đức
cao nhất về sửa sang văn giáo của bệ hạ.
Làm chân chủ của đất trời; xét huyền cơ của tạo hóa. Vận trí biến
thông; hiểm mưu đầy khắp. Tinh tường âm hưởng nước ngoài; phiên dịch yếu
đoan mọi nghệ. Chế ra khúc múa tuyệt vời; tỏ rõ niềm vui đời thịnh. Lại
chế khúc "tiên tử xuống mây", véo von tiếng hát, ngợi ca công lớn tiền
vương; và khúc "sao băng rời chỗ", uyển chuyển dáng hình, chúc tụng ơn
sâu giáo hóa. Đó là sự lo toan nhiệm mầu của bệ hạ vậy.
Đức cùng trời đất, nên năm châu chói sáng; ơn tới cá chim, thì muôn
vật dâng điềm. Mười chim rồng thần quang phục thềm quỳnh điện báu; một
nghìn voi trắng hộ trì vườn cấm ao tiên. Tỏ rõ sự dài lâu của ngôi báu;
hợp phù sự hưng thịnh của phúc lành. Cho nên, trời hiện điềm thiêng;
rừng phô vật lạ. Nên voi thần xuất hiện; hình thù to đẹp; trán hiện thần
quang. Nghiệm văn thái sạch trong có bậc; bẩm thông minh chiếu rọi
không cùng. Vua đặt tên cho "Thần tượng siêu quần". Ưu đàm đưa thơm, Xá
lị hiện ngọc; cỏ cây dâng phúc, thần vật báo điềm. Nêu lên sự ban phúc
không cùng; chỉ rõ sự truyền ngôi vô hạn. cỏ thơm mọc hai lượt; hiêu
trắng đến sáu lần. Nai tuyết lại một con; hoaüng đen về một cặp. Thừa
mệnh thiên đế; giữ lâu phúc trời. Dồn dập tỏ điềm lành; song song phô vẻ
lạ. Rùa nghìn chấm năm màu; sen hai gương một nhánh. Ơn thấm suối
nguồn, vật dâng điềm lạ.
Cảm ứng sự yên tĩnh của muôn dân; gợi
bảo sự hưng long của xã tắc. Nên: vành trăng tán ở tầng trời; ánh vàng
rọi từ khe tối. Tỏ rõ sự sáng soi là hữu hạn; nói lên sự tế đoán là vô
cùng. Điềm trời báo phúc; khe tối dâng điềm. Một cây cau tía; nảy lắm
mầm thiêng. Giống như các nước bảo vệ triều đình; cũng tựa khắp trời phù
trì nguyên thủy. Thời qua chín chục, tiết đến mồng năm. Chuột sinh lông
trắng, thông biến lọng nghiêng. Giống như tổ hạc mà dâng điềm lạ; coi
rẽ hằng nga để tỏ phúc lành. Hợp với sự thanh bình của bốn bể; hòa cùng
sự êm ấm của muôn dân. Sẻ trắng, cưu vàng tụ tập; rồng xanh, cò trắng
dâng trình. Dãi tỏ dung nghi trong sạch, nổi lên "duy nhất duy tinh";
đổi thay chất cũ chân thường, theo được "hay nhân hay thứ".
Triệu
dao chìm, ngựa ký sinh ra; móng mềm nhẹ, trâu đen xuất hiện. Đàn nhạn
hợp mà phương xa thần phục; mãnh hổ vờn mà khắp chốn sợ oai. Bươm bướm
thành đôi; tuyết lành dầy đọng. Mưa tuyết hạt bay đầy thước; tượng trưng
thời đại thái bình. Mượt mà như lông phượng khác thường; rực rỡ như đàn
cò thành dẫy. Đàn quạ trắng đua bay; đám ngỗng trời tranh liệng. Tỏ rõ
sự tinh cần báo đáp; cảm thông lòng thuần hậu thảo hiền. Đọc Phật kinh
trọn cuốn mà không ai sánh kịp; chúc thánh thượng muôn năm mà qui định
lệ thường. Cau quả ngậm châu; cành dương rưới ngọc. Điềm lành quanh quất
chốn Cửu Long, át xa châu báu, triệu tốt sinh đôi đầy các ngả, vượt tới
phương xa.
Ôi ! Vâng chịu phúc dầy trời đất; kế thừa mệnh lớn tổ tông. Hơn năm
mươi năm trị nước; hàng bao nhiêu nước sợ oai. Mưa nắng hợp thời; trăng
sao đúng độ. người thường nghĩ; việc làm ruộng là căn bản trước tiền,
nền chính sự ắt nhờ vào đó. Tuy hàng năm vẫn phải thân hành; nhưng ý chí
chưa từng trễ nải. Ngày tháng năm mùa hạ, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh
thứ chín (1118), nhà vua cưỡi xe phượng phi tiên; đáp thuyền rồng diệu
bảo. Nắng đẹp sóng im; triều lui mây tạnh. Qua dòng Hà Lô; thấy bến Long
Lĩnh. Tuy thế núi chênh vênh, nhưng đỉnh vun bằng phẳng. Vua bèn truyền
lệnh; buộc dây dừng thuyền. xuống chiếu cho các quan hộ giá mà bảo họ
rằng:
- Trẫm muốn dựng một ngôi chùa ở núi này có được chăng?
Tả hữu bước ra, tâu rằng:
- Chúng thần nghe các cụ già trong làng kể lại; ở núi này cứ đến đầu
xuân thì trời thường mưa để nhuần thấm cho muôn dân. Vậy bệ hạ nên dựng
chùa, để chóng thành thiện quả. Và xin bệ hạ đặt tên núi này là Long
Đội.
Đức vua chuẩn y, bèn hạ lệnh cho viên quan coi ngày, xác định phương
hướng; mặt chùa trông ra Kinh, gió lặng sông như lụa biếc dải ra; lưng
chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu
khống chế bình nguyên, trông tới lũy cũ Càn Hưng; bên tả men theo sông
nhỏ, quanh Hán thủy để ra khơi. Xuống chiếu cho thợ thuyền căng dây nảy
mực. Thi của cải làm sáng thêm công đức, khiến quan coi rừng gắng sức để
giảm bớt dân tư; chuyển gỗ rừng hết sức thần kỳ, sai thợ mộc giỏi trổ
tài để việc làm khéo léo. Lấy đá mân làm đấu; dùng đá vũ dựng hiên. Xây
mười ba từng chọc trời; mở bốn mươi cửa hóng gió.
Vách chạm rồng
ổ; xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng Xá lị, tỏa tường quang
cho đời thịnh sau này; đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc
dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô; đứng hộ vệ có
thần nhân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Đa Bảo Như Lai: sức thề nguyện
sâu rộng; đành hiến cả thân mình. Nghe kệ sen giúp đỡ oai thiêng; lắng
kinh Phật chia đôi tòa báu. Treo phướn vàng rực rỡ; cắm lọng tía long
lanh. Sân thềm có bậc; lang vũ hai bên. rồi bên tả chùa dựng cung tứ
giác: ngậm hai mâm trấn đất; đội tám tướng chầu trời.
Nêu cao
khí tượng cho danh sơn; truyền rộng thánh công cho hậu thế. Bên hữu
chùa, dựng nhà khám nhọn vuông, trong đặt Tân Đầu hòa thượng (là người
bị Phật) đày ra Ma Lê sơn. Nhận lời dặn của Như Lai; vì chúng sinh mà
chứng phúc. Tầng dưới xây đài Lăng Hán, treo đỉnh khí Thú sơn; buộc chày
kình Bích Hải. Khi đánh thì âm vang tràn ngập ở đường trời; khi nghe
thì lưỡi kiếm thôi vung nơi khổ ải. Xây tường bảo vệ; dựng hiên phô
trương. Bắc cầu mở rộng đường thôn; trồng bách thành hàng hai dãy. Hết
tinh thành tôn sùng hiệu quả, mong cho lịch số dài lâu; hết kiểu lạ xây
dựng lầu cao, kỳ vọng tuổi vua thọ mãi. Cho nên nhà vua đặt tên tháp ấy
là tháp Sùng Thiện Diên Linh.
Tháp này bắt đầu xây từ niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ chín
(1118); đến mùa thu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121) thì hoàn
thành. Nhân lúc rảnh mà dựng xây; gặp được mùa mà thiết lập. Trải qua ba
vụ cày, bốn mùa lúa chín, sau mới hoàn thành. Đến khi làm lễ khánh
thành, sai phụng thường chỉnh đốn ngựa xe; khiến phong bá quét sạch bụi
bặm. Khói trầm đàn như mây tỏa khắp sơn khê; bóng cờ phướn như ráng phô
đầy các ngả. Chuông trống vang ầm; khánh tiu inh ỏi. Phía trước xe mây
Tam Bảo; đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung;
về hết trẻ già cả nước. Điện hoa vắt ngang phía truớc; chùa Phật mở rộng
bên trong.
Hội tăng, ni trai khiết; diễn Giác Đế
chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ, cung nga
khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thết
khách đói qua đường; phát tiền quí ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn. U
hiển đều về; thiên long cùng đến. Đem lực công tối thượng; phúc đức vô
cùng. Ca ngợi hoàng cung vững bền như trời đất; cầu mong bảo vận vằng
vặc như trăng sao. Sớm sinh thái tử; nối mãi mệnh trời. Mong gốc ngành
ngàn thuở, cầu xả tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương: quỳ nghiêng muôn
nước. Thần dân yêu mến; tổ khảo khuông phù. Thần đạo giúp ngầm; trời
người nâng đỡ.
Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông hoàng đế, định xong bốn bể, nhẹ gót
lên tiên, nhờ quả phúc này mà ngự mãi tòa sen; Hoàng Tỷ Phù Thánh Linh
Nhân hoàng hậu, chán cõi trần hoàn, ngự chơi mây khói, gội lương nhân
này mà siêu sinh tịnh độ. Nói chung các vương phi của nhà vua chư hầu,
là những người hiền thục u trinh; điều hòa nội trị. Nâng thêm tiết tháo
hiền hòa; tỏ rõ tấm lòng thục thuận. Đợi sao trời xuống; cùng thổi luật
đồng. Sau cùng xin nguyện nhân dân giàu có, bốn bể an ninh. Thống nhất
sơn hà; Hoa, Di thông suốt. Năm hành tuần tự; thóc lúa trĩu bông. Biên
cương im khói lửa; trong nước bặt tai ương. Thần, thẹn xen hàng nhạn;
lạm dự rừng nho. Ghi chép sự việc hoàn thành; nhờ bởi thánh minh khéo
léo. Còn về công huân nghiêng trời lệch đất của bệ hạ, thì dẫu có tài
như Uyên, Vân, có học như Ban, Mã cũng khó lòng ghi lại được muôn một
vậy. Lại nghĩ phận rau quì, rau hoắc nhỏ nhoi; nhờ được ánh mặt trời,
mặt trăng soi tới. Nghìn năm một thuở; dốc hết lòng ngu. Gượng cầm ngòi
bút; đánh bạo trình bày.
Lời minh rằng:
Tâm rất diệu mà rất tĩnh,
Không dáng cũng không hình.
Gượng đặt tên cho nó,
'Cực nhỏ" và "Cực tinh"
Đạm bạc riêng tồn tại,
Trước thuở trời đất sinh.
Muốn nhuộm đen chẳng được,
Đem mài vẫn nguyên lành.
Diệu thay cái TÂM ấy,
Thuần túy và tinh anh!
Xưa bên trời Tây Trúc,
Giáng sinh có Kim tiên.
Mười danh hiệu đầy đủ,
Rộng mở lời thề nguyền.
Tu hành đủ lục độ,
Tham cứu sâu đạo thiền.
Trí tuệ đuổi hư nguy,
Dựng giáo lý diệu huyền.
Đưa đạo về chân tính,
Như núi lặng non yên,
Khắp ba cõi chiêm ngưỡng,
Mười phương về hợp duyên.
Người vâng mệnh Đức Phật,
Tế độ, vững con thuyền.
Chán cõi tục hư ảo,
Như bọt nổi băng tan,
Ánh cầu vồng rực sáng,
Người giũ áo về ngàn.
Nét mặt vàng mờ bóng,
Tấm thân tẩm dầu lan.
Gỗ chiên đàn làm củi,
Khói bay trên hỏa đàn.
Lửa thiêu vừa lụi tắt,
Kết xá lị muôn vàn.
Đầy mâm và đầy chậu,
Hoặc năm sắc rỡ ràng.
Hoặc hiện thành chín vẻ.
Lung linh và chói chang.
Khắp thiên cung rộng lớn,
Khắp trần giới, dương gian.
Quốc vương cả bốn loại,
Cùng kéo về rộn ràng.
Tranh hùng, xưng danh tướng,
Mang năm lớp hòm vàng.
Xe rồng êm chuyển bánh,
Tháp báu đặt nghiêm trang,
Từ đó và mãi mãi,
Năm tháng tỏ đèn nhang.
Nơi nơi đều thờ phụng,
Người tu hành siêng năng.
Đến nay vua nước Việt,
Truyền giữ càng ân cần.
Hướng về núi Long Đội,
Nguyệt theo chí tiền nhân.
Xây điện tháp hùng vĩ,
Vượt mây, cao mấy tầng.
Đỉnh tháp đặt xá lị,
Mong điềm sinh thánh quân.
Hào quang tỏa phép lạ,
Sông núi vẻ thanh tân.
Mây ráng cùng hòa hợp,
Cách biệt cõi hồng trần.
Đức vua ban tên hiệu,
Tháp "Sùng Thiện Diên Linh".
Cầu mong dài tuổi thọ,
Được tháng tốt ngày lành.
Cùng họp nhau khánh chúc,
Quả phúc đã viên thành.
Viếng chùa xe tấp nập,
Như mây tụ non xanh.
Quyết giữ lòng trong sạch,
Lên đài cao tranh vanh.
Rì rầm kinh tụng niệm,
Người, trời hòa vẻ thanh.
Trống chuông khua gióng giả,
Hương trầm khói tỏa quanh.
Gấm vóc khoe xuân sắc,
Phúc lành khắp chúng sinh.
Gông cùm và tù ngục,
Phá bỏ, đời thanh bình.
Thần được giao chép việc,
Tài mọn, thêm thẹn thùng.
Ba đông học chưa trọn,
Mà ơn vua vô cùng.
Xin mở tung các cửa,
Cho bốn bể hòa chung.
Ngợi ca đức năm thánh,
Dài lâu cùng núi sông.
ĐỖ VĂN HỶdịch
(Dẫn theo sách Thơ Văn Lý Trần,
tập I trang 403, 411)