(Thiền  Học Giảng Thoại). Nếu quả
 thực hoàn toàn như vậy, tức trước đó chưa có, vậy là  nó thuộc về pháp 
tạo tác, mới thành lập sau này, thì hẳn không phải chân thật  rồi. Hơn 
nữa, nó là sản phẩm sau này, thời Phật không có, là của riêng của Tổ  
sư, tức nó thuộc ngoài Phật giáo, thuộc cái gì khác nữa rồi! Chính cái 
thấy này  là cái thấy còn trong sai biệt, làm sao vào cửa Tổ. 
Chúng  ta hãy nghe Chân Tịnh hỏi Thiền sư Đạt Quán:
- Về  kinh luận con hiểu chút ít, về thiền thực không hiểu nổi, mong thầy giải quyết  nghi ngờ cho con.
Đạt  Quán bảo:
 - Đã chẳng tin thiền đâu thể rõ được kinh. Thiền là giềng mối của kinh,
 kinh là  màng lưới của thiền, nắm được giềng mối là lưới theo, rõ được 
thiền mới hiểu  được kinh. 
 Chân Tịnh thưa:
 - Xin thầy vì con nói thiền.
 Đạt Quán bảo:
 - Về sau văn dài.
 Chân Tịnh thưa:
 - Thế ấy kinh và thiền là một thể?
 Đạt Quán bảo:
 - Phật và Tổ chẳng phải hai tâm, như bàn tay co lại thành nắm tay, nắm tay xòe  ra thành bàn tay.
Nhân  đây Chân Tịnh có tỉnh.
Xem  đấy!
 Với cái nhìn của Thiền sư chân thật, đâu chia kia đây sai biệt! Người  
mê, nhìn trên tướng thì thấy thiền khác, kinh khác, Phật khác, Tổ khác, 
có thiền  có giáo riêng lẽ, cách biệt nhau. Người ngộ thì rõ suốt kinh 
và thiền chỉ đồng  một tâm. Kinh cũng từ tâm Như Lai nói ra. Thiền là 
chỗ tâm sống của Như Lai. Cốt  dứt cái thấy sai biệt, liền tự sáng tỏ 
không lầm. 
Có  người hỏi Thượng Sĩ Tuệ Trung:
 - Ý Tổ và ý giáo là đồng hay khác?
 Thượng Sĩ đáp:
             Sóng  nước tên tuy khác
             Búp nở một  đóa hoa.
 Tăng hỏi Thiền sư Quy Nhân:
 - Ý Tổ và ý giáo là đồng hay khác?
 Sư đáp: 
 - Trâu ngựa đồng bầy thả?
Rõ
  ràng chỗ thấy của người mắt sáng vốn không kẹt một bên đồng hay khác. 
Cứ khăng  khăng chấp chặt vào một bên, đó là cái thấy của thức tình, 
chưa phải con mắt Tổ  sư. Người hỏi ý tổ, ý giáo là đồng hay khác, là 
đang sống trong niệm sai biệt.  Thượng Sĩ cắt đứt niệm đó ngay: Sóng và 
nước tuy có tên khác nhưng vẫn là thể  ướt. Cũng như hoa búp, hoa nở 
thấy như khác, song vẫn là một đóa hoa, làm sao  nói cố định là đồng, là
 khác? Thiền sư Quy Nhân thì bảo: “Trâu và ngựa đồng bầy  thả.” Trâu và 
ngựa là khác, nhưng vẫn thả chung một bầy, không cho thấy một bên  hoặc 
đồng hoặc khác. Chỗ thấy của người chân thật sáng đạo là như thế.
Sự  thật, có chúng sanh là có Tổ Sư Thiền,
 không thể một bề xác định ở đâu  khác. Bởi vì, nếu ngoài chúng sanh mà 
có, thì có đó để cho ai? Phật, Tổ cũng từ  chúng sanh mà thành. Nếu quả 
thực ngoài chúng sanh mà có, đó là Tổ Sư  Thiền trong sách vở, trong lý luận, trong tưởng tượng, là Tổ Sư Thiền chết,  không phải Tổ Sư Thiền chân thật.
Kìa,  Tổ sư đã tuyên bố: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.” Nghĩa
 là,  chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Vậy nếu ngoài chúng 
sanh mà có, thì  chỉ thẳng tâm người là chỉ ở đâu? Nói thẳng ra, hễ Ai ngộ được đều có phần,  không nói ở đâu, không phải của riêng ai, không thuộc một cái TA nào!
 Chỉ  có thể nói, tên "Tổ Sư Thiền" là mới có sau này thì dễ hiểu, vì 
tên thì tùy thời  đặt ra, còn bản thân Tổ Sư Thiền quyết không phải mới 
có. Không phải thuộc cái  tên đặt ra. 
Có vị  tăng hỏi Thiên sư Hưu Phục:
 - Thế nào là chỗ xuất thân của học nhân?
 Sư đáp:
 - Ngàn thứ so chẳng kịp, muôn điều sánh chẳng kịp.
 Tăng hỏi thêm:
 - Thỉnh Hòa thượng nói!
 Sư bảo:
 - Xưa cũng có, nay cũng có.
Hỏi
  chỗ xuất thân tức chỗ siêu thoát, vượt ra tình mê này. Chỗ đó làm sao 
so sánh,  phân biệt được? Bảo nói thì nói thế nào đây? Thiền sư chỉ tạm 
gợi ý: Xưa cũng có  nay cũng có mà không chỉ ra cái gì. Nói xưa cũng có 
nay cũng có, nhưng cái gì  xưa cũng có nay cũng có? Đó là để dành phần lại cho người tự hiểu!
Song  như thế thì hiện nay có hay không?
 Sáng được chỗ này là sáng được Tổ Sư  Thiền chứ gì? Khỏi nói đồng nói 
khác, khỏi xác định từ bao giờ. Vì chúng ta có  thể gặp Tổ sư ngay trong
 chỗ nói năng, tới lui, qua lại đây. Điều quan trọng là,  chưa rơi vào 
niệm thứ hai. 
II.  THẾ NÀO LÀ TỔ SƯ THIỀN?
Đúng
  ra, đặt câu hỏi này là chưa biết gì về Tổ Sư Thiền. Tại sao? Bởi có 
thế nào là  không phải rồi! Vì Tổ Sư Thiền không phải là cái để hiểu. 
Như Thôi Tề Công hỏi  Thiền sư Thần Hội:
-  Thiền sư ngồi thiền, một phen định thì về sau bao lâu sẽ được xuất định? 
 Sư đáp: 
 - Thần không có chỗ nơi, có gì là định ư?
 Ông lại hỏi:
 - Đã nói không có định, sao gọi là dụng tâm?
 Sư đáp:
 - Nay tôi ở trên định còn chẳng lập, ai nói là dụng tâm?
 Ông hỏi:
 - Tâm và định đều không, vậy thế nào là đạo?
 Sư đáp:
 - Đạo là "đạo như thế", cũng không có "đạo thế nào".
 Ông hỏi tiếp: 
 - Đã nói là "không có thế nào" thì chỗ nào có được "đạo như thế" ?
 Sư đáp:
 - Nay nói “đạo như thế” là vì có “đạo như thế nào”; nếu nói không có “thế nào”,  thì “như thế” cũng không còn.
Hỏi:  “Đạo thế nào?” là muốn hiểu nó, muốn định nghĩa nó
 ra, nhưng đạo  đâu phải là chỗ bị hiểu, mà nói thế này, thế nọ càng xa.
 Cho nên Sư chỉ đáp:  “Đạo như thế”. Nói như thế cũng là tạm nói, không 
cho có thêm chút gì trong đó.  Vì nó như thế là như thế thôi, có thêm là hết như thế.
 Cuối cùng nói “như  thế” cũng là đối với “thế nào” mà tạm lập. Nếu bám 
vào lời đó để sanh hiểu cũng  là cách xa. Trong đây, chỉ phải tự mình 
chứng nghiệm thôi. Thế gian thì cứ muốn  định gnhĩa để hiểu, đã định nghĩa tức đóng khung nó vào trong chữ nghĩa,  làm sao thấy được chân thật?
Hãy  xem, Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
 - Thế nào ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
 Mã Tổ bảo:
 - Lễ bái đi!
Thủy  Lạo vừa lễ bái, Mã Tổ bèn tống cho một đạp té nhào. Sư bỗng đại ngộ, đứng dậy vỗ  tay cười to ha hả bảo:
- Trăm  ngàn Tam muội, vô lượng diệu nghĩa, chỉ nằm trên đầu sợi lông nhận biết được cội  nguồn tất cả.
"Ý Tổ"  mà hỏi thế nào, tức muốn hiểu nó. Nếu hiểu được liền thành ý chúng sanh
  rồi! Vì vậy cho một đạp té nhào, cho ông biết thế nào! Ngay khi té 
nhào đó, quên  hết thế nào, cũng bật luôn niệm kia đây, không còn nhớ có
 ta nữa, tức liền đại  ngộ ý Tổ, đứng dậy vỗ tay cười to vui sướng. 
Không thể ngờ!
Một vị  tăng hỏi Thiền sư Khế Trù:
 - Thế nào là nghĩa đệ nhất?
 Sư đáp:
 - Đâu nhọc hỏi lại.
Nghĩa
  đệ nhất tức chỗ rốt ráo không hai, thì trước khi động niệm liền nhận 
ngay là  xong. Chỗ này không cho hỏi tới hỏi lui, không phải là chỗ mua 
bán trả giá rẻ  mới chịu mua. Trong đó, vừa hỏi lại tức thành nghĩa đệ 
nhị rồi. Tổ Sư Thiền là  như thế.
Lâm Tế  một hôm đang làm công tác cuốc đất, thấy Hoàng Bá đến, Sư liền chống cuốc mà  đứng. Hoàng Bá bảo:
 - Gã này mệt ư?
 Sư thưa:
 - Cuốc cũng chưa dở lên, mệt cái gì?
 Hoàng Bá liền đánh. Sư chụp cứng cây gậy, cho một đạp té nhào. Hoàng Bá gọi:
 - Duy Na! Duy Na! Đỡ ta dậy!
 Duy Na tới trước đỡ Hoàng Bá dậy và nói:
 - Hòa thượng đâu dung được gã điên này vô lễ!
 Hoàng Bá vừa đứng dậy, liền đánh Duy Na.
 Sư cuốc đất, nói:
 - Các nơi thì hỏa táng, còn tôi trong đây một lúc chôn sống. 
Với
  Lâm Tế là thẳng tắt dùng liền, tự có chỗ sống sáng ngời không do dự. 
Hỏa táng,  tức đợi chết rồi mới thiêu, thì thiêu đó là thiêu xác chết 
thôi. Chôn sống là  ngay hiện tiền đây đập liền, thẳng vào sức sống chân
 thật, không phải đợi qua  rồi, theo sau cái chết, tức dấu vết ngôn ngữ,
 chữ nghĩa để lại, không qua trung  gian nghĩ ngợi. Người học làm sao có
 thời giờ để hiểu?
Đến  Hòa thượng Triệu Châu, vị tăng hỏi:
 - Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
 Sư đáp:
 - Cây bách trước sân.
 Tăng thưa:
 - Hòa thượng chớ đem cảnh chỉ người.
 Sư bảo:
 - Ta chẳng đem cảnh chỉ người.
 Tăng hỏi lại:
 - Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
 Sư đáp:
 - Cây bách trước sân.
 Trong đây, người hiểu theo thức tình dễ lầm với ông tăng. Xem Sư, hỏi 
ra liền  đáp ngay không chút nghỉ ngợi thì có cảnh gì? Chính Sư trong 
lòng rỗng rang,  không một niệm, không một vật lưu dấu, rõ ràng đang đối
 diện sờ sờ đó không thêm  thắt chút gì! Tiếc thay, ông tăng trong lòng 
còn chứa đựng các niệm, bị kiến  giải trong đầu sanh hiểu, nghĩ đó là 
mượn cảnh để đánh thức lại tâm, hẳn rơi vào  KHÁI NIỆM rồi. Có Khái niệm
 tức bị đóng khung trong quá khứ cũ xưa, chết cứng  làm sao thấy được 
sức sống sáng ngời? Chỗ này phải thực sự trống sạch mọi KHÁI  NIỆM về 
thiền, ngay đó liền thấy Tổ sư hiện tiền, rất thực tế! 
 III. THẦM NHẬN VƯỢT QUA MỌI LÝ LUẬN
Đến
  chỗ chân thật rốt ráo này, Tổ Sư Thiền đòi hỏi người học phải tự thầm 
nhận thôi,  không thể lý luận, dù lý luận hay khéo đến đâu, cũng không 
lý luận đến được  trong đây. 
Như có  vị tăng hỏi Thiền sư Quảng Trừng ở Đại Đồng:
 - Thế nào là người xưa nay?
 Sư đáp:
 - Ngồi chung mà chẳng biết nhau.
 Tăng thưa: 
 - Thế ấy thì học nhân lễ bái vậy.
 Sư bảo:
 - Thầm viết lòng buồn biết gởi cho ai? 
Tại
  sao ngồi chung mà chẳng biết nhau? Nếu biết tức thành hai người rồi. 
Tuy nhiên  ông tăng nếu đã nhận thì lễ bái liền, còn nói làm gì? Nói lễ 
bái mà chưa lễ,  cũng là dây dưa trên chữ nghĩa. Sư bảo: “Thầm viết lòng
 buồn biết gởi cho ai?”,  trong đó cũng không có chỗ cho ông lễ, hết 
đường lý luận, nếu không phải  chính mình ở trong ấy, đừng mong hiểu nổi.
Một  Thiền sư muốn gạn trong chúng, bèn hỏi: 
 - Có hai người đi trong mưa, vì sao một người chẳng ướt?
 Một vị nói: 
 - Vì một người đi ngoài mưa, một người đi dưới mái hiên. 
 Một vị nói:
 - Vì một người mặc áo mưa, một người không mặc.
 Một vị nói:
 - Vì mưa có giới hạn, mưa bên này mà không mưa bên kia.
 Thiền sư bảo:
 - Nói một người không ướt đó, không phải chính là cả hai đều ướt hết sao?  
Nghe
  nói một người chẳng ướt, liền suy nghĩ theo lý luận của thế tình đều 
không dính  dáng. Trong đây, Thiền sư nói: “Một người chẳng ướt” nhưng ý
 chỉ vốn không ở một  người nào. Nếu theo ngôn ngữ hiểu là một người, 
tức lầm to! Người lanh lợi chỉ  ngay đó khéo tự thầm nhận là xong, khỏi 
phải nhiều lời. Đây không phải là chỗ để  nghĩ bàn suy lý.
Chuyện  Pháp Hội hỏi Mã Tổ:
 - Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? 
 Mã Tổ bảo:
 - Hãy nói nhỏ, ông đến gần đây ta nói cho nghe!
 Pháp Hội đến gần, Mã Tổ tát cho một tát, bảo:
 - Chẳng thể cho người thứ ba biết. Đi đi! Ngày mai đến!
 Hôm sau Pháp Hội cho mình vào pháp đường thưa:
 - Thỉnh Hòa thượng nói! 
 Mã Tổ bảo:
 - Hãy đợi lão tăng thượng đường ra hỏi, ta sẽ vì ông chứng minh.
 Sư bỗng nhiên có tỉnh, liền thưa:
 - Lễ tạ đại chúng chứng minh!
Pháp
  Hội ban đầu bị Mã Tổ gạt mà không hay. Nghe bảo “nói nhỏ, lại gần 
đây”, ư tưởng  htật đến gần, liền bị Mã Tổ tát cho tỉnh mà chưa tỉnh. Bảo nói nhỏ là
  ngầm chỉ việc này chỉ phải tự thầm nhận thôi, chớ để người thứ ba xen 
vào gây  chuyện. Người thứ ba tức ý thức suy nghĩ phân biệt. Có ý thức 
xen vào là bị che  mờ bởi duyên ngoài.
Hôm
  sau, Sư một mình vào pháp đường thỉnh nói, Mã Tổ lại bảo đợi thượng 
đường giữa  đại chúng sẽ chứng minh cho, Sư liền tỉnh ngộ. Bởi lúc đầu 
Sư cứ tưởng Mã Tổ có  gì bí mật giấu giếm không chịu nói, đâu ngờ việc 
ấy vốn hiện bày sờ sờ trước mặt  đây thôi. Bí mật đã bật mí đó rồi, chỉ 
người có khéo nhận hay không vậy thôi.  “Lễ tạ đại chúng chứng minh”, 
đến đây hết còn che giấu được nữa, mọi người chưa  tỉnh còn đợi chừng 
nào?
Nếu  chưa tỉnh, hãy nghe thêm đoạn nhân duyên Huyền Tắc với Pháp Nhãn.
Ban  đầu Sư hỏi Hòa thượng Thanh Phong:
 - Thế nào là tự kỷ của học nhân? (Có chỗ ghi: “Thế nào là Phật?”)
 Thanh Phong đáp:
 - Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
 Sau Sư đến gặp Pháp Nhãn, Pháp Nhãn hỏi:
 - Ông từ đâu đến?
 Sư thưa:
 - Từ Thanh Phong đến!
 Pháp Nhãn hỏi:
 - Thanh Phong có lời gì chỉ dạy?
 Sư thuật lại việc trước, Pháp Nhãn hỏi:
 - Thượng tọa hỏi thế nào? 
 Sư thưa:
 - Bính Đinh thuộc lửa mà lại đi xin lửa, như đem chính mình cầu chính mình. 
 Pháp Nhãn bảo:
 - Hiểu thế ấy làm sao được?
 Sư thưa:
 - Con chỉ thế ấy, chưa bết Hòa thượng thế nào? 
 Pháp Nhãn bảo: 
 - Ông hãy hỏi ta, ta sẽ nói cho! 
 Sư hỏi:
 Thế nào là tự kỷ của học nhân? (tự kỷ: chính mình)
 Pháp Nhãn đáp ngay: 
 - Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
 Sư liền đốn ngộ.
 (Ngũ Đăng Hội Nguyên Tiết Dẫn)
Ai
  thấy trong đây có gì đặc biệt? Cũng một câu nói, tại sao lúc đầu Huyền
 Tắc đáp  thì không phải, sau đó pháp Nhãn đáp thì thật ngộ? Làm sao 
phân biệt được thật  giả? Người chưa thấu qua chỗ này, dễ bị tri giải 
lường gạt. Bởi lần đầu Huyền  Tắc đáp là đáp theo thức tưởng là đã hiểu,
 nhưng chỉ hiểu qua khái niệm. Lần sau  Pháp Nhãn đáp, là đáp trong lúc 
bất ngờ, Huyền Tắc không kịp suy nghĩ trước, đó  là chỗ cần nghiệm kỹ! 
Ngày nay cũng có nhiều người trong chúng ta rơi vào trường  hợp này. Cứ tưởng là mình đã ngộ, không ngờ chỉ là Hiểu về nó thôi,  chưa phải giáp mặt với sự thật. Người học đạo cần phải chân thật với chính  mình như Huyền Tắc, chớ vì bản ngã bám chặt vào cái hiểu của riêng mình mà  tự ngăn bước tiến!
IV.  THẤY TÁNH
Nói
 gì  thì nói mà chưa thấy tánh tức vẫn là kẻ ở ngoài cửa bàn chơi vậy 
thôi, chưa vào  được nhà Tổ. Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư bảo: “Nếu chẳng thấy tánh tức chẳng  gọi thiện tri thức.” Song tánh có hay không mà thấy? Đây là chỗ không thể lờ  mờ! 
Có vị  tăng tên Kế Tông hỏi Thiền sư Trí ở Vân Cư:
 - Thấy tánh thành Phật, nghĩa ấy thế nào?
 Sư đáp:
 - Tánh thanh tịnh xưa nay trong lặng, không có lay động, chẳng thuộc có
 không,  nhơ sạch, dài ngắn, lấy bỏ, thể tự thanh thoát, thấy như thế 
mói gọi là thấy  tánh. Vì tánh tức Phật, Phật tức tánh, nên gọi là thấy 
tánh thành Phật.  
 Hỏi: Tánh đã thanh tịnh chẳng thuộc có không, nhân đâu có thấy?
 Đáp: Thấy không chỗ thấy. 
 Hỏi: Đã không chỗ thấy, đâu được có thấy?
 Đáp: Chỗ thấy cũng không?
 Hỏi: Khi thấy như thế là ai thấy?
 Đáp: Không người hay thấy. 
 Hỏi: Rốt ráo lý ấy thế nào?
 Đáp:
 Ông biết chăng? Vọng chấp là có tức có năng sở, mới có danh  bày; theo 
cái thấy sanh hiểu bèn rơi vào sanh tử. Người thấy rõ ràng tức chẳng  
vậy, trọn ngày thấy mà chưa từng thấy, tìm cầu tên, chỗ, thể, tướng 
chẳng thể  được, năng sở đều bặt gọi là Thấy tánh.
Như
  vậy, tuy nói "Thấy Ttánh" mà thực không có chỗ thấy, vượt ngoài ý niệm
 có không  đối đãi, tự mở một lối đi siêu thoát, không lệ thuộc nơi 
người. Cuối cùng đến  trong ấy, hai chữ “Thấy Tánh” cũng không còn dấu vết. 
Hòa  thượng Thạch Đầu bảo: 
 - Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy  đều chẳng được, ông phải làm sao?
Thế
 ấy  là có. Chẳng thế ấy là không. Thế ấy, chẳng thế ấy là gồm cả có 
không. Tất cả  đều chẳng thể được, vậy người sẽ bám vào đâu để hiểu, để 
thấy? Vừa có chỗ thấy  liền rơi vào bên ngoài. Vừa có chỗ hiểu liền tự 
ngăn cách. Phải vượt lên tất  cả chỗ, bặt mọi so sánh, 
tự rõ do không ai cả. Hòa thượng Nam Nhạc bảo: “Nói  giống một vật tức 
không trúng”, sẵn sàng buông hết mọi chỗ nương tựa so sánh  liền tự 
thấy. 
Thiền  sư Trọng Nguyên thượng đường bảo: "Một
 mảnh đất Phước Thắng (chỗ Sư ở) đi  cũng mặc tình cho ông đi, đứng cũng
 mặc tình cho ông đứng, bước bước đạp đến mới  biết chỗ rơi. Nếu chưa 
vậy, phải liền lui bước, xem lại dưới gót chân đi."
Mảnh
  đất đó là mảnh đất gì mà mặc tình đi đứng trong ấy? Tất cả mọi người 
đi đứng tới  lui ở trong đó nhưng không hay biết là sao? Giờ đây, nghe 
nói đến, lại tưởng  tượng cái gì xa lạ, rồi muốn tìm biết. Song, dù ông 
biết được, hiểu được cũng  không dính dáng. Cốt phải từng bước, từng 
bước đạp đến sáng ngời mới không lầm.  Nếu chưa được vậy, chỉ cần ngó 
xuống gót chân là xong, chớ vội suy tìm! Hãy  xét kỹ: 
Không có tánh thì cái gì đi đứng tới lui? Dù người có cố ý phủ nhận  nó 
nhưng nó vẫn luôn luôn hiện hữu. Cái gì Biết phủ nhận? Làm sao tự phủ 
nhận  nó? 
Có vị  tăng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền:
 - Ngay khi đi đông, đi tây toàn không suy nghĩ là phải chăng? 
 Nam Tuyền đáp:
 - Khi ấy, ai nói là phải chẳng phải?
Ông
  tăng quả là mở mắt mà chiêm bao. Đã biết đi đông, đi tây hoàn toàn 
không suy  nghĩ thì còn ai xen vào trong đó mà nói phải, chẳng phải? Vừa nghĩ phải,  chẳng phải là có suy nghĩ rồi. Chính đó là chỗ mọi người cần sáng tỏ.
Lại,  Hòa thượng Huệ Nam thượng đường bảo:  "Tâm
 toan nghĩ liền sai, động niệm  liền trái. Chẳng nghĩ, chẳng động, đất 
cây không khác. Người hành cước cần được  một con đường chuyển thân ".
Sư giơ  cậy phất tử lên bảo: "Mọi
 người các ông làm sao chuyển? Nếu như chuyển được  thì một làm vô 
lượng, vô lượng làm một. Nếu chuyển chẳng được, con nhạn trong  túi vải,
 tuy sống cũng như chết".
Chú
 ý!  Ngay đây chẳng động niệm thì đất cây, hoa cỏ trước mắt đều hiện bày
 tự tánh xưa  nay khỏi tìm đâu xa. Tuy nhiên, là sao liền đó có con 
đường chuyển thân? Ngay  đất cây đó, ngay cây phất tử đó. Thấy Rõ không 
chút sai lầm. Thấy Nguyên Vẹn Là  thấy, không lẫn lộn với đất cây, không
 lầm lẫn với phất tử, mà cũng không tự mê  xem! Đó là trong mê tự chuyển thân,
 quên bặt dấu trần. Muôn vật đâu còn  lừa được nữa? Cốt là, phải Thấy 
đến chỗ Không Thấy, vượt qua tất cả chỗ nơi,  không dừng lại bất cứ một 
chỗ nào. Vừa dừng lại tức liền Bị thấy!
Chúng  ta hãy nghe vị tăng hỏi Thiền sư Hồng Chẩn:
 - Khi trừ sạch trần thấy Phật thì thế nào?
 Sư bảo: 
 - Phật cũng là trần.
Tại  sao Phật cũng là trần? Bởi, đã trừ sạch hết trần, mà còn có Phật để thấy,  thì Phật đó cũng là cảnh, tức thuộc trần bị thấy chứ gì! Người thấy tánh phải  thấu tột qua chỗ này, không thể lầm lẫn.
Hòa  thượng Vân Môn cũng từng bảo: "Ông
 nếu tương đương rồi thì hãy tìm con đường  vào. Các đức Phật nhiều như 
số bụi nhỏ đang ở dưới gót chân ông. Tam tạng thánh  giáo ở trên đầu 
lưỡi ông, chẳng bằng ngộ quách đi cho xong!"
Người  người học đạo cần phải khám phá chỗ này, chớ chạy tìm hiểu đâu đâu, cũng đừng  moi móc trong đám rừng chữ gnhĩa. Ánh sáng chân thật chính ngay dưới gót chân  mình. Hãy chín chắn ngó xuống xem! Kỵ nhất cúi đầu trầm ngâm là nguy!
V  .TRỰC TIẾP ĐẢM ĐANG
Yếu
  chỉ của Tổ sư vốn nhắm thẳng tâm người, không qua văn tự ngôn ngữ. Do 
đó, người  học thiền phải dọn sẵn tâm mình, sẵn sàng tiếp nhận ngay, 
thẳng tắt như gương  đối gương, khoảng giữa không chút gì xen vào. 
Thiền  sư Đại Huệ ở trong thất hỏi tăng: " Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng  phải vật, là cái gì ?"
Ai
  thấy chăng? Chính đó Sư đã vạch bày gan ruột phơi trước người. Nếu tâm
 người đã  dọn sẵn, tức liền đó thẳng vào không phí sức! Đã chẳng phải 
tâm, cũng chẳng phải  Phật và chẳng phải vật luôn, vậy là cái gì? Xin 
thưa: Hòa thượng vừa nói đó!  Còn mê gì nữa!
Một vị  tăng  khác hỏi Thiền sư Thiệu Tu:
 - Thế náo là Tâm của học nhân ?
 Sư đáp:
 - Ai hỏi thế ấy ?
 Quả là Thiền sư đi thẳng vào nhau. Hỏi TÂM mình, thì CÁI GÌ VỪA HỎI ? 
Rất thực  tế , chính xác vô cùng, không giải thích danh từ dài dòng. 
Người tri âm liền đó  thấu hiểu ngay. Nếu còn cứa đựng một chút khái 
niệm trong đầu liền thoáng qua  mất.
Một vị  tăng khác hỏi Thiền sư Chánh Cần: 
 - Thế nào là lời nói hợp đạo?
 Sư đáp:
 - Ông hỏi ta nói.
 Rất là thẳng tắt!
 Chính ngay ông hỏi, ta nói, khéo nhận liền hợp đạo.  Chính đó mới là 
Đạo Sống, còn giải thích danh từ thế này, thế nọ, thấy như hay,  như dễ 
hiểu, lại là đạo chết, đạo trong chữ nghĩa thôi.
Và
  đây, Hưu Phục đến nương với Hòa thượng Địa Tạng nhiều năm mà chẳng khế
 hợp, rồi  bệnh và vào nằm nhà Niết Bàn. Một đêm ngài Địa Tạng đến thăm,
 bèn hỏi:
 - Thượng tọa Phục được an vui chăng?
 Sư thưa:
 - Con vì nhân duyên trái với Hòa thượng. 
 Địa Tạng liền chỉ lồng đèn bảo:
 - Thấy chăng?
 Sư thưa:
 - Dạ thấy.
 Địa Tạng bảo:
 - Chỉ cái ấy cũng chẳng trái.
 Ngay lời đó, Sư có tỉnh.
 Ai thấy cái ấy là cái gì mà chẳng trái? Nếu hiểu cái lồng đèn là lầm!  Chính ngay khi Địa Tạng đưa tay chỉ đó, phải chộp đúng thời cơ không bỏ  lỡ, liền rõ: Trước khi chỉ đã có nó!
 Ngón tay, lồng đèn đâu làm lầm được?  Tuy nhiên người mắt sáng chớ bị 
hai lão lôi về quá khứ, quên mất sức sống đang  hiện hữu!
Đặc  biệt, Thượng tọa Định hỏi Lâm Tế: 
 - Thế nào đại ý Phật pháp?
 Lâm Tế liền bước xuống giường thiền nắm đứng, cho một tát, rồi xô ra. 
Thượng tọa  Định đứng sững không biết làm gì. Vị tăng bên cạnh liền 
nhắc:
-  Thượng tọa Định sao chẳng lễ bái đi?
Thượng  tọa Định vừa lễ bái, bỗng đại ngộ. 
Cho
  thấy thủ thuật của Lâm Tế nhanh nhẹn, thẳng tắt không thể lường! Hỏi 
đại ý Phật  pháp, liền nắm đứng, cho một tát, xô ra, chính ngay chỗ đó 
đã đưa Thượng tọa  Định vào Phật pháp sống đang hiện tiền. Cái gì bị nắm đứng? Đứng sững hết  đường nghĩ ngợi, ngay đó có biết chăng? Vậy mà chưa tỉnh, phải đợi ông tăng  nhắc, là cũng còn hơi chậm! Người học Tổ Sư Thiền phải mở con mắt này.  
Sau  đây là Thiền sư Trí Tung thượng đường dạy chúng: "Nóng
 lạnh, ấm mát, mặc áo,  ăn cơm, tự mình chẳng thiếu thốn, lại lăng xăng 
tìm cái gì? Chỉ là mọi người  chẳng chịu nhận, hiện nay có ai tiếp nhận 
chăng? Có thì chẳng được cô phụ núi  sông cõi đất. Kính chào! "
Rõ
  ràng Tổ Tổ đều chỉ thẳng lẽ thật ngay chỗ sống hằng ngày của chính 
mình đấy  thôi. Ánh sáng Tổ sư luôn biểu lộ nơi mình, ngay trong mọi 
hành động đều tỏ rõ  không thiếu vắng . Tại sao chúng ta lại lăng xăng 
đi tìm trong câu thoại này,  lời Tổ nọ, rồi tranh cãi kia đây, cao thấp,
 hơn thua? Chỉ cần ngay đây chưa  trải qua động niệm thì lúc nào cũng sáng ngời! Tổ sư luôn hiện rõ!  
VI.  TÓM KẾT
Tóm  lại, Tổ Sư Thiền chân thật quyết không nằm trên chữ nghĩa danh từ,
 trên  tiếng hét, cây gậy, không thuộc kia đây. Còn mang cái thấy sai 
biệt kia đây  trong đầu, là còn đi trên con đường sai biệt của sanh 
diệt, chưa thể vào trong  nhà Tổ. 
Tông  chỉ “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” mà Tổ sư đã nêu cao, vốn ngầm chỉ:  "việc ấy sẵn ở ngay tâm người, trong chính mình đây thôi, không có ở đâu khác."
  Trên THỂ mà nói, quyết chắc ai ai cũng đều có phần, khéo nhận thì đầy 
đủ, đều  cảm thông không phải lý luận nhiều. Đến trong ấy thì chỗ thấy 
không hai. Trái  lại, nếu người còn có chỗ thấy sai biệt, tức còn phải 
xét lại! Tổ Lâm Tế từng  bảo: “Chỗ thấy của sơn tăng hiện nay chẳng khác Phật Tổ.” Nếu
 ai đã tự  cho mình là ngộ, đã sáng mà còn chia đây là chỗ thấy của 
Phật, đây là chỗ thấy  của Tổ, đây là chỗ thấy của ta, mỗi cái cách biệt
 nhau thì biết ngay chỗ ngộ đó  có thật thấu triệt chưa?
Đây,   chúng ta hãy nghiệm kỹ đoạn nhân duyên này: 
 Tăng hỏi Thiền sư Ưng Phư Quảng Chiếu ở Trường Lô:
 - Người xưa nói: “Như Lai Thiền thì cho là lão huynh hội, Tổ Sư Thiền 
vẫn chưa  mộng thấy.” Chưa biết Như Lai Thiền với Tổ Sư Thiền là đồng 
hay khác?
 Sư bảo:
 - Một mũi tên bay qua Tân La. 
 Vị tăng nghĩ ngợi, Sư liền hét. 
Ông
  tăng này cũng có hiểu biết về thiền nên dẫn lời Ngưỡng Sơn đến khám 
nghiệm Hương  Nghiêm Trí Nhàn để hỏi. Vốn là Trí Nhàn ở Nam Dương nghe 
tiếng hòn sỏi văng  trúng bụi tre vang ra tiếng liền đại ngộ, làm bài 
tụng “nhất kích vong sở tri,  cánh giả bất tu trì…”. Quy Sơn nghe được 
liền nói với Ngưỡng Sơn:
 - Kẻ này đã triệt.
 Ngưỡng Sơn thưa:
 - Đây là tâm cơ ý thức trước thuật được thành, hãy đợi con đích thân tự khám  nghiệm qua mới biết.
 Ngưỡng Sơn bèn đến gặp Trí Nhàn và hỏi:
 - Hòa thượng khen ngợi sư đệ đã phát minh đại sự, hãy thử nói cho tôi nghe xem! 
 Trí Nhàn thuật lại bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe, Ngưỡng Sơn bảo:
 - Đó là do trước khi học tập ghi nhớ mà thành, nếu thực tế có chánh ngộ hãy nói  lại bài khác xem!
Trí  Nhàn nói ngay bài tụng:
                     Khứ niên bần vị thị bần
                      Kim niên bần thủy thị bần
                      Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa
                      Kim niên bần chùy dã vô.
 Nghĩa:
                    Năm trước nghèo chưa phải nghèo
                      Năm nay nghèo mới thật nghèo
                      Năm trước nghèo còn có đất cắm dùi
                      Năm nay nghèo dùi cũng không.
Ngưỡng  Sơn nghe xong bảo:
 - Như Lai Thiền thì sư đệ hội, Tổ Sư Thiền thì vẫn chưa mộng thấy. 
 Trí Nhàn lại nói bài tụng:
                       Ngã hữu nhất cơ
                       Thuấn mục thị y
                        Nhược nhân bất hội
                        Biệt hoán sa di.
 Nghĩa:
                     Ta có một cơ
                      Chớp mắt nhìn y
                      Nếu người chẳng hội
                      Riêng gọi Sa di.
Ngưỡng  Sơn gật đầu và trở về báo cho Quy Sơn.
- Hãy  mừng sư đệ Nhàn đã lãnh hội Tổ Sư Thiền.
Như
  vậy đã ngộ Như Lai Thiền sao còn chưa ngộ Tổ Sư Thiền? Chính chỗ này 
khiến cho  người đứng bên ngoài luôn thắc mắc không hiểu nổi. Ông tăng 
này cũng ở trong  trường hợp đó. Song hỏi như thế là rơi vào cái lưới 
ngôn ngữ của người xưa rồi.  Đâu ngờ, chính đây là thủ thuật khéo léo 
của Ngưỡng Sơn dùng khám nghiệm Trí  Nhàn, không cho ý thức lanh lợi bắt
 kịp. Với Thiền sư Ưng Phu Quảng Chiếu thì  đâu dễ bị câu “đồng hay 
khác” lừa gạt được! Cho nên ông tăng hỏi đồng khác, Sư  liền bảo: “Một 
mũi tên bay qua Tân La.” Nghĩa là, ông vừa nghĩ đồng khác  là xa mất hút rồi.
 Còn có niệm đồng khác là vẫn còn chưa mộng thấy Tổ sư.  Quên niệm đồng 
khác thì Tổ sư hiện ngay trong mắt! Người mắt sáng chớ để bị lừa  trong 
ấy!
Để
 tóm  kết lại, xin nhắc đoạn nhân duyên của Thủ tọa Linh Thao với Hòa 
thượng Lặc Đàm.  Sư tham thiền với Hòa thượng Lặc Đàm thời gian lâu, một
 hôm Lặc Đàm hỏi: 
 - Tổ sư từ Ấn Độ sang, riêng truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành  Phật, ông làm sao lãnh hội? 
 Sư thưa:
 - Con chẳng lãnh hội.
 Lặc Đàm hỏi:
 - Khi ông chưa xuất gia đã làm việc gì? 
 Sư thưa:
 - Chăn trâu.
 Lặc Đàm hỏi:
 - Làm sao chăn?
 Sư thưa:
 - Sáng sớm cưỡi đi ra, chiều tối lại cưỡi về.
 Lặc Đàm bảo: 
 - Ông rất tốt, chẳng hội!
 Sư liền đã ngộ. 
Ồ! Mỗi  người chân thật tự kiểm điểm lại xem, chính mình có giống như thế chăng? Kìa,  ngày ngày cứ sáng sớm thức dậy liền cưỡi trâu đi ra rửa mặt, súc miệng, rồi  húc đông, húc tây, giẫm vào cỏ mạ của người. Chiều tối lại cưỡi trâu về ngủ.
  Ngày nào cũng như ngày nấy, đều đặn như vậy không sót một bữa, vậy còn
 chưa ngộ  nữa sao? Cứ cưỡi đi ra, rồi cưỡi về mãi để làm gì? Không chán
 sao? Có lúc nào  cưỡi đụng Tổ sư chăng? Rất tốt, như thế mà chẳng hội! 
Có
 ai  đã thấy Tổ Sư Thiền chưa? Tuy nhiên, từ trước đến nay đã nói quá 
nhiều. Nếu  thẳng thắn thì hỏi: -Tổ Sư Thiền là gì? Chỉ bảo: -Tham đi! 
Là xong. Ai còn thắc  mắc thì cứ đi gặp Tổ sư mà hỏi!