| Thành
 ngữ "Sư tử hống" hay "Tiếng rống sư tử" trong kinh điển Đại thừa thường
 được dùng để chỉ cho tiếng nói của đại trí. Tiếng nói ấy làm chấn động 
và nghiêng đổ cung ma, những ai có căn tánh thấp kém thảy đều khiếp sợ, 
như đàn nai run sợ khi nghe tiếng rống của sư tử. Trong kinh điển Nguyên
 thủy, khi Như Lai hoặc đệ tử của Như Lai thuyết pháp bằng bốn vô úy, 
thì sự thuyết pháp đó được gọi là "Thành tựu sư tử hống". | 
"Tiếng rống sư tử", như vậy, là tiếng nói không sợ hãi, không do dự, không mơ hồ, nói với niềm xác tín, kiên quyết.
Một
 thời Đức Phật ngự tại vườn trúc Nālandā. Bấy giờ, Tôn giả Sāriputra đi 
đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, ngồi sang một bên rồi bạch Phật rằng: 
"Bạch Đức Thế Tôn, con tin sâu xa Thế Tôn rằng, các Sa-môn, Bà-la-môn 
trong quá khứ, vị lai và hiện tại, không ai có trí tuệ, công đức lực của
 thần túc sánh bằng Như Lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác!".
Lời
 tuyên bố này của Tôn giả Sāriputra được gọi là "Thuyết xuất đạo vô úy 
hay "Vô úy thuyết" (sampad-adhigamāya 
nairyānika-pratipat-tathātva-vaiSāradya), không sợ hãi khi công bố tính 
chân thật của sự thực hành dẫn đến sự chứng ngộ. Phật chỉ bày con đường 
thoát ly sinh tử, chỉ bày phương pháp tu tập để thoát ly khổ đau. Vô úy 
này còn được gọi là "Thuyết tận khổ đạo vô sở úy", bởi Phật tuyên thuyết
 đạo xuất ly mà không sợ hãi điều gì.
Thật
 vậy, Sāriputra, bậc A-la-hán có đại trí tuệ, vẫn chưa biết những điều 
suy nghĩ trong tâm của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại; nhưng 
Sāriputra đã thấu triệt Pháp tổng tướng của Phật, tức tinh yếu của giáo 
nghĩa Phật thuyết, và căn cứ vào đó, bằng sự chứng nghiệm của tự thân, 
tôn giả cất lên tiếng rống sư tử. Pháp tổng tướng ấy được liệt kê gồm 
có, theo thứ tự từ thấp lên cao: phân biệt pháp đen, pháp trắng, hai 
phần đối trị nhau. Thứ đến, chế pháp, là các pháp được Phật thiết lập mà
 hành trì có kết quả, đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, 
Bốn thiền, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Tám chi Thánh đạo. Thứ đến, 
phân biệt các nội ngoại xứ. Pháp được thuyết càng lúc càng vi diệu: bốn 
nhập thai, bảy giác chi, bốn thông hành, hành vô thượng ngôn thanh tịnh,
 kiến đẳng chí, thường trú luận, quán tha tâm, giáo giới, giới thanh 
tịnh, túc mạng trí, thiên nhãn trí, thần túc thông. Do các pháp vi diệu 
như vậy, hành trì có kết quả như vậy, nên biết pháp được khéo thuyết bởi
 Phật là bậc Chánh đẳng giác.
Tôn
 giả Sāriputra đã y pháp, thuận pháp trả lời Đức Phật: Trong quá khứ và 
trong đời vị lai, đã có và sẽ có nhiều vị ngang bằng Phật. Vì đã có 
nhiều Phật xuất hiện trong quá khứ và sẽ có nhiều Phật xuất hiện trong 
đời vị lai. Nhưng trong hiện tại, không ai có thể sánh, vì trong một 
thời, không bao giờ có hai Đức Như Lai cùng xuất hiện. (Trường A-hàm, 
kinh Tự hoan hỷ).
"Sư tử hống" còn là lời nói chắc thật đúng với việc làm, gọi là "Quyết định thuyết". Trung A-hàm, kinh Thế giannói :
 "Đức Như Lai, kể từ đêm thành đạo Vô thượng Chánh giác cho đến đêm nhập
 vô dư Niết-bàn, trong khoảng trung gian đó, những gì được nói chính từ 
miệng Như Lai, những gì được đối đáp bởi chính Như Lai, những điều ấy 
tất cả đều chắc thật, không trống rỗng, đúng như thực, không điên đảo; 
nói về Như Lai cũng là nói về sư tử vậy".
Nói
 đến Như Lai là nói đến một con người lịch sử đã tự mình giác ngộ thế 
gian, đã đoạn tập khởi của thế gian, đã tác chứng sự diệt tận của thế 
gian và đã tu tập hành trì dẫn đến diệt tận thế gian. Thế giới này bao 
gồm thiên giới, cho đến chư thiên và nhân loại, những gì được thấy, được
 nghe, được nghĩ đến, được biết đến, được đạt đến, được tầm cầu, được 
suy xét bởi ý; tất cả những thứ ấy đều được Như Lai giác ngộ. Cho nên, 
"nếu nói về sư tử như thế nào, thì hãy nói về Như Lai cũng như vậy. Vì 
sao? Như Lai ở giữa đại chúng, nếu có giảng thuyết thì đó chính là tiếng
 rống của sư tử". (Trung A-hàm, kinh Thế gian).
Đức
 Phật không hề sợ hãi, không mơ hồ, khi nói một cách dứt khoát những yếu
 tố gì cản trở sự chứng ngộ. Phật nói "pháp nhiễm ô chắc chắn gây trở 
ngại sự tu tập". Khi nói như vậy, Phật không hề lo sợ sự bắt bẻ hay gạn 
hỏi của bất cứ ai. Điều này còn được gọi là Thuyết chướng đạo vô sở úy 
(antarāyika-dharmānanyathātva-niScita-vyākarana-vaiSāradya). Thí dụ, khi
 Đức Phật bác bỏ các lối tu khổ hạnh và chỉ ra con đường chân chính, 
thiết thực hơn các khổ hạnh ấy cho các người Ưu-đàm-bà-la, thì đấy là 
lúc Ngài đang nói bằng tiếng rống của sư tử, và do đó kinh được đặt tên 
là Ưu-đàm-bà-la sư tử hống.
"Tiếng
 rống sư tử" còn là lời tuyên bố "Lậu vĩnh tận vô úy" 
(sarvāsrava-ksaya-jñāna-vaiSāradya), không hề sợ hãi hay do dự khi tuyên
 bố là biết rõ sự diệt tận hết thảy ô nhiễm. Còn gọi là "Lậu tận vô sở 
úy". Phật đã dứt sạch hết tất cả mọi phiền não, không có sự sợ hãi từ 
các nạn bên ngoài.
Thắng
 Man phu nhân nói: "Hết thảy phiền não, tùy phiền não được đoạn trừ, thì
 các pháp nhiều hơn số cát sông Hằng mà Như Lai sở đắc đều được thấu 
suốt vô ngại, với hết thảy trí và kiến, lìa hết thảy khuyết điểm, được 
hết thảy công đức, là Pháp vương, Pháp chủ, mà được tự tại bước lên địa 
vị tự tại đối với hết thảy pháp, là Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, 
với tiếng rống sư tử chân chính: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã 
vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tiếp thọ đời sau nữa". (Tuệ 
Sỹ, Thắng Man giảng luận, tr.204).
"Tiếng
 rống sư tử" này còn được gọi là "Chư pháp hiện đẳng giác vô úy" 
(sarva-dharmābhisambodhi-vaiSāradya), không hề sợ hãi hay do dự khi tự 
tuyên bố là đã chứng ngộ hết thảy pháp. Đối với tất cả các pháp, Phật 
đều rõ biết một cách tường tận, Phật đã sinh nhãn, sinh trí, sinh minh, 
sinh giác, cho nên ở giữa chư thiên, ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn và các 
chúng nghe pháp, Phật tuyên bố đã giải thoát, đã xuất ly, đã tự chứng 
đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức
 Phật, như vậy, là một Đại chúng sanh đã chiến đấu và chiến thắng thế 
gian, như lời Ngài đã xác định khi trả lời câu hỏi "Ông là ai mà cốt 
cách siêu phàm như vậy?": "Ta không phải là Thượng đế, không là Thần 
linh, mà chỉ là một con người, nhưng là con người đã chiến thắng thế 
gian". (Kinh Tạp A-hàm).
Người
 đã chiến thắng thế gian thì hẳn nhiên là người tôn quý nhất giữa chư 
thiên và nhân loại: "Thiên thượng thiện hạ, duy ngã vi tôn, yếu độ chúng
 sinh, sinh lão bệnh tử". "Cũng như trong các ngọn núi, Tu-di sơn vương 
là bậc nhất. Cũng như trong các dòng suối, biển lớn thu nhập nước, biển 
lớn là bậc nhất. Cũng như trong các loại đại thần, a-tu-la vương là thứ 
nhất. Cũng như trong các loại chiêm thị, ma vương là thứ nhất. Cũng như 
trong các loại hành dục, Đảnh Sinh vương là thứ nhất. Cũng như trong các
 tiểu vương, Chuyển Luân vương là bậc nhất. Cũng như giữa các vì tinh tú
 trong hư không, mặt trăng là bậc nhất. Cũng như trong các loại vải lụa,
 lụa trắng tinh là thứ nhất. Cũng như trong các loại ánh sáng, ánh sáng 
của trí tuệ là thứ nhất. Cũng như trong các chúng hội, chúng đệ tử của 
Như Lai là bậc nhất. Cũng như trong các loài chúng sanh không chân, hai 
chân, bốn chân, nhiều chân, sắc, vô sắc, có tưởng, không tưởng, cho đến 
phi hữu tưởng, phi vô tưởng, trong đó Như Lai là bậc nhất, là tối đại, 
là tối thượng, là tối cao, là tối tôn, là tối diệu". (Trung A-hàm, kinh Dụ, số 141).
Phật
 là bậc tôn quý nhất giữa chư thiên và nhân loại, Ngài đến thế giới này 
để chiến đấu và chiến thắng thế gian nhằm mục đích đưa chúng sinh thoát 
khỏi nỗi thống khổ của sanh, già, bịnh, chết. Đó là tiếng rống sư tử của
 Đức Phật ngoan đồng, làm chấn động và nghiêng đổ cung ma, những ai có 
căn tánh thấp kém thảy đều khiếp sợ, như đàn nai run sợ khi nghe tiếng 
rống của sư tử…
Theo GNO