| Xá-lợi Phật chính là những di vật thiêng
 liêng tượng trưng cho sự hiện hữu của Ngài tại nhân gian, là nguồn lực 
gia trì cho sự tu tập của người Phật tử, và là thông điệp về sự vô 
thường của các pháp hữu vi, dù đó là thân xác của một đấng giác ngộ. Thông thường xá-lợi của đức Phật gồm có 
ba loại: thân xá-lợi (di cốt còn lại sau lễ trà tỳ kim thân của đức Phật
 như: xương, răng, tóc...), tùy thân xá-lợi (những vật dụng mà đức Phật 
thường dùng khi còn tại thế như y, bát, tích trượng, tọa cụ...), và pháp
 xá-lợi tức là những kinh điển hay pháp và luật mà Ngài đã truyền dạy. 
Trong Phật giáo, y và bát của đức Phật được tôn trọng, kính ngưỡng vì 
chúng không chỉ được xem là những phần xá-lợi gắn liền với cuộc đời đức 
Phật Thích-ca mà còn là những vật truyền thừa của chư Phật trong nhiều 
đời.   Theo các bản sớ giải của 
bộ  Phật Sử và kinh Bổn Sanh, sau khi vượt thành xuất gia, thái tử 
Sĩ-đạt-đa nghĩ rằng bộ y phục sang trọng may bằng lụa xứ Ba-la-nại mà 
mình đang mặc chẳng hợp với những ai đang vân du khắp nơi để tầm cầu 
chân lý và vì thế thái tử đã đổi nó để nhận một bộ y phục nhạt màu từ 
một người thợ săn vốn là hoá thân của một Phạm thiên.[1]
 Bộ y phục này được xem là khởi đầu cho truyền thống mặc y phấn tảo 
(pāṃśukūla) hay y bá nạp (loại y được may từ những mảnh vải rách lượm từ
 đống rác hay nghĩa địa được giặt sạch) trong Tăng đoàn. Đại trí độ luận
 giải thích rằng, trong xã hội Ấn thời xưa hàng bạch y vì tham cầu dục 
lạc nên thích mặc nhiều y phục, lại có những nhà ngoại đạo tu khổ hạnh 
nên sống lõa thể, hàng đệ tử của đức Phật theo gương của Ngài xa lánh 
hai cực đoan này, sống đời thiểu dục, tri túc, mặc y phục đủ để che 
thân.[2]
 Đối với đức Phật và hàng đệ tử xuất gia của Ngài, ngoài ý nghĩa liên hệ
 đến các yếu tố xã hội, việc thọ trì y phục còn là việc noi theo truyền 
thống của chư Phật trong nhiều đời. Luật tạng Nhất thiết hữu 
bộ có ghi lại rằng, vào thời quá khứ tại Ca-tỳ-la-vệ có mười anh em cùng
 xuất gia, tu tập và chứng quả Bích-chi-phật. Trước khi nhập diệt, các 
vị Bích-chi này đã trao lại những tấm y bá nạp của mình cho mẹ và cùng 
thưa rằng vào đời đương lai có đức Thích-ca Mâu-ni, con của vua Tịnh 
Phạn chứng quả giác ngộ vô thượng, nếu đem những y phục này dâng cho 
Ngài thì sẽ được phước báu vô lượng. Người mẹ theo ý nguyện của các vị 
Bích-chi nên giữ gìn cẩn thận những bộ y đó. Trước khi qua đời, bà trao 
chúng lại cho người con gái của mình để giữ gìn. Đến khi cô gái bắt đầu 
già yếu, cô bèn đem những tấm y đó treo trên cây và cầu vị thần cây bảo 
hộ để sau này trao lại cho người con của vua Tịnh Phạn. Lúc ấy Đế Thích 
liền giữ gìn y này và đợi đến khi thái tử xuất gia, liền hóa thành một 
người thợ săn đến đổi y phục cho thái tử. Khi trở về cõi trời Ba mươi 
ba, Đế Thích bèn xây tháp phụng thờ bộ y phục của thái tử và tháp này có
 tên là Xuất gia y tháp.[3] Tấm
 y mà thái tử đã đổi cho người thợ săn chính là y phục mà thái tử đã mặc
 trong suốt thời gian tu khổ hạnh. Theo kinh Phổ Diệu, trải qua thời 
gian sáu năm khổ hạnh, tấm y này của thái tử bị rách và ngài đã đến 
nghĩa địa nhặt những mảnh vải cũ vốn được dùng để bọc tử thi của một tỳ 
nữ. Cô gái này đã chết trong ngôi nhà gần nơi trú ngụ của vị trưởng 
làng. Thái tử đã giặt sạch những mảnh vải này và sau đó khâu thành một 
bộ y phục mới cho mình tại một gốc cây mà nơi này về sau có tên là 
Pāṃśukūlasīvana (nơi khâu y phấn tảo).[4] Trong thời gian du hóa 
sau ngày thành đạo, đức Phật đã được nhiều vị gia chủ cúng dường những 
tấm lụa quí hiếm, nhưng Ngài đều giao lại cho đệ tử mình tùy nghi sử 
dụng. Truyện kể rằng có một lần bác sĩ Kỳ-bà được bệnh nhân tặng một xấp
 vải quí, không dính nước, đáng giá mười vạn đồng như là tiền thù lao 
của mình. Bác sĩ bèn đem vải dâng cúng cho đức Phật. Đức Phật đã trao 
vải lại cho tôn giả A-nan và tôn giả đã cắt vải may y cho đức Phật, 
La-hầu-la và các tỳ-kheo khác. Tạp Báo Tạng kinh có ghi lại chuyện Di 
mẫu Kiều Đàm dùng tơ quí dệt thành một bộ y và đem dâng cúng lên đức 
Phật. Khi bị đức Phật từ chối, Di mẫu tỏ ra không vui và thưa rằng bà đã
 từng nuôi nấng đức Thế Tôn trong thời thơ ấu và nay thì chính tay bà đã
 dệt bộ y này với mục đích duy nhất là cúng dường cho đức Phật. Đức Phật
 liền bảo bà nên đem cúng bộ y ấy cho chư tăng vì Tăng bảo là ruộng 
phước, cúng dường chư Tăng cũng chính là cúng dường Phật. Sau đó Di mẫu 
đến giữa Tăng đoàn và cúng bộ y này cho tôn giả Di-lặc.[5]
 Ngoài chuyện Di mẫu dâng cúng y cho đức Phật, kinh điển Phật giáo còn 
ghi lại chuyện tôn giả Đại Ca-diếp đổi y Tăng-già-lê mềm mại của mình để
 nhận tấm y phấn tảo của đức Phật. Tôn giả vốn thường thực tập hạnh đầu 
đà nhưng vẫn chưa tìm được một tấm y phấn tảo thích hợp nào. Một lần nọ 
đức Phật đến thăm lúc Tôn giả đang ở dưới một gốc cây, Tôn giả bèn gấp y
 Tăng-già-lê của mình và thỉnh đức Phật ngồi lên tấm y đó. Khi nghe đức 
Phật khen tấm y mềm mại, Tôn giả thành tâm xin được cúng dường tấm y của
 mình cho đức Phật và mong được thọ trì tấm y phấn tảo mà đức Phật đang 
dùng. Đức Phật biết Tôn giả đang cần y phấn tảo để thực hành hạnh đầu đà
 nên Ngài hứa khả.[6] Sau khi nhận được y, tôn giả đã sử dụng nó cho đến cuối đời mình. Các văn bản Phật học Pāli
 và Phạn ngữ dường như không nói nhiều về tấm y mà đức Phật dùng trong 
những năm du hoá cuối đời và khi Ngài nhập diệt. Sách Pháp Uyển Châu Lâm
 có thuật lại chuyện về tấm y Tăng-già-lê của đức Phật do một vị trời 
Tứ Thiên Vương kể cho luật sư Đạo Tuyên như sau. Trước khi nhập diệt ba 
tháng, đức Thế Tôn bảo ngài Văn Thù triệu tập đại chúng tại đạo tràng. 
Khi hội chúng đã vân tập, đức Phật bèn kể rằng sau khi vượt thành xuất 
gia và đổi y phục cho một người thợ săn, Ngài được một vị thần cây dâng 
lên y Tăng-già-lê của đức Phật Ca-diếp theo như lời phó chúc của đức 
Ca-diếp. Sau ngày thành đạo đức Phật đã thọ trì và giữ gìn tấm y này một
 cách cẩn thận suốt năm mươi năm.[7]
 Theo tác phẩm Ðại Ðường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang, khi hay tin 
đức Phật nhập diệt, Ma-da phu nhân cùng chư thiên từ cung trời Đao Lợi 
đã đến Câu-thi-na để chiêm ngưỡng lần cuối kim thân cùng y Tăng già lê, 
bình bát và tích trượng của đức Phật.[8] Cũng theo ngài Huyền Trang, khi đến thành Ê-la ở Tây Bắc Ấn, Ngài đã được chiêm ngưỡng xá-lợi và y Tăng-già-lê của đức Phật.[9]
 Theo bộ Phât Sử, sau lễ trà tỳ tại Câu-thi-na, xá-lợi của đức Phật được
 sứ giả tám nước mang về xây tháp cúng dường; những vật tùy thân khác 
của Ngài được đưa về thờ ở nhiều nơi khác nhau như bình bát và tích 
trượng ở Vajirā, hạ y ở Kusaghara, thắt lưng ở Pāṭaliputra, y tắm ở 
Campā, Pháp y ở cung trời Phạm thiên.[10]
 Tuy nhiên tác phẩm này không nói rő vì lý do gì di vật của đức Phật 
được mang đến những nơi đó và việc thờ phụng, giữ gìn chúng ra sao. Cùng
 với y, bình bát của đức Phật cũng được xem như xá-lợi của đức Phật và 
là bảo vật truyền thừa của chư Phật. Theo các sử liệu Phật giáo của cả 
hai truyền thống Nam và Bắc truyền, sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, 
đức Phật đã thọ dụng bữa ăn đầu tiên vào tuần thứ tám do hai thương gia 
Đề Vị (Tapussa) và Ba-lợi (Bhallika) dâng cúng. Khi được hai thương gia
 dâng cúng thực phẩm, đức Phật liền nghĩ rằng chư Phật trong ba đời đều 
dùng bình bát để thọ dụng vật thực, nay ta cũng nên theo truyền thống 
này. Lúc bấy giờ có bốn vị Thiên vương biết được tâm niệm đó nên mỗi 
người mang một bình bát bằng đá đem dâng lên đức Phật. Vì thương tưởng 
các vị Thiên vương này, đức Phật liền nhận cả bốn bình bát và Ngài dùng 
thần lực khiến cho bốn bình bát này trở thành một bình bát duy nhất.[11] Bình bát này về sau trở thành vật tùy thân của đức Phật trong suốt những năm du hóa của Ngài. Cuối TK IV TL, khi ngài 
Pháp Hiển đến nước Phất-lâu-sa (thuộc khu vực Càn-đà-la), Ngài đã có 
duyên được chiêm ngưỡng và lễ bái bình bát khất thực nói trên của đức 
Phật trong một tu viện tại đó. Theo ngài Pháp Hiển, khi vua Nguyệt Dân 
chinh phạt nước này, vua muốn mang bình bát về nước mình để thờ phụng 
nhưng dù bằng mọi cách khác nhau, ngay cả khi dùng sức của tám voi, vua 
cũng không cách nào đem bình bát đi được. Nghĩ rằng nhân duyên chưa đến,
 vua bèn xây bảo tháp cùng một ngôi già lam để thờ bát. Hằng ngày, trước
 giờ ngọ và vào ban đêm, chư Tăng và tín đồ được phép đến lễ bái, cúng 
dường bát. Điều lạ là khi những người nghèo dâng cúng một vài vòng hoa 
thì hoa nở rộ đầy bát, còn khi những phú gia đặt hàng trăm vòng hoa vào 
bát, bát vẫn không khi nào đầy.[12]
 Hơn hai thế kỷ sau khi ngài Huyền Trang đến nơi này, bình bát nói trên 
không còn nữa và chỉ còn lại bệ thờ của bình bát mà thôi. Ngài Huyền 
Trang cũng cho biết rằng bình bát đã di chuyển đến nhiều nước và vào 
thời điểm đó bình bát hiện đang ở xứ Ba Tư.[13] Khi đến Tích Lan, ngài 
Pháp Hiển có gặp một nhà sư Ấn Độ và vị này cho biết rằng bình bát khất 
thực của đức Phật vốn được thờ tại Tỳ-xá-ly và sau đó cứ vài trăm ngàn 
năm sẽ tuần tự di chuyển đến các nước khác nhau như Càn-đà-ka, Kế Tân, 
Tích Lan, Trung Hoa... và cuối cùng thì quay lại Ấn Độ. Khi trở về Ấn 
Độ, bình bát sẽ được mang lên trời Đâu-suất. Nơi đây, đức Di-lặc cùng 
chư thiên đều mừng rỡ cung đón và thiết lễ cúng dường trong bảy ngày. Từ
 cung Đâu Suất bình bát sẽ được mang về lại Diêm-phù-đề và được Long 
vương mang xuống long cung. Đến lúc đức Di-lặc sắp thành Phật bình bát 
sẽ được phân thành bốn bình bát cũ tại núi Át-na. Khi đức Di -lặc thành 
đạo có bốn vị Thiên vương sẽ mang bốn bình bát này dâng lên đức Di Lặc. 
Ngài Pháp Hiển cho rằng chư Phật trong hiền kiếp đều có chung một truyền
 thống nhận bát như thế.[14] Bình bát của đức Phật 
được xem là một bảo vật luôn mang lại nhiều phước lành cho nhân gian, là
 biểu tượng cho sự hưng hiển của chánh pháp. Khi bình bát này được mọi 
người tôn thờ và giữ gìn cẩn thận thì lúc đó chánh pháp được vững mạnh. 
Lúc bình bát bị vỡ hay sắp biến mất cũng là lúc báo hiệu cho thời kỳ mạt
 pháp. Theo Phật diệt độ hậu quán liệm táng tống kinh, khi bình bát này 
di chuyển đến nước nào thì nơi ấy tai ương, ách nạn tiêu trừ, mùa màng 
đượm nhuần, chánh pháp hưng hiển, vua chúa nhân từ, muôn dân đều sống 
trong thanh bình và an lạc.[15]
 Cho đến thời kỳ mạt pháp, lúc những điềm xấu như bệnh dịch, mất mùa, 
thiên tai xuất hiện, thọ mạng loài người ngắn dần, thực phẩm trở nên 
khan hiếm, v.v... thì đó cũng chính là lúc bình bát không còn lưu lại 
trong nhân gian.[16]
 Vào thời điểm bình bát được mang xuống long cung, cõi Diêm-phù-đề đều 
chấn động, mặt trời, mặt trăng đều ẩn khuất, bầu trời trở nên tối tăm 
suốt bảy ngày, bảy đêm.[17]
 Kinh Liên Hoa Diện có kể lại một câu chuyện rằng: Vào thời quá khứ có 
một môn đồ phái Phú-lan-na tên là Liên Hoa Diện. Người này tuy thông 
thạo thiên văn, địa lý nhưng tâm thức vẫn còn si ám, mê muội. Sinh tiền,
 Liên Hoa Diện có cúng dường cho bốn vị La-lán nhưng trong lúc cúng 
dường anh ta bỗng khởi lên một ý niệm thâm độc rằng sau này chính mình 
sẽ phá hoại Phật pháp. Do phước cúng dường trên nên trong nhiều đời Liên
 Hoa Diện được thân hình đoan nghiêm. Đến đời rốt sau Liên Hoa Diện thác
 sanh trong hoàng tộc và về sau trở thành vua Mị-chi-hạt-la-câu-la. Vua 
vốn là người sùng tín ngoại đạo nên tìm mọi cách ngược đãi Phật giáo và 
cũng chính ông đã phá vỡ bình bát của đức Phật. Chẳng bao lâu sau khi 
làm vỡ bình bát vua bị đọa vào đại địa ngục. Cũng vì bình bát của đức 
Phật bị vua Mị-chi phá hoại nên chánh pháp theo đó cũng dần dần bị suy 
vong.[18] Bình bát mà vua Mị-chi
 phá vỡ không phải là bình bát của bốn vị Thiên Vương nói trên mà đó là 
một trong số những bình bát mà đức Phật đã dùng khi Ngài còn tại thế. 
Sách Pháp uyển châu lâm có nói đến một bình bát bằng đất do một vị thần 
núi dâng cho đức Phật sau ngày thành đạo. Trong suốt ba mươi tám năm sau
 đó, đức Phật luôn sử dụng bình bát này rất cẩn thận. Một lần nọ Ngài 
được quốc vương xứ Ma-kiệtđà thỉnh vào thành Vương Xá để thọ trai. Sau 
giờ ngọ hôm ấy, La-hầu-la mang bình bát này đến hồ Rồng để rửa nhưng 
chẳng may làm vỡ bình bát thành năm mảnh. Lúc ấy thay vì trách cứ 
La-hầu-la, đức Phật bèn vá lại bình bát và Ngài tiên đoán rằng trong 
tương lai, sau khi Ngài diệt độ có những người xuất gia không tôn kính 
và thọ trì giáo pháp, trong năm trăm năm đầu luật tạng bị chia thành năm
 bộ, giáo pháp thì bị chia thành mười tám bộ và đến lúc chánh pháp suy 
tàn, tam tạng thánh điển bị chia thành năm trăm bộ. Bình bát này về sau 
được các vị Đế Thích, Thiên Vương, Long Vương... tuần tự thờ phụng, cúng
 dường và cuối cùng được trao lại cho đức Phật Di-lặc trong tương lai.[19] Một trong những sự 
kiện quan trọng liên quan đến việc truyền thừa y và bát của đức Phật 
Thích-ca cho đức Di Lặc trong tương lai đó là việc tôn giả Đại Ca-diếp 
nhập định lưu thân tại núi Kê Túc. Các tác phẩm Pāli không nói gì về sự 
kiện nhập diệt của tôn giả Đại Ca-diếp, riêng luận Ðại Tỳ-bà-sa và 
A-dục vương truyện có nói chi tiết về việc này như sau: Khi biết cơ 
duyên hoằng hóa đã mãn, Tôn giả quyết định vào núi Kê Túc nhập đại định 
đợi đến khi đức Di-lặc thành đạo sẽ trao lại y bát của đức Thích-ca. 
Trước khi lên núi, Tôn giả vào thành Vương Xá để từ biệt vua A-xà-thế. 
Lúc ấy nhà vua còn đang nghỉ nên Tôn giả một mình lên Kê Túc. Sau khi 
thức dậy, vua A-xà-thế bèn tìm gặp tôn giả A-nan và nhờ Tôn giả đưa mình
 đến đảnh lễ ngài Đại Ca-diếp. Khi cả hai đến núi Kê Túc, theo như lời 
nguyện của ngài Đại Ca-diếp, núi bỗng mở ra và cả hai cùng được chiêm 
ngưỡng và đảnh lễ tôn giả Đại Ca-diếp lần cuối.[20]
 Núi Kê Túc thuộc Bắc Ấn là nơi những người Phật tử thường đến chiêm 
bái. Theo ngài Pháp Hiển, nơi đây thường có các vị La Hán lai vãng, 
trong núi có nhiều hổ, báo và sư tử.[21]
 Ðại Đường Tây Vực ký của ngài Huyền Trang thì ghi lại rằng núi này cao 
chót vót, động sâu hun hút, cây cối chằng chịt, đường dốc chập chùng, 
người đời sau vì kính trọng tôn giả Đại Ca-diếp nên gọi núi này là Tôn 
Túc. Hai mươi năm sau kỳ kiết tập kinh điển, tôn giả Đại Ca-diếp biết 
mình sắp nhập diệt nên theo lời phú chúc của đức Phật vào núi này nhập 
định để sau này trao lại y báu cho đức Di Lặc.[22] Việc tôn giả Đại 
Ca-diếp dâng y cho đức Di Lặc được thuật chi tiết trong kinh Phật thuyết
 Di Lặc đại thành Phật. Theo bản kinh này, khi đức Di Lặc vừa dùng thần 
lực mở núi Kê Túc, Phạm Vương liền dùng dầu thơm cõi trời xoa trán và 
thân của tôn giả Đại Ca-diếp. Tôn giả bèn ra khỏi Diệt tận định, trần 
vai phải, quỳ gối phải, thưa thỉnh và dâng y Tăng-già-lê của đức 
Thích-ca lên đức Di Lặc. Lúc ấy hội chúng của đức Di Lặc bèn bạch Ngài 
rằng vì sao hôm nay trên ngọn núi này có một chúng sanh đầu nhỏ như côn 
trùng, mặc y Sa-môn, lễ bái Ngài như thế. Đức Di Lặc bèn dạy các đệ tử 
Ngài rằng đừng nên khởi tâm khinh mạn người này. Đây chính là tôn giả 
Đại Ca-diếp, bậc đầu đà đệ nhất trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị 
đệ tử thân cận của đức Phật Thích-ca, là vị Sa-môn tu hành rất tinh tấn,
 luôn thương tưởng những chúng sanh bần cùng, bậc tối thắng trong hàng 
trời, người... các ông nên một lòng chắp tay kính lễ vị ấy. Khi nghe đức
 Di-lặc dạy như vậy, cả hội chúng không còn thắc mắc, tất cả đều lễ bái 
tôn giả Đại Ca-diếp.[23] Theo Đại trí độ luận, 
loài người sanh trong thời đức Di Lặc có thân hình to lớn và tuổi thọ 
cũng cao hơn nhiều so với loài người trong thời đức Thích-ca nên khi 
thấy tôn giả Đại Ca-diếp có thân hình nhỏ, đắp pháp phục và thi triển 
được thần thông cả hội chúng của đức Di Lặc đều kinh ngạc. Lúc ấy đức Di
 Lặc liền dạy các hàng đệ tử của mình rằng tuy thân nhỏ nhưng tôn giả 
Đại Ca-diếp đã thành tựu những pháp thù thắng, còn các ông là hàng lợi 
căn, thân hình to lớn há lại không thành tựu những công đức như thế sao.
 Khi đó cả hội chúng đều sinh tâm hổ thẹn, khiêm nhường. Đức Di Lặc nhân
 đó thuyết pháp giáo hóa khiến cho nhiều người chứng đắc thánh quả.[24]
 Điều đáng chú ý là dù chúng sanh sinh trong thời đức Di Lặc có thân 
hình to lớn hơn nhiều so với chúng sanh trong thời đức Thích-ca, nhưng 
tấm y mà tôn giả đại Ca-diếp dâng lên vẫn xứng hợp với đức Di Lặc. Điều 
này được ngài Đạo Nguyên, sơ tổ dòng Tào Động tại Nhật giải thích như 
sau: “Kích thước cơ thể của người phàm khác hẳn với kích thước cơ thể 
của đức Phật. Cơ thể của người phàm thì có thể đo lường còn cơ thể của 
đức Phật không thể đo lường được. Vì lý do đó nên y của Phật Ca-diếp 
xứng hợp với đức Phật Thích-ca, và y của đức Phật Thích-ca cũng xứng hợp
 với đức Phật Di Lặc”.[25] Khi Thiền tông hưng khởi 
tại Trung Hoa, y, bát được xem là những biểu tượng thiêng liêng của 
chánh pháp và là vật truyền thừa tối quan trọng trong thiền môn. Truyền 
thống này bắt nguồn từ giai thoại đức Thế Tôn trao truyền chánh pháp 
nhãn tạng cho tôn giả Đại Ca-diếp trên hội Linh Sơn được ghi lại trong 
Vô môn quan.[26]
 Cảnh đức truyền đăng lục có chép rằng sau khi truyền tâm ấn cho ngài 
Huệ Khả, tổ Bồ-đề Đạt-ma còn truyền pháp y để minh định tông chỉ nhà 
thiền và xem đó như bảo vật để minh chứng cho sự truyền thừa từ một tổ 
sư Thiên Trúc cho một môn đồ đắc pháp Trung Hoa. Tổ Đạt-ma còn huyền ký 
rằng sau khi ngài diệt độ hai trăm năm, lúc người biết đạo thì nhiều mà 
hành đạo thì ít, nói lý thì nhiều mà tỏ lý thì ít, pháp y không được 
truyền thừa nữa.[27]
 Lịch đại pháp bảo ký cũng thuật lại rằng lúc trao pháp y cho nhị tổ Huệ
 Khả, tổ Đạt-ma căn dặn rằng ví như khi một vị Chuyển Luân Thánh Vương 
vừa lên ngôi được bảy món báu, việc truyền ca-sa là để biểu trưng cho sự
 truyền thừa chánh pháp.[28]
 Như thế việc truyền thừa y, bát trong Phật giáo, đặc biệt là trong 
Thiền tông ám chỉ cho sự truyền pháp của một vị thầy hay một thiền sư 
cho người đệ tử nào xứng đáng và đã đắc pháp với mình. Chúng ta có thể 
biết rõ hơn điều này qua việc ngài Phật-đà Bạt-đà-la truyền y cho ngài 
Tăng Triệu hay tổ Đạo Tín truyền y cho ngài Pháp Dung. Truyền thống Thiền 
tông cũng cho rằng pháp y được truyền từ thời tổ Đạt-ma cho đến thời 
ngài Huệ Năng chính là tấm y mà đức Phật đã truyền lại cho tôn giả Đại 
Ca-diếp, người lãnh hội được yếu chỉ của thiền trên pháp hội Linh Sơn. 
Song theo huyền ký của tổ Đạt-ma nói trên cũng như trong kinh Pháp Bảo 
Đàn[29]
 khi được đệ tử Pháp Hải hỏi về việc truyền pháp y, ngài Huệ Năng đáp 
rằng cứ theo di kệ của tổ Bồ-đề Đạt-ma, sau khi Ngài viên tịch pháp y sẽ
 không được truyền thừa như trước nữa. Theo ngài Thần Hội, tại Ấn Độ, 
nơi có những bậc Cao tăng sống đời thanh bạch và nghiêm tịnh pháp y 
không được xem như là ấn tín. Việc truyền thừa y để ấn chứng chỉ xảy ra ở
 những nơi có quá nhiều người tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, hay tranh 
cãi và sống thô tục, chẳng hạn như Trung Hoa.[30] Ngoài
 ý nghĩa biểu trưng cho sự hiện hữu của đức Thế Tôn tại nhân gian, y và 
bát của đức Phật còn là một thông điệp đầy ý nghĩa đối với hàng đệ tử 
của Ngài. Trong sinh hoạt của Tăng đoàn việc thọ trì y và bát theo luật 
nghi là một điều tối quan trọng để hội chúng xuất gia được thanh tịnh và
 để kế thừa truyền thống chánh pháp của chư Phật trong nhiều đời. Phẩm 
hạnh của mỗi người xuất gia được hình thành một phần nhờ vào nếp sống 
thiểu dục, tri túc thông qua việc thọ nhận phẩm vật của người đời để 
nuôi thân và che thân. Y và bát của đức Phật hay của mỗi người xuất gia 
vừa là để phân biệt với lối sinh hoạt của người thế tục, nhưng đồng thời
 cũng nói lên chí nguyện, hoài bão mà người xuất gia đang hướng đến. Con
 người sở dĩ chịu quá nhiều đau khổ, tai ương là vì họ quá đam mê ngũ 
dục. Hình ảnh một bậc vương tử, một người tầm đạo khả kính nhất, một bậc
 đạo sư của ba cõi sống một cuộc đời thanh đạm với y phục hoại sắc và 
bình bát đơn sơ sẽ mãi mãi là hình ảnh cao đẹp và thâm thúy nhất đối với
 những ai đang thao thức về một lẽ sống thuần tịnh và thanh cao, những 
ai đang hướng về một lý tưởng trong sáng, và những ai đang tiếp bước 
trên con đường mà các bậc tiền nhân khả kính đã đi qua. Đồng Thành (Nguồn: TS. Pháp Luân số 30) 
 
[1]
 Theo Chú Giải Kinh Bổn Sanh, vị Phạm thiên này vốn là một người bạn của
 thái tử trong thời Phật Cadiếp. Kinh Phổ Diệu còn ghi rằng khi trở về 
thiên giới, vị phạm thiên này đã xây một bảo tháp để thờ bộ y phục của 
thái tử.[2] T 25n1509, tr. 538b.
 [3] Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ-nại-da Phá Tăng Sự, quyển 4, T24n1450, tr. 118a.
 [4] S. Strong, Relics of the Buddha, New Jersey: Princeton University Press, 2004, p. 216.
 [5] T4n203, tr. 470a. Tham khảo thêm Kinh Phân Biệt Cúng Dường, số 142, Trung Bộ Kinh.
 [6] Kinh Tương Ưng, Phẩm Tương Ưng Ca-diếp XVI.
 [7] T53n2122, tr. 560a-b.
 [8] T51n2087, tr. 904b.
 [9] Sđd, tr. 879a-b.
 [10] Horner, I.B. The Minor Anthologies of the Pali Canon, Part III, London: Pali Text Society, 1975, pp. 98-99
 [11]
 Xem Đại Phẩm I, Bổn Sanh I, Ngũ Phần Luật, quyển 15, Tứ Phần Luật quyển
 31, Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự, quyển 5, 
Phật Thuyết Thái Tử Thụy Ứng Bổn Khởi Kinh (T3n185, tr. 479a), Quá Khứ 
Hiện Tại Nhân Quả Kinh, quyển 3 (T3n189, tr.643b), Phật Bổn Hạnh Tập 
Kinh, quyển 32 (T3n190,tr.801b-c), Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh, 
quyển 10 (T3n187, tr. 601a), Phổ Diệu Kinh, quyển 7 (T3n186, tr. 
526b-c).
 [12] Cao Tăng Pháp Hiển Truyện, T51n2085, tr. 858b-c.
 [13] Đại Đường Tây Vực Ký, T51n2087, tr.879c.
 [14] Sđd, tr. 865c.
 [15] T12n392, tr. 1114b-c.
 [16] Cao Tăng Pháp Hiển Truyện, tr. 865c.
 [17] Liên Hoa Diện Kinh, T12n386, tr. 1076a.
 [18] Sđd, tr. 1075c.
 [19] T53n2122, tr.1008b-c.
 [20] T50n2042, tr. 114c. T27n1545, tr. 698b
 [21] T51n2085, tr. 864a.
 [22] T51n2087, tr. 919b-c.
 [23] T14n456, p. 433b-c.
 [24] T 25n1509, tr. 79a.
 [25]
 B. Faure, “Quand L’habit Fait Le Moine: The Symbolism of the Kāṣāya in 
Sōtō Zen” in Chan Buddhism in Ritual Context, Ed. B. Faure, London: 
Routledge Curzon, 2003, p. 214.
 [26] T48n2005, tr. 293c.
 [27] T51n2076, tr. 219c.
 [28] T51n2075, tr. 181a-b.
 [29] T48n2008, tr. 361a.
 [30] J. Kieschnick, The Impact of Buddhism on Chinese Material Culture, New Jersey: Princeton University Press, 2003, pp. 106-107.
 |