Nguyễn Du khi cho Kiều  		đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn 
Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới.  		Nhiều Thầy của chúng ta phản 
đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất  		gia cho nên nói như vậy, 
vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ  		mười giới sa-di. Sự 
phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền  		thọ giới và thọ 
giới ở nước ta.
Ngày nay chúng ta đã  		quen với các từ tỳ kheo, đặt đầu danh hiệu nhiều vị xuất gia:  Tỳ kheo Thích như vầy như vầy.
 Nhưng cách đây chừng nửa thế kỷ, việc  		ký danh ký hiệu như vậy thật 
là hiếm thấy. Các vị trưởng lão thời trước  		như Hòa thượng Thiện Hoa 
mà trước tác của Ngài còn lưu lại rất nhiều,  		trong đó chỉ thấy thường
 ghi “Sa-môn Thích Thiện Hoa”, chứ không không  		ghi “Tỳ kheo Thích 
Thiên Hoa” như trong các Thông bạch của các Trưởng  		lão hiện tại. Điều
 này tất có lý do lịch sử. Thứ nhất, đó là do bởi tinh  		thần thượng 
tôn giới luật. Danh hiệu tỳ kheo, với đầy đủ phẩm  		chất như được quy định trong luật, cả đến nhiều vị thiền sư nổi tiếng  		cũng dám không tự nhận. Như luật Trùng trị Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu
 của ngài Trí Húc đời Minh có kể chuyện: Có người hỏi Thiền sư Thọ 
Xương,  		“Phật chế tỳ kheo không được quật địa tổn thượng thảo mộc. Nay
 sao các  		ngài tự cày bừa, tự gieo trồng, tự gặt hái?”  Đáp: “Bọn 
chúng tôi chỉ  		cốt ngộ được tâm Phật, kham truyền ý Tổ, chỉ thị đương 
cơ, khiến cho  		biết rõ tâm tính, thế thôi. Nếu quy cách theo Chánh 
pháp, thì chỉ có  		xưng là ‘Cư sĩ cạo tóc’ mà thôi. Đâu dám xưng danh 
mình là tỳ kheo!”
Trả lời của Thiền sư Thọ  		Xương thật ngụ nhiều ý nghĩa. Nhưng ở đây
 chúng ta không luận bàn chi  		tiết. Chỉ cốt nêu lên để tháy rằng, ngay
 từ xưa, tại Trung quốc, phần  		lớn các Thiền sư không thọ giới tỳ kheo
 như ngày nay chúng ta tưởng.  		Thêm nữa, xã hội Trung hoa có xu hướng 
tôn trọng ẩn sĩ. Nhiều người lánh  		đời ẩn dật, mà đức hạnh cao khiết, 
nhiều đời sau, thậm chí cả đến vua  		chúa cũng phải kính trọng. Cho 
nên, người xuất gia chỉ cốt ở phẩm hạnh  		cao khiết hơn đời. Thọ giới 
chỉ là hình thức. Như được thấy trong câu  		trả lời của Thiền sư Thọ 
Xương.
Thêm nữa, ngày nay chúng  		ta cũng quen với lối viết tiểu sử của 
những vị xuất gia, trong đó lúc  		nào cũng thấy ghi năm xuất gia và thọ
 đại giới. Điều này cũng ít thấy  		trong các sử truyện, nhất là sử 
Thiền tại Trung quốc. Ngay như sử thiền  		nước ta, Thuyền uyển tập anh
 chép truyện các Thiền sư cũng ít khi  		nói các ngài thọ giới lúc nào, 
hay ở đâu. Theo tập quán như vậy, nên khi  		chép truyện ngài Pháp 
Thuận, Hòa thượng Thanh Từ viết : “Sư họ Đỗ, không  		rõ quê quán ở đâu,
 xuất gia từ thuở bé, thọ giới với Thiền sư Long Thọ  		Phù Trì..”  Thực
 ra, đoạn này Tập Anh chỉ nói: “Nhỏ đã xuất gia, thờ  		thiền sư Phù Trì
 chùa Long Thọ làm thầy.” Theo thầy lúc còn nhỏ, thì lúc  		ấy không thể
 thọ đại giới được. Hòa thượng Thanh Từ viết theo quán tính.
Thế cho nên, không nên  		nội vàng mà kết luận “Cụ Nguyễn Du không 
biết gì về đạo Phật”, lý do là  		nói xuất gia mà chỉ thọ năm giới. Thật
 sự nàng Kiều chưa phải xuất, chỉ  		bị cách ly khỏi Kim Trọng, nên Hoạn
 Thư mượn tiếng nâu sòng khoác lên  		cho nàng để mình khỏi bị mang 
tiếng ghen. Chẳng có ai làm thầy, trong  		cái Quan Âm các nhà họ Hoạn, 
 làm gì có Thầy truyền giới? Chúng ta không  		nên tự hào là mình biết 
rõ thời đại của Cụ Nguyễn Du hơn Nguyễn Du,  		trong thời đó, Phật giáo 
được hành như thế nào, Tăng đồ sinh hoạt như  		thế nào. Đem sinh hoạt 
người xuất gia thời ta mà gán cho thời đại Nguyễn  		Du, chẳng khác nào 
tự nhiên cho ngài Pháp Loa hay Huyền Quang khi xuất  		gia theo Trúc Lâm
 Đại đầu đà thì cũng học Tì ni nhật dụng thiết yếu,  		như các chú tiểu ngày nay tại các chùa Báo quốc hay Từ hiếu!
Nguyễn Du cho Kiều tự  		xuống tóc, tự xuất gia, cho thọ tam quy ngũ 
giới mà chẳng có thấy Tăng  		truyền; vấn đề như vậy cần phải được 
nghiên cứu cẩn thận, vì liên hệ đên  		sinh hoạt Tăng già và cư sĩ thời 
Nguyễn Du. Chúng ta cũng biết rằng  		trước đó Ngô Thời Nhiệm và một bộ 
phận lớn các đại thần của vua Quang  		Trung cũng theo Ngô Thời Nhiệm 
làm sư, mà không nói gì đến thọ sa-di hay  		tỳ kheo. Ngô Thời Nhiệm 
nhận là Tổ thứ tư của Thiền phái Trúc lâm.
Cho nên, hình ảnh Phật  		giáo mà ta thấy hôm này, với trật tự tăng 
già, tổ chức sinh hoạt tu tập  		cho các Phật tử, không phải tự nhiên 
một sớm một chiều, cũng không phải  		được truyền thừa y như vậy, liên 
tục từ đời xa xưa cho đến ngày nay.
Có một giai đoạn vận  		động phục hưng Phật giáo, trong đó thật đã 
trải qua không biết bao nhiêu  		khổ nhọc, thậm chí không chỉ nước mắt 
mà cả máu cũng phải đổ. Đọc quyển 		Năm mươi năm chấn hưng Phật giáo
 của Cố Trương Lão Thích Thiện  		Hoa, nguyên Viện trưởng Viện hóa đạo, 
Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống  		nhất, để thấy rõ những đoạn đường 
gian khổ mà các bậc Tôn Túc trong Tăng  		già, cùng với các Cư sĩ, các 
vị đã trải qua như thế nào.
Trong số những bậc Tôn  		Túc ấy, hiển hiện hình bóng của Trưởng Lão 
Thích Trí Thủ, cùng với các  		vị khác nữa, như Thừa thiên Huế có Ngài 
Đôn Hậu, chùa Linh mụ; ngoài Bắc  		có Sư Cụ Bình Minh, trong Nam có 
Trưởng lão Thiện Hòa, Trưởng lão Hành  		Trụ; những vị đã dày công bồi 
dưỡng, hoằng truyền Luật tạng.
Học, nghiên cứu Luật,  		hành trì Luật, và hoằng truyền Luật, thật 
không đơn giản, không dễ dàng.  		Tất nhiên cái học và cái hành nào cũng
 có chỗ khó; với Luật, cũng có  		những khó khăn riêng.
Trước hết, Phật giáo  		khởi nguyên từ Ấn độ. Tăng già và các quy tắc
 sinh hoạt của Tăng già tất  		cũng chịu ảnh hưởng của phong tục tập 
quán, và cả đến tín ngưỡng đặc  		thù, của xã hội và dân tộc, chủng tộc 
khác nhau tại Ấn độ. Một điều như  		“khẩn thổ quật địa”, trong tín 
ngưỡng nhân gian của Ấn độ thời cổ, tại  		địa phương mà điều luật ấy 
được chấp hành, điều này được hiểu rất đơn  		giản. Cao hơn nữa, ngày 
nay người ta có thể hiểu nó qua ảnh hưởng sinh  		thái học. Nhưng đối 
với truyền thống Trung quốc thì điều đó hơi khó  		hiểu, và cũng khó 
thực hành. Hàn Dũ, khi đề nghị dẹp bỏ Phật giáo, trong  		đó có lý do 
nói đến cộng đồng tăng lữ, là “bọn không cày mà có cơm ăn;  		không dệt 
mà có áo bận”. Cộng đồng ấy chỉ là bọn ăn bám, gây hại cho xã  		hội. 
Thành ra, châm ngôn sống thiền của ngài Bách Trượng “nhất nhật bất  		
tác nhất nhật bất thực” có một giá trị xã hội rất lớn đối với Phật giáo 
 		tại Trung quốc; nhưng tại các nước nam phương như Thái lan hay Tích 
lan,  		châm ngôn đó không áp dụng cho tăng lữ được, vì nó trái với tinh
 thần  		của Luật Phật chế. Nhưng Trung quốc lại là một xã hội thượng 
tôn pháp  		luật, có xu hương thủ cựu. Danh từ “pháp của Tiên vương” 
thường thấy  		được nhắc nhở rất nhiều trong sử, khi các triều thần muốn
 can gián vua  		chúa một điều gì. Với tinh thần đó, thì những gì được 
xem là Phật chế,  		được truyền từ Ấn độ sang, không ai được phép sửa 
đổi. Người ta thấy Tổ  		Bách Trượng chỉ dám viết Bách trượng thanh quy,
 đề nghị những quy  		tắc sinh hoạt cho thiền môn thích hợp với xã hội 
Trung quốc, chứ ngài  		không hề dám sửa một điều gì trong Luật được 
truyền là do Phật chế,  		truyền từ Ấn độ sang. Những gì không thực hành
 được, các ngài tự cho là  		vì “khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sinh sơ,
 nhân đa giải đãi..” Vì thế  		không hành nổi. Nhưng vì phương tiện độ 
sinh, có thể hạ thấp xuống cho  		hợp căn cơ thời đại. Như vậy có nghĩa 
là hành trì từ thấp lên cao, chứ  		không phái kéo giới luật Phật chế 
xuống ngang tầm thời đại, cho hợp khẩu  		vị thời đại.
Thủa trước, có một vị  		Thiền sư nhận thấy những điều trong giới bổn
 tỳ kheo không còn thích hợp  		bèn sửa đổi. Thiền sư hỏi ý kiến học trò
 của mình, như để thăm dò căn cơ  		thời đại cho thích hợp. Nhưng gặp 
phải người học trò thủ cựu, hỏi lại  		Thầy: “Giới luật Phật chế, sao 
Thầy dám tự tiện sửa?” Thầy đáp: “Không  		giữ được, thì nên sửa. Chứ để
 như vậy mà làm gì?” Người học trò tỏ thái  		độ: “ Thầy giữ không được 
thì mặc kệ Thầy. Ai giữ được, để người ta giữ.  		Sao Thầy lại tự tiện 
sửa?”
Cả hai tinh thần, vừa  		thượng tôn pháp luật, vừa thủ cựu tuân theo 
cựu chế của tiền nhân, cả  		hai khiến cho vấn đề nghiên cứu luật tại 
Trung quốc rất phức tạp. Ngày  		nay, sự hành trì luật của nước ta cũng 
chỉ phỏng theo các tông truyền  		luật của Trung quốc, nên khó khăn lại 
càng gấp bội. Thế nhưng, như một  		xã hội tồn tại được ổn định do bởi 
luật pháp trong sáng, được giải thích  		chính xác, và được áp dụng hợp 
tình hợp lý. Phật giáo để cho được tồn  		tại và phát triển, những đệ tử
 của Phật không thể chỉ nói, “tôi cốt tu  		tâm; còn giới luật là phụ.” 
Vì sự tu tập của mỗi người có những quan hệ  		ảnh hưởng đến nhiều người
 khác. Trong mười mục đích Phật chế luật có  		nói: vì mục đích khiến 
cho người chưa tin Phật thì được tin; người đã  		tin thì tín tâm càng 
tăng trưởng.
Tại Trung quốc, khi Ngài  		Thái Hư bắt đầu vận động cải cách Phật 
giáo, nổi bật với ba mục tiêu  		cách mạng: “Cách mạng giáo lý. Cách 
mạng giáo chế. Cách mạng giáo sản.”  		Trong đó mục tiêu cách mạng giáo 
chế nhắm đến cải cách tinh thần bại  		hoại của lớp tằng lữ đương thời. 
Ngài tự nêu lên hai câu làm châm ngôn  		lý tưởng: “Hành tại Du-già bồ 
tát giới bổn. Chí tại chỉnh lí tăng già  		chế độ.”  
Về tình trạng tăng lữ  		thời đó, có thể dẫn lời của Pháp Sư Tục Minh (1918 – 1966), viết trong 		Giới học khái thuyết:
 “Cho đến thời đại gần đây, chế dộ tòng lâm  		thời trước bị phế bỏ 
không hành nữa. Nghi thức thọ giới thì cũng chỉ như  		đem dê đi cúng 
thần. Phẩm hạnh của tăng nhân do đó mà xuống thấp. Phật  		giáo suy bại 
đến cực điểm, suy cho ra nguyên nhân, thì là do bởi bỏ phế  		việc học 
giới…”
Tinh trạng nước ta có vậy  		hay không, để các vị cao tăng đại đức, 
ẩn cư trong núi rừng vằng vẻ,  		bỗng đứng ra “gánh vác việc đời”. Nhưng
 thực tế có thể biết chắc là các  		vị Tôn Túc hàng đầu trong công cuộc 
vận động chấn hưng Phật giáo Việt  		nam chịu ảnh hưởng của ngài Thái Hư
 không phải ít. Đông lực chính của  		công cuộc chấn hưng, theo như lời 
Trưởng Lão Thiện Hoa nói trong Năm  		mươi năm chấn hưng Phật giáo:
 “Gần  		100 năm về trước, quê hương Tổ quốc của chúng ta bị người Pháp 
đô hộ,  		Dân tộc ta và những gì mang nặng dân-tộc tính, có tinh thần 
quốc gia đều  		bị thực dân Pháp bóp chẹt. Phật-giáo Việt-Nam nằm trong 
tình trạng ấy.
“Nhưng không hẹn mà nên, 50 năm về trước, các vị Tiền Bối cùng nằm  	
	trong một thời kỳ, cùng trong một hạnh nguyện, đã khởi xướng và đẩy 
mạnh  		Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo Việt-Nam.”
Việc Phật giáo bấy  		giờ bị “thực dân bóp chẹt” không phải chỉ là 
cách nói suông. Sự thực  		lịch vẫn còn đó: chùa Khải tường trong Nam, 
được dựng bởi vua Minh Mạng;  		tháp Báo thiên ngoài Bắc, được dựng bởi 
vua Lý Thánh tông, không phải tự  		nhiên biến mất, để rồi tình cờ sau 
đó xuất hiện Vương cúng Thánh đường,  		và Nhà thờ Chúa Giu-se.
Dẫu sao, đó cũng  		chỉ là ma chương bên ngoài ngoài. Chính ma chướng
 bên trong mới đáng  		nói. Chúng ta hiện không có nhiều sử liệu từ phía
 nhà chùa để biết tình  		hình sinh hoạt tăng lữ thời ấy ra sao, trước 
khi phong trào chấn hưng  		phát khởi. Tuy vậy, qua ca dao tục ngữ, vẫn 
biết một phần. Chỉ có điều,  		khó xác định thời đại của những câu châm 
biếm nhà chùa này.
Xã hội Việt nam  		trong buổi giao thời, một đằng nếp sinh hoạt tinh 
thần đạo đức truyền  		thống bị suy thoái trầm trọng dưới sức ép tiến bộ
 vật chất của phương  		Tây. Như nhà thơ Trần Tế Xương đã phải cất tiếng
 than: “Văn minh Đông Á  		trời thu sạch. Này lúc cang thường đảo lộn 
ru?” Trong thơ của ông cũng  		không hiếm bài châm biêm nhà chùa “công 
đức tu hành sư có lọng”. Tuy  		nhiên, chưa thấy ở đâu mô tả tình trạng 
bại hoại đến độ như lời tâu của  		Đàm Dĩ Mông đề nghị vua Trần Thành 
Tông sa thải tăng đồ (Việt sử lược,  		dẫn bởi Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông):
 “Nay tăng đồ cùng  		với dịch phu quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng, 
dựng bậy thầy trò, tụ  		nhóm, ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới 
trường tinh xá, hoặc ngang  		nhiên rượu thịt, hoặc tại thiền phòng tịnh
 viện, riêng tự gian dâm, ngày  		ẩn tối ra, như đàn cáo chuột. Chúng 
làm mất tục hư đạo, dần dần thành  		thói. Việc đó không cấm, để lâu 
càng tệ thêm.” Thường thì người ta hay  		khoa đại hoặc cường điệu cho 
vấn đề bi đát, với mục đích thuyết phục  		người khác nghe theo ý mình. 
Như chuyện Cụ Nguyễn Hiến Lê sau đọc một  		quyển tiêu thuyểt mô tả tình
 trạng dân nghèo bị áp bức ở quê miền Bắc,  		nói răng, chuyện áp bức 
thì tất nhiên là có rồi, nhưng đến mức như  		chuyện kể, thì Cụ sống ở 
Bắc cho đến lớn, biết rất nhiều chuyện các  		làng, chưa nghe nói đâu ác
 đến như thế. Cho nên cũng không thể căn cứ  		vào chuyện ông Đàm Dĩ 
Mông để đánh giá sinh hoạt của giới tăng lữ dưới  		thời vua Lý Cao Tông
 được.
Nói vắn tắt, động  		cơ chính trong việc chấn hưng Phật giáo, như ngài Trưởng lão Thiện Hoa  		nói rõ.
 
*****
 
Trong bài “Tự ngôn” cho  		bản dịch Việt Luật Tứ phần của 
Hòa thượng Đỗng Minh, có đoạn  		viết: “Thế hệ thứ nhất trong phả hệ 
truyền thừa Luật tạng của Tăng già  		Việt nam thời trùng hưng hiện đại 
bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng  		tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc
 nhưng khó hình dung rõ nét đối với các  		thế hệ tiếp bước theo sau. 
Các Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng chốn  		tòng lâm, mà đời sống phạm 
hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng  		ngời, tịnh như băng tuyết, 
mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước,  		tham phương, hoằng 
truyền Chánh pháp.”
Thế hệ thứ nhất được nói  		đó, trong Nam, là các Trưởng lão Hành Trụ
 và Thiện Hoa, ngoài Trung có  		Trưởng lão Đôn Hậu và Trí Thủ. Ngoài 
Bắc, tôi chỉ biết được Trưởng lão  		Bình Minh qua bản dịch Yết-ma chỉ nam
 mà thôi. Tuy nhiên, qua các  		câu chuyện kể của Trưởng lão Đức Nhuận, 
chùa Giác minh Saigon, tôi biết  		thêm một ít về Tổ Tuệ Tạng, mà truyền
 thừa trực tiếp về luật là ngài  		Bình Minh miền Bắc và ngài Thiện Hòa 
miền Nam. Tổ là một trong các bậc  		Tôn Túc hàng đầu khởi xướng phong 
trào chấn hưng Phật giáo.
Sự xưng tán đệ nhất hay  		đệ nhị ở đây tùy thuộc nhận thức chủ quan,
 trong ý tưởng đánh dấu khúc  		quanh chuyển mình của lịch sử Phật giáo 
Việt nam, trong đó sự chấn chình  		chế độ tăng già, hoằng truyền Luật 
tạng là một thạch trụ vững chắc. Việc  		trì luật và truyền luật là mạng
 mạch liên tục của sự tồn tại Chánh pháp,  		nên khó có thể cắt từng 
giai đoạn theo thời đại. Tuy nhiên, để có thể dễ  		dàng nhận thức những
 gì đang chuyển biến và nhiều khi có khả năng biến  		dạng của truyền 
thống tăng già, nên sự phân chia mốc lịch sử và thời đại  		mang tính 
chủ quan trong phạm vi ước lệ cũng là điều cần thiết.
Các thế hệ trước, vấn đề  		trì luật và truyền luật như thế nào, tình
 trạng Việt nam không giống ở  		Trung quốc, không được ghi chép đầy đủ,
 dù ở mức tương đối. Vị truyền  		luật gần nhất trong lịch sử có thể 
biết được, đó là Tổ Pháp Chuyên, bổn  		sư của ngài Toàn Nhật, dưới thời
 Tây sơn. Nếu đi lần lên cho đến ngài  		Khương Tăng Hội để biết buổiit 
sơ khai luật đã được truyền và trì như  		thế nào trên đất Việt, để biết
 rõ hình thức tổ chức Phật giáo đã tồn tại  		như thế nào, vấn đề quá 
lớn so với bài viết này, nên không thể nói bâng  		quơ được.
Tuy nhiên, điều không  		thể không lưu ý là tinh chất chính thống 
trong lịch sử truyền của luật.  		Nghĩa là tăng già mà các thành viên là
 tỳ kheo trực tiếp truyền thừa  		liên tục không đứt đoạn kể từ sau Phật
 Niết-bàn, dù sau đó theo bước  		chân hoằng hóa của các Thánh tăng Phật
 giáo đã lưu truyền gần khắp châu  		Á, từ phía tây với Iran, cho đến 
viễn đông với Nhật bản.
Trong lịch sử truyền  		thừa tại Trung quốc, tuy truyền thuyết bắt 
đầu từ Ma-đằng và Trúc  		Pháp-lan, từ đó nhiều người theo Phật, nhưng 
chỉ thọ trì tam quy ngũ  		giới. Cũng có người cạo tóc, khoác mạn y, 
song không ai trong đó thọ đại  		giới. Vì theo luật Phật chế, nếu nơi 
biên địa, cho phép túc số Tăng năm  		tỳ kheo truyền giới cụ túc. Lúc 
bấy giờ tại Trung quóc, các sa-môn nước  		ngoài, từ Tây vực, hay từ Ấn 
độ trực tiếp đến, không khi nào hội đủ túc  		số năm tỳ kheo. Cho đến 
vào thời Tào Ngụy, trong khoảng Gia bình (Tây  		lịch 249-253), bấy giờ 
có Đàm-ma-ca-la (Dharrmakāla) từ Thiên trúc đến  		Lạc dương, dịch luật Tăng kỳ giới tâm, sau đó lại có sa-môn  		Đàm-đế người An tức đến trụ tại chùa Bạch mã dịch Đàm-vô-đức yết-ma.  		Từ đó ở Trung quốc mới có sự truyền giới tỳ kheo theo túc số thập sư.
Về ni giới cũng vậy. Cho  		đến đời Tấn, niên hiệu Thăng bình (357), 
sa-môn Đàm-ma-kiết-đa lập giới  		đàn truyền giới tỳ kheo ni cho Tịnh 
Kiểm và bốn cô nữa. Đây được kể là  		tỳ kheo ni đầu tiên tại Trung 
quốc, nhưng không đủ nhị bộ tăng, mà trực  		tiếp truyển từ tỳ kheo 
Tăng. Vấn đề đã được thảo luận, nhưng vì bấy giờ  		Trung quốc chưa có 
ni thì không thể đủ hai bộ để truyền như luật định.  		Đàm-ma-kiết-đa 
cho rằng giới từ Đại Tăng mà có, này Đại Tăng đủ số thì  		có thể 
truyền.
Sau đó, vào năm Nguyên  		gia 6 (429), có sa-môn Cầu-na-bạt-ma 
(Guṇavarma)  		đến Trung quốc, ni cô Huệ Quả đem vấn đề thọ giới đắc 
pháp ra hỏi, ngài  		trả lời: không đắc, vì không đủ nhị bộ tăng. Lúc 
bấy giờ tại Trung quốc  		có 8 vị tỳ kheo ni từ Tích lan sang, nhưng 
Cầu-na cho là chưa đủ số thập  		sư nên chưa chịu tổ chức giới đàn. Theo
 lời khẩn cầu của các ni cô bấy  		giơ, Cầu-na-bạt-ma cử người sang đảo 
Sư tử, tức Tích-lan ngày nay, thỉnh  		thêm cho đủ Thập ni để truyên 
giới. Về sau, có thêm Thượng tọa ni  		Thiết-sách-la cũng bốn vị nữa từ 
đảo Sư tử sang, nhưng bấy giờ  		Cầu-na-bạt-ma đã tịch. Giới đàn khi ấy 
do Tăng-già-bạt-ma tổ chức, đủ  		hai bộ tăng túc số truyền giới tỳ kheo
 ni. Đây gọi là chính thức tỳ kheo  		ni như pháp được truyền thọ tại 
Trung quốc.
Điều này cho thấy vấn đề  		truyền giới, tuy chỉ nói là hình thức, 
nhưng rất hệ trọng nên các Tổ rất  		thận trọng. Vì mạng mạch Tăng già 
phải được kế thừa liên tục, như ngon  		đèn tiếp nối, không thể ở đâu đó
 một nhóm người nổi lên, tự lập thành  		chúng, tự thọ giới và tự nhận 
là Tăng già đệ tử Phật. Vấn đề cũng cho  		thấy sự nhiểu khê trong những
 ngày đầu truyền giáo và truyền luật. Ngay  		tại thời Phật, chúng ta 
cũng biết rằng sau khi đức Phật quy định 2 năm  		học giới trước khi thọ
 tỳ kheo ni, nhiều vị ni đã thắc mắc về sự đắc  		giới của Đức Bà 
Kiều-dàm-di cùng với năm trăm Xá-di, vì trước đó các vị  		này thành 
tỳ-kheo ni mà không có ai trải qua 2 năm học giới. Đức Bà phải  		lên 
thỉnh ý A-nan. A-nan lại phải một phen bạch lên Phật. Phật nói, tỳ  		
kheo ni đầu tiên đắc giới bằng bát kỉnh pháp. Từ đó về sau, phải trải  	
	qua 2 năm học giới.
Câu chuyên tương tự cũng  		xảy ra tại Việt nam. Mấy chục năm trước, 
có một vị Ni sư trưởng, nay đã  		tịch, nhân luận về giới pháp ni, bà 
nói nói tôi: “Sau này học luật,  		chúng tôi mới biết. Nhưng trước đó 
chúng tôi thọ tỳ-kheo-ni mà không ai  		trải qua 2 năm học giới. Không 
biết có đắc giới hay không?” Tôi cũng  		không biêt nên nghĩ thế nào, 
đắc hay không đắc. Nhưng ni chúng dưới sự  		dạy dỗ của các vị Ni sư 
trưởng này đã đều trở thành các vị tỳ kheo ni mà  		giới phẩm tuyệt vời,
 được mọi người kính trọng. Cho nên không ai dám “y  		Kinh giải nghĩa”,
 để mang tội là “tam thế Phật oan.”
Đấy là điểm khó khăn và  		cân nhắc mà các Tổ truyền luật phải thận 
trọng, chúng ta cũng hiểu những  		khó khăn của buổi đầu khai đạo. Vận 
dụng thế nào để mạng mạch truyền  		thừa như ngọn đèn tiếp sáng liên 
tục, gọi là “truyền đăng tục diệm”. Đó  		là sự vận dụng trí não sao cho
 khế lý và khế cơ, thật không đơn giản.
Trong nhiều lúc giảng  		luận về Luật tạng, Hòa thượng Trí Thủ thường
 kể cho nghe nhiều chuyện  		xảy ra trong thực tế tương tự, mà các ngài 
nhiều khi thảo luận cả mấy  		tháng trời vẫn không dứt khoát. Khó khăn 
một phần vì tư liệu. Do tình  		trạng đất nước nghèo khó, và tăng già 
sơn môn thường xuyên sinh hoạt  		trong sự túng thiếu, nên khó có đủ 
điều kiện để có được một bộ Đại tạng  		kinh như ngày nay, mà đa số các 
Chùa đều có thỉnh về để thờ. Có được bộ  		luật Trùng trị Trí 
Húc, hay bộ Tứ phần như thích thì thật là quý  		giá vô cùng đối với vị 
thích nghiên cứu luật. Khó khăn này tuy vậy không  		phải là quá khó. 
Điều khó khăn khó đả thông, là vấn đề phong tục dị  		biệt. Vì Luật tạng
 được kết tập tại Ân-độ, mà ngay tại Trung hoa, với sự  		nghiên cứu và 
hành trì sâu rộng thế mà nhiều chỗ còn không đả thông  		được. Huống chi
 việc học luật của nước ta sau này chỉ có chỗ dựa duy  		nhât là các bộ 
Luật được truyền dịch, và sớ giải, tại Trung quốc. Một  		vấn đề thực tế
 đã xảy ra, theo kể lại của Hòa thượng.
Tại Huế, lúc bấy giờ có  		một mệnh phụ, chồng chết, mãn tang rồi, 
xin xuất gia. Chư sơn thảo luận,  		khi nào thì cho thọ tỳ kheo ni? 
Nguyên trong Luật Tứ phần, theo Hán văn,  		có quy định: “đồng nữ thập 
bất, tằng giá thập nhị, các nhị tuế học  		giới.” Nếu theo giải thích 
của Yết-ma chỉ nam, câu này có thể  		hiểu là: thiếu nữ chưa 
chồng, đúng 18 tuổi; phụ nữ đã có chồng, sau 12  		năm chồng chết; thêm 2
 năm học giới sau đó cho thọ tỳ kheo ni. Theo đó,  		thiếu nữ chưa 
chồng, tuổi tối thiểu để thọ tỳ kheo ni là 20. Đã có chồng  		thì tính 
từ ngày chồng chết phải 12 năm sau mới cho thọ. Các vị thảo  		luận, 
theo cách hiểu như vậy có điều không phù hợp thực tế. Thực sự, đây  		là
 vấn đề nhạy cảm. Vì trước sự nhiệt thành, với nhất là với sự hiểu Đạo  
		sâu sẵc của bà mà chư Tôn Túc xác nhận, để chờ 12 năm nữa thì thiệt 
thòi  		cho ni chúng; mà cũng bởi định luật vô thường, thế thì cũng tội 
cho  		người nữ nhiệt tâm vì Đạo. Nhưng chữ nghĩa như vậy, giải thích 
sao đây?  		Tất nhiên, có vị đã không tin là Luật sư Chiêu Minh, tác giá
 Yết-ma  		chỉ nam, giải thích đúng Luật Phật. Tăng quyết định 
thế nào thì tôi  		quên mất. Nhưng theo lời Hòa thượng, ý kiến Hòa 
thượng lúc bấy giờ là  		cho thọ sa-di-ni rồi cho thọ thức-xoa ngay, để 2
 năm sau bà thọ tỳ kheo  		ni cho kịp thời.
Sau đó Hòa thượng dạy  		tồi về lục xem trong Luật tạng Pāli, điều 
này được nói như thế nào. Tôi  		đọc kỷ luật Pāli đoạn liên hệ, lại tham
 khảo các bản dịch Anh. Các bản  		này đều có chú thích, nêu ý kiến 
người dịch. Tôi cũng tìm thêm các tài  		liêu trực tiếp từ các bộ luật 
khác, ngoài luật Tứ phần. Sau đó, trình  		lên Hòa thượng. Đây là những 
buổi học luật của tôi với Hòa thượng, cùng  		với sự tham dự của Hòa 
thượng Đỗng Minh. Tôi dẫn tài liệu, nêu ý kiến  		của mình. Vấn đề này 
liên hệ đến túc tảo hôn của Ấn-độ. Nhân duyên được  		ghi rõ trong luật Tăng-kỳ
 thế này: Sau khi dòng họ Thích bị tàn  		sát, Đức Bà Kiều-đàm dẫn các 
Xá-di, đều là con cháu của các Ni trưởng  		trong vương tộc, về ngụ 
trong tinh xá ni để bảo dưỡng. Phần lớn là bé  		gái, tuổi chừng 12 trở 
lên. Theo luật, tỳ kheo và tỳ kheo ni không được  		đem vật thực của 
tăng mà phân chia cho cư sỹ. Các cô bé này đều là cư  		sỹ, mà số lại 
rất đông, do không được mang vật thực của Tăng phân chia  		cho, nên rất
 chật vật cho Đức Bà, và cùng các tỳ kheo dòng họ Thích đã  		xuất gia 
trước đo theo Đức bà. Vấn đề được trình lên Đức Phật để thình  		cầu chỉ
 giáo. Nếu các cô bé này được cho thọ tỳ kheo ni, họ hợp pháp  		được 
tăng phân chia lợi dưỡng, thế thì các Bà không phải tự khất thực  		vất 
vả để nuôi con cháu nhỏ dại của mình. Đức Phật nhìn các cô bé, bảo  		
rằng: “Còn nhỏ quá.” Nghĩa là con nít quá, làm sao kham nổi giới pháp tỳ
  		kheo ni? Các cô bạch Phật: “Chúng con đã từng làm vợ, đã từng chịu 
đựng  		hầu hạ chồng và mẹ chồng. Thế thì việc kham nhẫn giới tỳ kheo 
ni, chắc  		là làm được.” Đây là gốc bởi tục tảo hôn. Con gái chừng 8 
tuổi đã có thể  		được gã chồng. Thời tục cổ, nước nào cũng thế, do 
trọng nam khinh nữ,  		thân phận phụ nữ, không kể lớn nhỏ, thường xuyên 
bị áp bức, nhất là làm  		dâu. Bất cứ làm dâu khi mấy tuổi. Hầu hạ 
chồng, mẹ chồng, có thể cả nhà  		chồng. Sức chịu đựng không phải tầm 
thương. Vì thế, sau khi nghe các cô  		bé thình nguyện, Đức Phật quy 
đinh, mà văn Hán dịch như đã dẫn. Tuy  		nhiên, con số chính xác về 
tuổi, các luật không thống nhất. Như Tứ phần  		dẫn trên, nhỏ nhất là 12
 tuổi thọ thức-xoa, vậy 14 tuổi là cô tỳ kheo ni  		bé bỏng nhất. Nhưng 
có luật quy định, tuổi thọ thức-xoa thấp nhất là 14.  		Đây cùng là do 
phong tục quy đinh tuổi hôn nhân của mỗi địa phương.
Hòa thượng tán thành  		quan điểm, cho rằng ý ngài trước đây cũng 
nghĩ vậy, nhưng không có đầy  		đủ minh văn để làm bằng. Duy có điều, ở 
nước ta, dù một thời cũng có tục  		tảo hôn, nhưng cô tỳ kheo ni 14 tuổi
 thì con nít quá, khó chấp nhận.
Một lần khác, Hòa thương  		nói với tôi: vừa rồi có Sư bà nhiếp chúng
 ở một ni viện đến trình Hòa  		thươngj về việc ni chúng ở đó định tác 
pháp yết-ma tẩn xuất một cô tỳ  		kheo ni do tội ăn căp tiền, có bẳng 
chứng. Số tiền đâu khoảng vài trăm,  		cũng đồng như vài chục ngàn bây 
giờ. Hòa thượng dạy: ăn căp chừng đó,  		đâu nhiều gì, mà sao xử năng 
thế? Sư bà thưa: Ni chùng thảo luận, vì  		luật chế, ăn cắp năm tiền trở
 lên là bị diệt tẫn. Hòa thượng dạy, số  		tiên ấy là quy đinh mức tội 
theo mỗi nước, thời Phật tại thế. Chỉ khi  		nào ngang mức tử hình, mới 
gọi là thành tội diệt tẩn. Hòa thượng không  		cho phép chư ni tác pháp 
diệt tẩn đối với cô ây, mà chỉ bắt tấc pháp sám  		hối đúng theo luật 
quy định. May mà Ni chúng bấy giờ không xử trị oan  		khuất một người.
Vấn đề này sau đó cũng  		được thảo luận trở lại với sự tham dự của 
Hòa thượng Đỗng Minh. Theo lời  		Hòa thượng dạy, tôi lại sao lục các 
tài liêu liên hệ về quy đinh mức tội  		ăn căp. Với các tài liệu tôi 
trình, nghe xong, Hòa thượng Đỗng Minh nêu  		ý kiến: Nếu xét 5 tiền là 
mức tử hình để định tội diệt tẩn, chắc thực tế  		khó có trường hợp diệt
 tẩn xảy ra. Ngoài đời, ngay cả trong thời vua  		chúa, chỉ khi ăn cướp 
có giết người, hay trộm đồ tế khí trong tông miếu,  		mới bị tử hình. 
Nếu đối chiếu theo mức định tội như luật ngoài đời hiện  		nay: thấp 
nhất là tội phạt vi cảnh. Kế nữa là tội xử theo mức tiểu hình.  		Cao 
nhất là mức của tòa đại hình. Tôi ăn cắp, nếu tương đương mức xử đại  		
hình thì bị diệt tẩn.
Hòa thượng đòng ý quan  		điểm giải thích này.
Đại loại các buổi học  		luật và thảo luận luật như vậy liên tục suốt
 trong ba năm, với Hòa  		thượng chủ trì, Hòa thượng Đỗng Minh nêu ý 
kiến về đề nghị những giải  		thích. Phần tôi thì ghi chép tổng hợp. Kết
 quả tập hợp thành bộ Tứ  		phần hiệp chú, mà tên gọi đầy đủ là Đàm-vô-đức bộ Tứ phần luật Tỳ  		kheo giới bổn hiệp chú. Đó là công trình tâm huyết một đời của Hòa  		thượng để lại.
 
*****
 
Người học luật mà không  		hành trì, khó mà hiểu hết những điều được 
học có nghĩa lý gì. Trì luật,  		không phải chỉ sống thanh bạch một mình
 trên núi rừng với nai với khỉ,  		độc thiện kỳ thân. Luật, được Phật 
chế, với mục đích nhiếp tăng. Vị chưa  		từng sống nhiều năm trong tăng,
 chưa từng xử lý việc tăng, cũng khó mà  		hiểu hết giá trị những điều 
luật.
Thủa đời Tùy bên Trung  		quốc, có Luật sư Hồng chuyên giảng Tứ phần.
 Pháp sư Tăng Hưu nghe giảng  		có đến hơn 30 lần, rồi nói với đồ chúng:
 “Tôi dự nghe cũng nhiều. Về  		kinh luận, nghe qua một lần có thể hiểu 
hết. Nhưng về luật, càng nghe  		càng mờ mịt. Thế nên biết, lý thì có 
thể hư cầu, mà sự thì khó bề thông  		hội.” Bởi vì, về lý thì có thể 
hiểu suông, suy diễn thế nào cũng được.  		Cứ xem các triết gia tranh 
luận ráo riêt với nhau thế kỷ này sang thê kỷ  		khác không bao giờ dứt,
 thi đủ biết. Nhưng về sự, nếu không đi vào thực  		tế, thì không thể 
thông được. Khi dẫn chuyện này, Hành sự sao tư trì  		ký còn 
chua thêm: Vẽ quỷ vẽ ma thì dễ đẹp, nhưng vẽ chó vẽ ngựa thì  		khó mà 
giống cho được. Nói vậy, vẫn có nhiều trường hợp ông thầy vẽ vời  		
nhiều chuyện, gọi là chế tác hay canh cải đúng theo tinh thần luật, rồi 
 		truyền trò, lâu đời thành nếp, khó sửa. Một người học Luật tốt 
nghiệp,  		lâu bao nhiêu năm chưa biết, nhưng có thể nổi tiếng. Tuy thế,
 ông chưa  		bao giờ ngồi ghế chánh án, hay bồi thẩm, cũng chưa giờ làm 
luật sư biện  		hộ cho ai; bất chợt ông được giao cho biên soạn bộ luật 
hình sự. Bộ luật  		ấy nếu áp dụng cho các tòa xét xử, chắc có nhiều 
chết oan mạng. Luật  		Phật hướng đến giải thoát. Người chưa giải thoát,
 còn đầy dẫy tham sân,  		may mà không gặp cơ hội để phát tác, tự bản 
thân đã chưa thể giải thoát,  		làm sao có thể đặt luật cho người khác 
hành trì! Hòa thượng thường hay  		nhăc nhở: ở đời đi dạy học, nếu dạy 
sai một vài bài toán, thì khổ lắm  		cũng chỉ trong một đời người thôi. 
Nhưng hướng dẫn người sai lạc, khiến  		người ta muôn kiếp đọa lạc, thì 
tội của mình không phải là nhỏ. Làm thầy  		độ người, phải cẩn thận. 
Trong suốt đời chuyên trách giáo dục đào tạo  		tăng tài, Hòa thượng 
cũng đã bao che cho nhiều học tăng phạm kỷ luật,  		theo lẽ phải bị trục
 xuất. Những vị ấy về sau lại trở nên tinh tấn, giới  		hạnh thanh 
khiết.  Hòa thượng nói, giới luật để uốn nắn người xấu thành  		người 
tốt, chứ không phải chỉ để trừng trị.
Tuổi trẻ tất có những  		ngông cuồng, nhiều khi vượt quá quy luật. 
Nhân một hôm không có giờ dạy,  		tôi về chùa hầu Hòa thượng. Tối hôm 
đó, lúc tôi đang ngồi hầu chuyện Hòa  		thượng thì hai ông bà Ngô Trọng 
Anh cũng đến thăm. Sau một hồi chuyện  		trò, Bà Ngô bạch:
“Bạch Hòa thượng, con  		biết có mấy chú trong chùa trốn đi vô quán. 
Buổi đó trời mưa, con nhìn  		xuống thấy hai ống quần, biết mấy chú này 
trùm áo mưa đi quán.”
Hòa thượng không nói gì. Ông Anh lên tiếng:
“Bà này thật nhiều chuyện. Người ta đã sợ. nên phải  		lén che rồi, mà bà còn mách.”
Hòa thượng cũng không nói gì. Nhưng kể nhiều chuyện  		vui khác. Một 
lúc sau, lại kể chuyện xưa, thời Hòa thượng còn niên  		thiếu. Nói là 
niên thiếu, lúc bấy giờ cũng khoảng 40, hay nhiều hơn, lại  		thuộc hàng
 lãnh đạo Phật giáo Trung phần. Nhân một buổi được Hội Phật  		giáo phân
 công tác vào Bình định giải quyết một số vấn đề Phật sự. Cùng  		đi là 
ngài Mật Nguyện. Hai vị đến Qui nhơn, giải quyết xong Phật sự, bèn  		
bàn riêng. Bình điijnh nổi tiếng là quê hương của hát bội. Các ngài tán 
 		thưởng hát bội vì điệu bộ nghệ thuật, lại thêm văn chương thâm thúy. 
 		Nhân dịp này, nếu bỏ qua không thưởng thức thì cũng uổng. Nhưng trong
  		cương lãnh đạo tinh thần đối với tăng ni và Phật tử ở đây, làm sao 
có  		thể đường đột mà đi. Hai vị bèn quân khăn lên đầu, chỉ cốt không 
ra vẽ  		trang trọng để người đời không lưu ý thôi, chứ vẫn khoác y phục
 nhà chùa  		thì đi đâu cũng được nhận ra là ông thầy. Nhưng hai vị tin 
rằng ở Bình  		định không mấy ai biết mặt mình.
Khi vào rạp, đang tìm chỗ ngồi, chẳng may gặp phải  		quan Tuần phủ 
cũng vừa đi đến. Ông quan này trước ở Kinh thành, lại là  		hàng văn nho
 tao nhã, nên cũng rất thân với Hòa thượng Trí Thủ. Bất chợt  		như 
người “đào trái tha hương ngộ tri cố”, kẻ trốn nợ đi tha phương mà ở  		
đó lại còn gặp cố tri nhìn ra mặt, thật là không may. Trong khi chưa  		
biết tránh đi đâu, thì ông quan vồn vã bước đến chào hỏi:
“Ủa, chớ hai thầy, vô khi mô? đi mần chi trong ni?  		Nhân tiện, mời hai thầy lên ngồi với tui.”
Hóa ra, là khách quý bất đắc dĩ, hai vị theo ông  		quan Tuần phủ lên
 ngồi hàng ghế danh dự trong rạp hát. Nghe xong câu  		chuyên, ông Ngô 
Trọng Anh phát cười, rất tâm đắc. Ông hiểu ý Hòa thượng  		muốn nói gì.
Những chuyện tượng tự như vậy lớn có nhỏ có, chuyện  		tầm thường có,
 mà chuyện tày trời cũng có, đã xảy ra suốt cuộc đời của  		trì luật và 
truyền luật của Hòa thượng, cần phải có những phán đoàn và  		quyết 
định, để giúp những người lở sa ngả còn có thể đứng dậy để tiếp  		tục 
cho đến cuối con đường Đạo của mình. Ở đây tôi chỉ có thể kể vài câu  		
chuyện mà tự thân may mắn được nghe, được biết, để tưởng nhớ công hạnh  
		một đời truyền luật. Không truyền luật như vị giáo thọ ngồi trên bục  
		giang, mà truyền dạy ngay trong thực tế sinh hoạt hằng ngày.
Nghiêm khắc, nhưng luôn luôn sẵn sàng tha thứ, để  		uốn nắn dần. 
Điều này đơn giản, nhưng trong thực tế, đâu tình, đâu lý;  		sự quyết 
đoán không phải dễ. Luật để nâng đở những tâm hồn yếu đuối,  		không 
phải để dẫm đạp những người đã té ngả, khiến cho vĩnh viễn đọa  		lạc. 
Cho nên, khi tôn giả Bạt-đà-lị hỏi Phật vì sao có trường hợp cùng  		
phạm giới ngang nhau nhưng vị này được tăng xử trị nhẹ nhàng, trong khi 
 		vị khác bị xử trị rất nặng? Phật bảo: như người có hai con mắt mà một
  		con đã bị hư thì cần phải giữ gìn con kia cẩn thận. Cũng vậy, người 
yếu  		đuối nên dễ hay phạm giới. Do tinh thần yếu đuối, nếu xử trị 
nặng, người  		ấy bất kham có thể dẫn đến đọa lạc. Với người ý chí kiên 
cường, việc xử  		trị nặng là tôi luyện cho ý chí được bền chắc hơn.
Bên ngoài, nhìn vào luật, với nhiều cấm đoán khắt  		khe, chỉ thấy sự
 nghiêm khắc của luật, mà không thấy được tâm từ bi bao  		dung rộng lớn
 của luật.
 
*****
Vào những ngày cuối đời,  		Hòa thượng càng lưu tâm tha thiết với sứ 
mệnh giáo dục tăng ni. Khi lần  		đàu tôi được thả ra khỏi trại giam, 
chưa trở về chùa ngay; Hòa thượng  		gọi tôi đến dạy: Một ngày không thể
 thiếu mặt trời. Tăng chúng cũng  		không thể một ngày thiếu tu, thiếu 
học. Và do vậy lớp học tại chùa Già  		lam được Hòa thượng cưu mang ròng
 rã bốn năm. Thời gian không dài lắm,  		nhưng một thời thử thách, và 
chịu đựng, thời gian đó không phải ngắn.  		Tôi vẫn còn ngậm ngùi khi 
hồi tưởng lại những hôm, thức dậy lúc 3 giờ  		rưởi sáng, đang chuẩn bị 
cho buổi trà sớm xong, để lên Chánh điện lễ  		Phật. Bỗng thị giả bước 
vào thưa: Hòa thượng dậy lúc 2 giờ sáng, đợi  		thầy sang uống trà. Tôi 
bết Hòa thượng thường thức cho đến 12 giờ khuya  		mới chỉ tịnh. Có thể 
suôt đếm nay Hòa thượng không ngủ. Tâm sự năm canh  		một bóng đèn.
Tết năm đó Hòa thượng về  		thăm Huế. Chùa Già-lam, Thầy Trụ trì Đức 
Chơn cũng chuẩn bị đón Hòa  		thượng về chùa. Trước khi đưa xe ra sân ga
 đón Hòa thương, Đạt Đạo đến  		nói với tôi: “ Mấy hôm nay Thầy Trụ trì 
bận việc, quên không gởi thơ  		thỉnh Ôn vô. Các thầy ngoài Báo quốc 
bảo, coi chừng Ôn không về Già lam.  		Ôn nói, chùa không ai cần đến Ôn 
nữa, thì thôi. Anh đi đón Ôn cho Ôn  		vui.”
Tôi vui vẻ theo Đạt Đạo  		đi đón Hòa thượng. Hòa thượng cũng vui vẻ về chùa, không thấy có gì lạ.
Nhưng đây không phải đơn  		giản là chuyện vui buồn, để Hòa thượng về
 chùa với Chúng hay không. Bên  		trong đó là tâm sự thiết tha của người
 luôn luôn muốn sống, và chỉ sống,  		vì ích lợi cho người, vì mọi người
 đang cần. Đời cần thì ta đến, đời  		không cần nữa thì ta đi. Có gì mà 
vui hay buồn trong đây? Cho nên, năm  		đó, Hòa thượng làm bài thơ này:
 Sáu bảy xuân thu giữa cuộc đời
 Buồn vui mừng giận khéo trêu người
 Thân này đã hứa cùng non nước
 Vinh nhục khen chê chỉ  mĩm cười
Năm đó, là năm mà Hòa  		thượng bị đặt trước một quyết định sinh tử, 
không chỉ quyết định vinh  		nhục của bản thân, mà quyết định liên hệ 
đến vinh nhục, tồn vong của Đạo  		pháp. Đó là quyết định mà người xưa 
nói, hoặc “lưu phương thiên cổ”,  		hoặc “di xú vạn niên”.
Hành xử của bậc trượng  		phu xuất thế, bằng tâm lượng nhỏ nhoi của 
người thường, đủ thiếu vào đâu  		mà đàm tiếu, khen chê? Chi nhị trùng 
hà tri chi? Mượn lợi Trang Tử để  		nói vậy: “Hai con sâu con ấy mà biết
 gì?” Làm sao hai con chim sẻ nhỏ  		kia mà biết được chí con đại bàng 
vỗ cánh trên bầu trời vạn dặm kia?
Chuyện Trang Tử, ví cho  		trượng phu chí lớn giữa đời. Nhưng với 
những bậc “xuất trần thượng sĩ”,  		thì ví von ấy chỉ để ví von cho thú 
vị tao nhã văn chương vậy thôi.
Nguồn: Phật Việt