Mục đích của Thiền là đạt ngộ chân tâm, cho nên ngôn ngữ 
của Thiền không phải là ngôn ngữ mà chúng ta thường sử dụng, nó là những
 phương tiện để đập vỡ vỏ bọc cuộc đời, là những nhát búa chém giữa hư 
không mà rúng động cả đất trời.
Một cánh tay rớt xuống vô tình 
của Ngài Huệ Khả chỉ là lời nói bình thường như bao nhiêu anh hùng chí 
sĩ, nhưng một lời “điểm huyệt” của Bồ Đề Đạt Ma còn vang vọng ngàn thu. 
Lời nói của Bồ Đề Đạt Ma đã điểm trúng chân tâm của Ngài Huệ Khả, lời 
nói mà đời sau không ai có thể nói lời tương tự.
Mỗi đối tượng, 
mỗi hoàn cảnh thì có một công án Thiền thích hợp, và ngược lại, một công
 án Thiền chỉ khai mở cho đúng căn cơ và hoàn cảnh. Những công án mà 
ngày xưa các Tổ sư đã từng dùng nó để khai ngộ cho các đệ tử nhưng đối 
với những người có căn cơ khác thì dù nói đến ngàn lần cũng không có tác
 dụng gì.
Bởi vậy, ngôn ngữ Thiền là làn sóng giao cảm giữa người
 truyền và người nhận, là ngôn ngữ mà người không cùng tần số thì không 
thể hiểu, không thể cảm nhận được. Như bao nhiêu người đã từng đọc tụng 
đến câu “Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm”, vậy tại sao chỉ có một mình 
Ngài Huệ Năng chứng ngộ bởi câu này? Cái “Vô sở trú” trong lời kinh đã 
tương thích với “Vô sở trú” trong tâm của Ngài Huệ Năng, chính lời kinh 
đã khơi dậy bản tánh “vô sở trú” vậy.
Lại nữa, ngôn ngữ Thiền 
không phải là “văn tự”. Văn tự” ở đây là chỉ cho những khái niệm ngôn 
ngữ của thế gian, là những quy định trong giới hạn con người. Ngôn ngữ 
của thế gian là phương tiện truyền tâm. Vậy ngôn ngữ của tâm là gì? Đó 
chính là ngôn ngữ vượt ra ngoài ngôn ngữ.
Khi Ngài Lâm Tế hỏi 
Ngài Bách Trượng về đại ý của Phật Pháp, liền bị lãnh 3 gậy, đó là câu 
trả lời chính xác nhất về Phật Pháp. Mục đích của Phật Pháp là gì? Đó là
 sự giải thoát khổ đau cho tất cả chúng sinh. Phật Pháp là con đường 
thực tiễn, chứ không phải là một lý thuyết suông, nếu chúng ta học Phật 
Pháp như một học giả, thì kiến thức về Phật Pháp đó không đủ để giúp 
chúng ta đứng vững giữa vũng bùn đau khổ của cuộc đời. Bởi vậy, những ai
 học Phật pháp để thỏa mãn kiến thức rồi tưởng mình đã đạt ngộ, đến khi 
cuộc đời giáng cho vài gậy lên đầu liền ngã quỵ.
Ngôn ngữ Thiền 
không phải là thứ ngôn ngữ để trao truyền kiến thức, bởi vì ngôn ngữ của
 kiến thức không đủ để đoạn trừ khổ đau, không đủ để làm chiếc bè thoát 
ly sanh tử.
Các lậu hoặc trong tâm chúng ta như những viên sỏi 
cứng nằm lâu trong nước vẫn không tan, phải dùng những phương cách để 
nghiền nát chúng ra thành bột chúng mới có thể hòa vào trong nước. Bởi 
vậy, mỗi công án là một nhát búa phá tung những chấp trước tầm thường 
của thế gian, nghiền nát những lớp vỏ vô minh để hiện lộ chân tánh trong
 tâm.
Ngôn ngữ của Thiền là ngôn ngữ để khai ngộ, là những gì mà 
vị Thiền sư dùng để có thể chỉ thẳng vào tâm của hành giả, ngôn ngữ 
Thiền thật biến ảo không cùng, có khi là những câu thơ đưa người trở về 
với thế giới thực tại, có khi là những thái độ lạnh lùng hoặc là những 
thoại đầu hóc búa.
Khi Ngài Huệ Khả đến cầu phép an tâm, Ngài Bồ 
Đề Đạt Ma nói ”Đưa tâm đây ta an cho!” Tâm là gì mà phải đi tìm, vậy câu
 nói này có phải là Bồ Đề Đạt Ma tự mâu thuẫn hay không? Vì Ngài đã từng
 nói:
“... Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.”
Tâm
 là gì mà “trực chỉ”, lấy cái gì để trực chỉ. Đó chính là Thiền. “An 
tâm” hay “Trực chỉ nhân tâm”, chỉ là một bước trong quá trình kiến tánh 
thành Phật. Bởi vậy, cứu cánh chính là sự kiến tánh, là thấy được Phật 
tánh, chứ không phải là tìm tâm, hay an tâm, hay trực chỉ nhân tâm! Đây 
là phương tiện, chúng ta đừng lầm tưởng đây là cứu cánh.
Bản thể 
của vạn pháp thật là thâm diệu, bởi vậy ngôn ngữ của thế gian không bao 
giờ diễn tả hết nghĩa lý sâu xa, chỉ có tự thân thực chứng, mới có thể 
thấy sự vắng lặng nhiệm mầu của pháp. Còn dùng ngôn ngữ để biện giải, 
hoặc dùng đầu óc lý luận để phân tích thì không đem lại kết quả gì cho 
sự tu chứng, vì càng phân tích, càng lý luận thì càng sai lầm.
Ngôn
 ngữ của Thiền vượt ra ngoài ngôn ngữ bình thường của thế gian, vượt ra 
ngoài ý niệm của con người, nó không có nguyên tắc chung, tùy theo hoàn 
cảnh, tùy theo căn cơ mà Thiền sư dùng từng thứ ngôn ngữ khác nhau, xem 
đó như chiếc bè giúp hành giả vượt biển mà thôi.
2. Ngôn ngữ của Thi ca :
Ngôn
 ngữ của Thi ca là ngôn ngữ của cuộc sống tinh thần, êm đềm như những 
tiếng ru, trầm thống như những mảnh đời khắc khoải, đôi khi lại bàng bạc
 mênh mang thể hiện những cuộc viễn mộng kiêu hùng.
Phải dấn thân
 vào thi ca mới hiểu được ngôn ngữ của Thi ca là gì. Bởi vì nó muôn hình
 vạn trạng, đổi màu tùy theo làn sóng nắng, mà chỉ có những người đồng 
cảm mới hiểu nổi.
Ngôn ngữ của Thi ca không phải là ngôn ngữ tả 
cảnh bình thường, nó có mặt như “ngôn ngữ hiện sinh” để diễn tả những 
thực trạng của tâm hồn. Một bài thơ, hay một câu ca, là những gì còn sót
 lại nơi tận cùng sâu thẳm của một con người, là những gì còn đọng lại 
trong ký ức hay trong tàng thức, để rồi bộc lộ một cách tự nhiên như dấu
 chân người đi trên cát.
Như J. P. Sartre từng viết :
“Những
 nhà thơ dừng lại ở chữ, như họa sĩ dừng lại ở màu sắc và nhạc sĩ dừng 
lại ở âm thanh; như thế không có nghĩa là dưới mắt họ chữ đã mất hết ý 
nghĩa; thật ra chỉ có ý nghĩa mới có thể cho chữ sự thống nhất ngôn ngữ 
của chúng; không có ý nghĩa chữ tản mác thành âm thanh hay nét bút. Chỉ 
có điều là ý nghĩa, cả nó nữa, cũng trở thành tự nhiên; nó chẳng phải là
 cái đích không bao giờ nắm được và bao giờ cũng được cái siêu việt tính
 của con người nhắm vào; đó là một đặc tính của từng chữ, cũng tựa như 
nét biến của mặt, tựa như cái nghĩa nho nhỏ vui buồn của các âm thanh và
 các màu sắc”.
Thật vậy, ngôn ngữ không phải là chỗ dừng lại cuối
 cùng của Thi ca, khi bước vào chỗ tận cùng của ngôn ngữ thì nó sẽ 
chuyển hướng sang một lãnh vực khác, đó là giao cảm của tâm hồn. Con 
người bao giờ cũng hướng đến “siêu việt tính” và đã mượn tất cả những gì
 đang có để đi đến đó. Ngôn ngữ trong Thi ca thể hiện một cách chân 
thật, không đắn đo do dự khi nói lên những thực cảnh của cuộc đời và 
thực trạng của tâm hồn.
J. P. Sartre lại viết :
“Thi ca là một thứ ngôn ngữ được sử dụng như một dụng cụ tìm kiếm chân lý”.
Nhà
 thơ hướng đến những gì rất thật của cuộc đời, nhưng mỗi người có một 
lăng kính nên Thi ca thật quá nhiều hình dạng. Tùy theo từng góc cạnh 
nhìn nhận cuộc đời mà ngôn ngữ Thi ca được phô diễn bằng một màu sắc 
khác nhau. Vũ Hoàng Chương nhìn đời trong “Say”, Hàn Mặc Tử nhìn đời 
trong “Điên”, họ chỉ nhìn thấy một cảnh của cuộc đời, chỉ thấy cuộc đời 
là đau khổ. Đúng, cuộc đời là đau khổ, là thiên lưu, nhưng cuộc đời 
không phải là những gì tuyệt vọng, cho nên Thi ca cũng là một lối thoát 
của cuộc đời, từ Thi ca có thể mở ra một lối sống lành mạnh hơn để nuôi 
dưỡng những mảnh đời điên dại, xoa dịu những vết thương đã chất chứa bao
 ngày. Từ đó, Thi ca vút lên ngàn không diệu vợi, mênh mang giữa đất 
trời, để mà “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”.
Thi ca cũng là duyên sinh như muôn vàn pháp khác, nên Thi ca cũng mờ mờ ảo ảo, có có không không như bản thể của đất trời.
Trong
 Thi ca, trăng không còn là trăng, nước không còn là nước và hiện hữu 
cũng không còn là hiện hữu. Vì trong Thi ca “Lô sơn chân diện mục” đã 
được bày tỏ. Và để cho trang trắng nợ đời. Lý Bạch đã ôm trăng mà chết, 
nhưng bao giờ mới ôm được trăng đây?
Thi ca có thể là những tiếng
 cười của thi sĩ, những tiếng cười trong thống ẩm cuồng ca, tiếng cười 
trong ánh trăng khổ nhục của Lý Bạch, và cũng có thể là tiếng cười trong
 đêm dài lạnh giá để thể hiện ý chí trầm hùng” Trường khiếu nhất thanh 
hàn thái hư” của Không Lộ Thiền Sư. Đứng một mình trên đỉnh cô phong bạt
 ngàn sương gió, mỉm cười trong lẽ sống, chết, thịnh, suy.
Thi nhân thật cô đơn, nên Thi ca cũng cô đơn như người sinh ra nó.
“Sầu cô quạnh tung trời lên Bắc đẩu
Dải ngân hà tan tác bụi thu bay”
Những
 hùng tâm tráng chí bao giờ cũng cô đơn, muốn đạp tung trời để mở ra một
 cái gì thật mới. Vì thấy rằng dải ngân hà đã vàng úa trong bụi thu mờ, 
chẳng còn gì để luyến tiếc hay bi quan, ý chí thật siêu phàm trác tuyệt.
Nhưng trong Thi ca nhiều khi còm đượm những buồn man mác bởi vì
Ai đem xáo trộn sầu kim cổ ?
Trăng nước Đà Giang mộng Liêu Trai
Vũ
 Hoàng Chương đã lạc vào nẻo say của cuộc đời hư thực, đâu là bến Tầm 
Dương, đâu là lầu Hoàng Hạc để cho khách phong trần dừng chân khi mỏi 
gối, càng ngây ngất trong ý thơ, càng lạc lối trong mộng liêu trai.
Thi
 ca là những nỗi lòng hoài mộ gót phiêu du, trải qua bao năm tháng lang 
thang trong giấc mộng hải hồ, một hôm trở về nhìn lại đỉnh Hương Lô, tất
 cả tâm sự đều thể hiện qua thơ, trong đó chất chứa những hoài niệm đã 
xa tít mù khơi. Hoài niệm không phải là chân lý, không phải là thật có, 
nhưng nó đang hiện hữu và được bộc lộc thành thơ, một bức tranh thủy mặc
 vẽ bằng mây, nhưng nó vẫn đẹp như sông hồ diễm ảo. Thi ca là vậy đó, 
cho nên ai không phải là thi nhân thì đừng bao giờ đụng đến thơ, và đừng
 bao giờ nói chuyện với thi nhân, vì trong hai người sẽ có một người 
tỉnh và một người điên.
Thơ có thể là đóa hoa mà thi nhân cài lên
 áo, nhưng thơ cũng có thể là phế phẩm của thi nhân, nhưng nó là tất cả 
những gì của thi nhân. Vì qua thi ca thể hiện những quan điểm nhìn đời, 
phong cách sống và những điều suy nghiệm khi nhìn lại bản thân mình.
Thi
 ca là những bước chân mềm mại, đã đi vào đời người, "như từng viên đá 
cuội, rớt vào lòng biển khơi". Thi ca là những nỗi niềm tâm sự của một 
đoạn đời, là những viên đá cuội ngàn năm phủ rêu xanh nhưng vẫn còn khắc
 lại tên người...
Thi ca là thiên đường mộng ảo của thuở ban sơ, 
chỉ vì một chút trần tâm vọng niệm mà bắt Thi ca phải “Xa vời mây nước, 
lá vàng trôi”, Thi ca phải uốn mình theo dòng chảy của cuộc đời. Nhưng 
dù sao đi nữa, Thi ca có chìm đắm trong “đọa đày viễn mộng”, hay Thi ca 
có bạc màu như “tường rêu lữ thứ” Thi ca vẫn là Thi ca, vẫn là những gì 
rất thật của tâm hồn.
3. Sự liên hệ giữa Thi ca và Thiền học.
Thi
 ca là những đóa hoa tô điểm cuộc đời, dù vàng úa hay xanh tươi, dù tỏa 
hương phô sắc hay ẩn mình trong gai góc, vẫn có một giá trị riêng của nó
 mà không một ai có thể phủ nhận. Thi ca muôn màu muôn vẻ, biến ảo như 
ráng mây chiều, nhưng khi Thi ca bắt gặp nhịp thở của Thiền thì bỗng 
nhiên trở thành cao thượng và phóng khoáng.
Cũng như Thiền học, 
Thi ca là những gì đã “lịch nghiệm kỳ cùng cuộc lữ” từ đó mới nhận chân 
được sự thật của cuộc đời. Và không ngần ngại khi buông thả tất cả vào 
chân không tĩnh lặng.
“Em về đi giữa hằng sa
Giữa vô biên cõi một tòa Như Lai”
Tuệ Nguyên
Đến đây, Thi ca đã bước vào cõi uyên nguyên, sắc trời giờ đây chỉ còn một màu bàng bạc giữa vô biên mà không còn phân biệt.
Thiền
 sư và Thi sĩ, không chung hướng nhưng đã bước một đường, cả hai đều gặp
 nhau trên nẻo đường sanh tử, cả hai đều đã gặp những đợt sóng gầm thét 
hãi hùng, nhưng ai là người ngã quỵ và ai là người đứng dậy? Ai là người
 ngồi lại bên biển đời chao đảo để làm thơ, và ai là người dũng mãnh 
bước đi trên những ngọn ba đào?
Tất cả các triết gia và các nhà 
tư tưởng thường suy tư về thân phận con người và thấy nó thật là ngắn 
ngủi. Con người có cái nhìn giới hạn trong sự sống chết, nên họ cố hướng
 đến một cái gì vĩnh cửu, nhưng đó chỉ là giấc mộng, ước mơ mà không bao
 giờ trở thành hiện thực. Chỉ có một sự hiển nhiên là bản tính vô thường
 của vạn pháp. Bởi vậy, thơ Thiền thật là phóng khoáng.
“Y cẩu phù vân biến thái đa
Du du đô phó mộng Nam Kha
Sương dung tẩy hạ hà phương trạm
Phong sắc xuân lai mai dĩ hoa".
Cuộc
 đời như đám phù vân luôn luôn thay hình đổi dạng, có nhưng không phải 
là thực có, nó không tự sinh ra và cũng không bao giờ hoại diệt, chỉ 
biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Nếu ai ôm mãi đám phù 
vân bồng bềnh sinh tử thì sẽ khổ lụy triền miên. Công danh phú quý như 
giấc mộng Nam Kha, bao nhiêu mơ ước của một đời người, dãi dầu mưa gió 
trong con đường gấm lụa, đâu biết rằng tất cả đều như bèo dạt mây trôi, 
một mai chợt tỉnh kiếp mơ màng lại thấy năm tháng mang theo vạn hộc sầu.
 Nhưng không phải đi vào tuyệt lộ, bởi vì sương vừa tắm hạ sen đang nụ, 
gió kịp vời xuân mai nở hoa. Giấc mộng tàn để bình minh ló dạng, sương 
đêm tan để điểm thắm sen hồng. Thơ Thiền đã thoát ra khỏi màn đen u tối,
 sưởi ấm ngọn đông phong để hoa mai hé nụ giữa cuộc đời.
Nhìn năm
 tháng xoay vần, ý niệm về thời gian đã đè nén lên tâm hồn thi sĩ để 
nuối tiếc những mùa hạ êm đềm, những mùa thu kỷ niệm, để ép nốt dòng dư 
lệ, nhỏ xuống thành thơ... Trăng đã bao lần tròn rồi lại khuyết, như Vũ 
Hoàng Chương vẫn nhớ mãi Trăng của nhà ai, trăng một phương và nhớ mãi 
Mười hai tháng sáu. Thật ra, thời gian là gì mà phải nuối tiếc? Quá khứ 
làm gì mà phải đau buồn? Tương lai là gì mà vọng tưởng? Hãy sống trong 
hiện tại mới đúng là đang sống:
“Đản tri kim nhật nguyệt,
Hà thức cựu xuân thu”
Những
 gì đang hiện hữu trong ta và xung quanh ta là sự hiện hữu nhiệm mầu. 
Hôm nay cũng có hoa có bướm, có mây trắng bàng bạc, có lá vàng rơi và 
vẫn còn nhịp thở. Đâu cần phải tìm lại những cánh bướm ngày xưa, đâu cần
 phải nhặt lại chiếc lá vàng mùa thu ấy, vì chúng sẽ làm cho chúng ta 
chìm đắm trong dĩ vãng mơ màng. Nên thơ Thiền toát lên từ đời sống an 
trú trong thực tại.
Cái nhìn của Thiền sư và Thi sĩ đối với ngoại
 cảnh đôi khi cũng tương tự, nhưng họ chỉ gặp nhau một điểm là thơ rồi 
lại rẽ hai dòng, trong thi sĩ phong trần còn có những cái nhìn trắc trở.
 Trên thế gian này, ai cũng đã từng ngắm trăng, nhưng trăng, trong cái 
nhìn của Lý Bạch ẩn chứa những hoài niệm xa vời.
“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương“.
Đối
 với Lý Bạch, trăng hôm nay vẫn sáng nhưng khác hẳn trăng xưa, ánh trăng
 ngày xưa là ánh trăng trong hoàng kim diễm lệ, và ánh trăng bây giờ là 
ánh trăng lưu lạc trong hồn thi sĩ.
Cũng vậy, Thiền sư bây giờ nhìn trăng không phải là trăng, nhìn nước bây giờ không phải là nước... vì tất cả đã hiển bày.
“Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu”
Trần Nhân Tông
Từ
 cõi thơ đến cõi mơ, từ cõi thực đến cõi hư chỉ cách nhau một đoạn đường
 phân biệt, và chỉ có Thiền sư mới có thể xóa hết đoạn đường này, để nắm
 ánh trăng trong tay mà không hề động niệm. Và hãy nhìn trăng đúng là 
trăng, thật là oan uổng khi bắt trăng phải xẻ làm đôi. Những ý tưởng 
điên cuồng đã bắt trăng phải lênh đênh. Sự phân biệt đối với ngoại cảnh 
sẽ làm cho chúng ta có cái nhìn sai lạc. Một nửa vầng trăng chìm đáy 
nước, một nửa vầng trăng ở trên không, Vậy trăng nào mới thật là trăng 
đây? Tất cả đều hiện hữu trong trùng trùng duyên khởi, các pháp hiện hữu
 trong nhau và hòa nhập vào nhau.
Dù cho thế sự đổi đời, nhưng đối với Thiền sư thì đường trở về đã rõ, nên:
“Ung dung đi giữa đất trời
Đưa tay vỗ đá, đá cười hoát nhiên"
Tuệ Nguyên
Đá
 cuội ngàn năm vẫn mỉm cười theo bước chân kiêu kỳ của Thiền sư đạp trên
 sóng cồn sinh tử. Tiếng hài vô chung đã không còn khứ lai, chơn vọng, 
vì giờ đây tất cả đều nguyên vẹn, mặt nhật không còn bị ý niệm bẻ ra 
từng mảnh vụn.
Thiền sư và phong trần khách, ai cũng bước vào cõi
 thơ, ai cũng đi qua những năm tháng chênh vênh, và ai cũng đã từng dừng
 chân bên quán lạnh đường xa. Chung lối nhưng chẳng chung tình, vì đã có
 người mang nặng niềm tâm sự :
“Thềm vắng, đêm mưa, buồn da diết
Nghẹn ngào cô quạnh khóc ai đây”.
Tô Đông Pha
Một
 nỗi sầu man mác rơi xuống trong mưa, hòa tan những giọt lệ đau buồn 
mong bôi xóa những tâm sự đời người. Nghẹn ngào trong cô quạnh, khóc mà 
chẳng biết mình đang khóc ai! Khóc cho mình hay khóc cho người, hay khóc
 cho cuộc đời hẩm hiu bạc bẽo?
Chẳng có gì để tiếc nuối hay đau 
buồn, dù xuân có đến muộn màng vẫn là xuân, Thiền sư ngồi an nhiên nhìn 
xuân đến rồi xuân lại đi, bởi vì :
“Như kim khám khá đông hoàng diện
Thiền bản đồ hoàn khán trụy hồng"
Trần Nhân Tông
Hôm
 nay, diện mạo thật của mùa xuân đã hiển bày, nên ngồi trên nệm cỏ nhìn 
hoa rụng mà chẳng thấy xuân tàn, nhìn lá vàng rơi mà chẳng thấy mùa thu 
đến. Giữa trưa hè nóng bức hay trong đêm đông dài giá lạnh thì Thiền sư 
vẫn nhẹ nhàng dạo gót cõi phong trần.
Thiền sư là những nhà thơ 
siêu việt, là những lãng tử xuất trần. Bởi vì, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã 
tiêu dao Vui Thú Giang Hồ, dù cuộc đời nghiêng ngửa cũng chỉ là cơn gió 
thoảng qua :
“Tiểu đỉnh trường giang đãng dạng phù
Du dương trạo bát quá thang đầu
Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn
Trắc giác thu phong biến thập châu”
Đời
 người là một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh trong sóng cuộc trường giang. 
Nếu ai buông xuôi sẽ bị những cơn sóng gió của thất tình lục dục nhận 
chìm trong cảnh đời náo diệt. Đường sanh tử còn dài lắm, tuy đã biết 
quay đầu nhìn lại, vẫn thấy rằng bến Giác còn xa, nhưng dù đứng trước 
thác ghềnh vẫn du dương trạo bát. Mái chèo vẫn thảnh thơi đến vô tình, 
mặc dù đang chèo trong sóng thác mà hành giả đã đến bên bến bờ tự do.
Một
 tiếng nhạn trời đâu vẳng đến, bất giác thấy ngọn gió thu lành lạnh thổi
 mênh mông. Cảnh vật sao mà hoang sơ quá! Trong thơ như chứa đựng một 
cái gì man mác nhưng thật là tự nhiên. “Vui thú giang hồ” cũng là vui 
thú do cõi tử sinh, dù đứng trong thác ghềnh sinh tử nhưng thiền sư thật
 sự đã đến bờ bên kia. Đây là chất lãng mạn đến cực đỉnh của thơ Thiền.
Trong
 thi ca và Thiền học, một cánh hoa rơi là một đề tài lớn cho Thiền sư và
 Thi sĩ, bao nỗi niềm tâm sự của Thi sĩ đã gói trọn trong một cánh hoa 
rơi để trở thành những vần thơ nghiệt ngã.
Đạm đạm Trường giang thủy,
Du du viễn khách tình,
Lạc hoa tương dữ hận,
Đáo địa nhất vô thanh.
Những
 mối tâm tình của người viễn khách ngổn ngang như sóng nước Trường 
Giang, một đời trôi nổi trong giấc mộng hải hồ, Vi Thừa Khánh đâu biết 
tâm sự cùng ai, để rồi kết thúc như một đoá hoa rụng xuống vô tình. Đó 
là những gì còn lại sau một đoạn đường phiêu lãng hay sao. Qua đôi mắt 
của Thiền sư, một cánh hoa rơi cũng chứa chất đạo lý nhiệm mầu:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Đừng
 tưởng xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua sân trước một cành mai. Mùa xuân 
đâu có đến có đi, hoa cũng không có nở và tàn. Từ vọng thức mà sinh ra 
vọng niệm, bởi vậy mà chúng ta thấy có xuân đến rồi xuân lại đi, có hoa 
nở rồi hoa lại tàn.
Thật ra, mùa xuân chưa từng có và mùa xuân 
cũng là muôn thuở, chưa từng có đóa hoa cũng là tất cả. Vì tâm hoa đã nở
 nên dù vũ trụ xoay vần cũng không làm ngăn ngại bước tiêu dao.
Vậy
 đó, Thiền sư và Thi sĩ đều là những người đi tìm cuộc sống cho chính 
bản thân và tâm hồn mình. Họ gặp nhau trên các thắng cảnh kỳ diệu của 
Thi ca, nhưng lại vội chia tay vì không cùng hứng thú. Thi sĩ thì chỉ 
thích cái mờ mờ ảo ảo của màn sương để che phủ cuộc đời, vì chẳng muốn 
thấy những vết rạn nứt của thế giới đang trên đà hủy diệt.
Trong 
Thiền sư có chất Thi nhân, nhưng trong Thi sĩ chưa hẳn đã có chất Thiền.
 Vì sao? Vì Thiền sư vẫn làm thơ và sống rất là thơ, nhưng trong thơ đã 
phơi bày bản lai diện mục của các pháp trần sanh diệt, bởi vậy đối với 
Thiền sư thì Vạn sự đô lô nhập nhãn không. Tất cả đều như bỏ vào thùng 
không đáy. Nên Ngộ Ấn Thiền Sư trước khi viên tịch có nói bài kệ:
Diệu tánh hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấm vị cam.
Bản
 tánh hư vô của vạn pháp như hư không, không thể nắm bắt được. Chỉ có 
thể lấy cái tâm vô niệm mà giác ngộ thì không còn là khó nữa. Vì như 
ngọc đốt trên núi vẫn không thay đổi màu sắc, sen nở trong lò vẫn tươi 
màu. Đây là một hệ thống triết học Tam vi nhất thể của kinh Pháp Hoa, 
đồng thời là triết lý thực mà vị Thiền sư đã kinh qua và chứng nghiệm.
Đối
 với Thiền sư, Thi ca là một nhịp cầu nối để đi vào nhân thế, và chính 
đời sống Thiền đã là một bài thơ bất hủ. Thiền là những dấu chân siêu 
việt in trên bước đường thoát ly sanh tử.
Thích Thái Không - Phật Giáo Việt Nam