Vì vậy cho nên khi 
		nghiên cứu về văn thơ của cụ thì bắt buộc chúng ta phải biết về nhân 
		sinh của chính cụ và qua quan niệm khổ của Phật giáo. Theo giáo lý của 
		đức Đạo sư thì nền tảng căn bản của việc học Phật được đặt trên ba học 
		Giới-Định-Tuệ, cho nên Thiền định được coi như là một pháp môn tu học 
		chung cho cả hai thừa Đại và Tiểu trong việc hoàn thiện ba nghiệp 
		thân-khẩu-ý thanh tịnh để chấm dứt khổ đau mà đức Đạo sư đã căn cứ vào 
		những hiện tượng duyên khởi-hiện hữu-vô thường-biến dịch của nhân sinh 
		và vũ trụ mà xác nhận rằng: “Thế gian là giả tạm, bất toàn, trống rỗng, 
		là khổ”. Ngay đến những trạng thái mà người đời cho rằng hạnh phúc an 
		vui cũng luôn bị luật vô thường chi phối nên chúng chỉ là những trạng 
		thái có được giả tạm không thật hữu, nên chúng cũng thuộc về khổ. Do đó, 
		khổ bao gồm tất cả mọi ý nghĩa được quan niệm có được phát xuất từ ba 
		phương diện: Khổ-khổ (dukkha-dukkha), hoại-khổ (viparināma-dukkha), và 
		hành-khổ (samkhāra-dukkha) [ba phương diện này chúng tôi đã giải thích 
		trong phần dẫn nhập], bằng vào giải thoát khổ đau do ba nghiệp sinh ra, 
		khi hành giả đạt được giải thoát hoàn toàn khổ đau thì tự nhiên an lạc 
		hạnh phúc hiển bày. 
		
Và theo cái học của Thiền thì 
		gồm có: Thiền Thế gian, Thiền Tiểu thừa - Thiền Đại thừa (Như lai Thiền) 
		cuối cùng là Thiền của Tối thượng thừa (Tổ sư Thiền). Ba loại Thiền 
		trước được y cứ vào văn tự của kinh điển để học và thực tập, nhưng riêng 
		Tối thượng thừa Thiền thì không y cứ vào văn tự của kinh điển thông 
		thường mà chỉ tạm mượn những kinh nào khế hợp với căn cơ bén nhạy tạo ra 
		những nghi tình bất hợp lý đối với thế trí biện thông của thế gian, cộng 
		với những duyên sống để khai mở những vướng mắc của vô minh khổ đau cho 
		hành giả mà thôi, nên Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma đã chủ trương “Dĩ tâm truyền 
		tâm, bất lập văn tự.”  
		Ở đây Nguyễn Du tiên sinh cũng đã từng học Thiền và thực tập thiền qua 
		kinh Kim cương (một quyển Kinh mà Thiền tông Trung hoa mượn làm 
		duyên, để y cứ cho những người mới bước chân vào Tối thượng thừa Thiền 
		thực tập của Hoàng Mai ngũ tổ và, cũng nhờ Kinh Kim cương mà Tổ 
		Huệ Năng thành vị tổ sư thứ sáu của Thiền tông Trung hoa. 
		Nhưng vì sao tiên sinh đã từng thực tập Thiền bằng cách độc tụng tư duy 
		về kinh Kim cương hàng nghìn lần mà cũng vẫn chưa ngộ được chỗ 
		rốt ráo của kinh, trong khi chỉ qua cái nhìn lại “dưới chân đài phân 
		kinh” của Thái tử Lương Chiêu Minh xưa kia còn để lại, thì ngộ ra được 
		cái bổn lai diện mục rốt ráo của Kinh Kim Cương chính là “Vô Tự” 
		thị chân kinh (Tối thượng thừa Thiền)? Thật ra ở đây cụ Tiên Điền, nếu 
		trước đó đã không độc tụng hàng nghìn lần kinh Kim Cương thì chưa chắc 
		qua cái nhìn đó cụ có thể ngộ ra được chỗ rốt ráo của kinh được! Nhưng 
		chính nhờ đã huân tập hàng nghìn lần về nghi tình “Ưng vô sở trụ nhi 
		sinh kỳ tâm, 
		應無所住而生其心” 
		(nên sinh tâm mình vào nơi không có chỗ trụ). Vậy nơi nào là nơi không 
		có chỗ trụ? Đây chính là cái nghi tình được tạo ra bởi thiền 
		Công Án hay Tham Thoại Đầu của Tổ sư Thiền mà 
		cụ đã được huân tập kinh qua đến mức vừa đầy; bây giờ chỉ cần giọt nước 
		cuối cùng đổ vào nghi tình đó thì cái nghi tình đó sẽ bùng vỡ. Ở đây 
		chính cái nhìn lại “Dưới chân đài phân kinh” là giọt nước cuối cùng để 
		Tiên sinh ngộ ra được “Vô tự” chính là chân kinh, cũng chính là không 
		chỗ trụ. Giờ đây đích thị Nguyễn Du tiên sinh đã trở thành một Thiền sư. 
		Nhưng trước khi để trở thành một Thiền sư thì Nguyễn Du tiên sinh trước 
		đó cụ đã kinh qua những năm tháng dài độc tụng tư duy, nghiền ngẫm về 
		kinh Kim Cương, và trước đó nữa tuy chúng ta không biết được cụ đã học 
		tập những kinh sách nào được ghi lại qua văn thơ, nhưng qua tư tưởng 
		Phật giáo, mà cụ đã thể hiện trong văn thơ để lại ngoài truyện Kiều ra, 
		cho chúng ta thấy rằng Phật giáo Tiểu thừa đã ăn sâu vào trong tiềm thức 
		của cụ qua nhân quả báo ứng của mỗi cá thể được thay thế bởi 
		mệnh Trời, thể hiện tư tưởng nhân duyên sống 
		của nhân sinh, qua đó chúng bị luật vô thường luôn chi phối đổi thay. 
		Mệnh Trời ở trong truyện Kiều chỉ là một tiền đề được cụ nêu lên để đại 
		diện cho một quan niệm của Nho giáo, bằng vào nhân bản tính qua tác nhân 
		tạo nghiệp của con người theo luật tắc nhân quả báo ứng của Phật giáo mà 
		phủ định đi tính siêu hình Định mệnh hay Thiên mệnh của Nho giáo, điều 
		này nếu không muốn nói là điều sai lầm của Nho giáo mà cụ nhìn ra được. 
		(việc này chúng tôi sẽ bàn kỹ qua nghiên cứu truyện Kiều). 
		
1/ NGUYỄN DU VÀ CUỘC ĐỜI.
		
Qua tiểu sử của cụ, ngoại trừ mười năm của thời thơ 
		ấu an ổn sống trong vòng tay của mẹ và gia đình tại Thăng Long, nhưng 
		sau đó những biến cố cứ mãi dồn dập đổ lên đầu cậu bé Nguyễn Du: mười 
		tuổi cha mất, mười hai tuổi mẹ lại qua đời. Không gì bất hạnh và đoạn 
		trường hơn là làm đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ vào cái tuổi đang còn ham 
		chơi, đang cần chỗ nương tựa… và cũng từ đó bắt đầu cụ nếm mùi thăng 
		trầm khổ ải  tủi nhục trong nương nhờ ở tạm từ nơi này qua nơi khác và, 
		cũng luôn tùy thuộc vào sự thăng trầm của những người thân. Việc đổi 
		thay triều đại, việc lên voi xuống chó chỉ trong tích tắc và, những hậu 
		quả đầy khổ đau tất yếu theo sau qua chánh báo (cá nhân) cùng y báo (gia 
		đình-xã hội), đã nói lên được tính vô thường khổ đau luôn hiện hữu qua 
		cuộc sống nhân sinh và riêng cá nhân cụ. Hơn bốn mươi ba năm còn lại 
		trên cõi đời, trong khoảng thời gian này, ngoài mười năm giang hồ cát 
		bụi, sống xa mái ấm gia đình lúc nào cụ cũng mang một nỗi buồn đau rộng 
		lớn, thương mình, thương những người thân, thương cho những đồng loại 
		phải chịu đày đọa khổ cực. Cửa nhà tan nát đổi thay trong kiếp người bên 
		cạnh những đổi thay của ngoại cảnh thiên nhiên, thời thế loạn lạc chia 
		ly, kế sinh nhai mịt mờ phía trước, thân phận ăn đậu ở nhờ tủi cực khôn 
		nguôi, nỗi lo lắng luôn dằn vặt trong nếp tư duy suy nghĩ, đến nỗi mới 
		ba mươi tuổi trên đầu mà tóc trắng bạc phơ, tư tưởng muốn sống nơi vắng 
		vẻ vô sự cũng bắt đầu xuất hiện:
		
 … Hà năng lạc phát quy 
		lâm khứ,
		
Ngọa 
		thính tùng phong hưởng bán vân.
		
		何
		能
		落
		髮
		歸
		林
		去
		
		臥
		聽
		松
		風
		響
		半
		雲
		
		 (Tự thán II)
		
Dịch:
		
… Làm sao xuống tóc 
		về rừng ẩn,
		
Nằm 
		nghe tùng hát gió đưa mây.”
		
Tư tưởng muốn xuống tóc vào 
		rừng ở ẩn làm một người vô sự trước cuộc sống là một dấu hiệu tự quy 
		hướng vế chính mình để dọn đường cho việc nghiên cứu Phật pháp và thực 
		hành độc kinh Phật, trở thành một hành giả tu tập thiền sau này của cụ. 
		Tư tưởng này xuất hiện trong khoảng thời gian mười năm lưu lạc giang hồ 
		cát bụi đã hình thành qua những kinh nghiệm sống, kinh qua trong những 
		đắng cay khổ nhục của cuộc sống lưu đày rày đây mai đó của một thân lữ 
		thứ trên quê hương rộng mà không có nhà, có thể đây là thời gian từ năm 
		1786-1795. Sau mười năm lưu lạc giang hồ cụ đã trở về sống với núi rừng 
		dưới chân núi Hồng Lĩnh bên dòng Lam giang và, cuối cùng cũng không 
		tránh được phải ra làm quan với một thái độ bất đắc dĩ, để từ đó cụ ghi 
		lại cuộc đời mình qua những vần thơ chữ Hán đầy thương đau và buồn chán, 
		nghiệt ngã cho chính mình và tha nhân cùng xã hội. Những hình ảnh cụ ghi 
		lại qua thơ văn không ngoài cái quan niệm vô thường-khổ-không của Phật 
		giáo như trên chúng tôi đã trình bày đối với cuộc đời qua khổ-khổ, hoại 
		khổ, hành khổ, đầy ngậm ngùi đớn đau, đầy xúc động trong một cái nhìn 
		sâu xa từ hiện tượng đến bản chất của chúng. Cái nhìn tận căn đễ này 
		chính là cái nhìn chánh kiến của Phật giáo, từ mê qua ngộ. Khi là mê thì 
		các pháp trở thành pháp thế gian, pháp hữu lậu, pháp khổ đau; còn khi 
		chúng ta ngộ ra rồi thì các pháp này trở thành pháp xuất thế gian, pháp 
		vô lậu, pháp an vui giải thoát.
		
Từ một cậu bé tuổi vừa lên năm 
		đã theo gia đình về quê nội tại Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, dưới núi 
		Hồng Lĩnh, cạnh sông Lam, khi cha mình cáo lão từ quan về quê vào năm 
		Tân mão 171[4]. 
		Đây là dấu hiệu mở màn của bước chân đầu cho những bước phong trần khổ 
		ải sau này của cụ. Sau khi cậu bé Nguyễn Du theo cha và gia đình về quê 
		thì, năm năm sau người cha mất đi, và tiếp hai năm nữa là mất luôn cả 
		người mẹ thân yêu. Bây giờ cậu bé Nguyễn Du thật sự đã trở thành trẻ mồ 
		côi cả cha lẫn mẹ; mới mười hai tuổi đầu mà cậu bé phải chịu một nỗi mất 
		mát đớn đau đoạn trường đến thế thì cuộc đời của cậu sẽ ra sao sau này? 
		Đây là những kí ức được Nguyễn Du tiên sinh ghi lại khi nhớ lại ngày mới 
		bước chân về lại làng quê nội trên bến Giang Đình cùng cha mình và gia 
		đình, trong đó có cậu bé Nguyễn Du lúc 5 tuổi và, từ đó cho đến những 
		năm biến động sau này cho cả gia đình và cá nhân cậu bé. Những hình ảnh 
		đó và những biến động trong cuộc sống của gia đình sau này được cụ ghi 
		lại một cách tổng quát, nhưng chúng nói lên được cái quan niệm vô 
		thường-khổ đau của đạo Phật luôn hiện hữu trong cuộc sống và, chính cụ 
		là người đã trải qua và kinh nghiệm trong cuộc sống của chính mình, của 
		gia đình, của xã hội qua bài thơ Giang Đình hữu cảm:
		
Ức 
		tích ngô ông tạ lão thì,
		
		Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
		
		Tiên chu kích thủy thần long đấu,
		
		Bảo cái phù không thụy hạc phi.
		
		Nhất tự y thường vô mịch xứ,
		
		Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
		
		Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
		
		Cận nhật trường an đại dĩ phi.
		
		憶
		昔
		吾
		翁
		謝
		老
		時
		
		飄
		飄
		蒲
		駟
		此
		江
		湄
		
		仙
		舟
		激
		水
		神
		龍
		鬥
		
		寶
		蓋
		浮
		空
		瑞
		鶴
		飛
		
		一
		自
		衣
		裳
		無
		覓
		處
		
		兩
		隄
		煙
		草
		不
		勝
		悲
		
		百
		年
		多
		少
		傷
		心
		事
		
		近
		日
		長
		安
		大
		已
		非
		
		 (Giang Đình hữu cảm)
		
Dịch:
		
		Nhớ lúc xưa, cha ta cáo lão,
		
		Tấp nập ngựa xe bến sông này.
		
		Thuyền tiên rẽ nước rồng giao đấu,
		
		Lọng quý trên không hạc gieo lành.
		
		Từ khi xiêm áo không tìm thấy,
		
		Khói cỏ đôi bờ chịu bi thương.
		
		Cận nhật kinh thành nhiều khác lạ,
		
		Trăm năm nhiều ít chuyện thương tâm!
		
Qua bài thơ này Nguyễn Du tiên 
		sinh đã ghi lại những kí ức những cảnh tượng đã xảy ra khi cha cáo lão 
		từ quan về làng, khi mình còn là một cậu bé vừa lên năm nào ngựa xe trên 
		bến dưới thuyền, cờ lọng quý che phủ rợp trời cho đến khi áo xiêm lộng 
		lẫy không còn tìm thấy nữa và, những biến động gia đình xảy ra sau đó; 
		mọi việc vô thường đều đổi thay một cách nhanh chóng, từ hình thức trạng 
		thái tâm lý này đổi sang hình thức trạng thái tâm lý khác. Ngay đến khói 
		cỏ bên đôi bờ đê không còn xanh nữa mà đã theo lòng người bi thương 
		không kém và, những biến động khác thường nơi kinh đô cũng thay đổi. 
		Lòng người thay đổi, thế sự đổi thay. Từ những thay đổi này: nếu là lìa 
		xa những người chúng ta thương yêu quí mến như cha mẹ, anh chị em, bà 
		con quyến thuộc bạn bè và, những hoàn cảnh yêu thích của ta (thuộc về ái 
		biệt ly); cùng những gì mà chúng ta mong muốn đạt được: như mong cùng 
		chung sống với nhau, không chia lìa ngăn cách, nhưng chúng không thuận 
		tình với mong ước của chúng ta (thuộc về cầu bất đắc) thì, tất cả những 
		điều đó mang đến cho cá nhân Nguyễn Du tiên sinh và cả cho chúng ta 
		những điều đau khổ thương tâm hết. 
		
Trên là những nét chấm phá về 
		cuộc đời long đong chìm nổi khổ đau mà Nguyễn Du tiên sinh đã kinh qua 
		và nhìn thấy ngay trong cuộc sống của chính mình và tha nhơn trong xã 
		hội. Trước hết cá nhân tiên sinh đối với gia đình anh em họ hàng thân 
		thích và, nơi quê hương cố chủ; vì biến cố gia đình: cha mẹ mất sớm sau 
		đó mang đến tình trạng gia đình ly tán, thậm chí đến nơi ở cũng không 
		còn nữa. Ngay bản thân của Nguyễn Du tiên sinh phải cậy nhờ vào anh em 
		cùng những thân nhân khác mà sống lay lất qua ngày. Thời gian ly tán này 
		(ái biệt ly) là một thời gian tạo ra những biến động về tâm lý cho cậu 
		bé Nguyễn Du, một cảm thức đau khổ về nỗi chia ly và một mặc cảm ăn nhờ 
		ở đậu sinh ra đau buồn và hận cho chính thân mình không làm gì được 
		trong khi đầu đã bạc mà thời gian cứ qua đi:
		
… 
		Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
		
		Bạch đầu đa hận tuế thời thiên …
		
		鴻
		嶺
		無
		家
		兄
		弟
		散
		
		白
		頭
		多
		恨
		歲
		時
		遷
		
		 (Quỳnh Hải nguyên tiêu)
		
Dịch:
		
		… Hồng Lĩnh không nhà anh em vắng,
		
		Bạc đầu hận lắm tháng năm qua…
		
hay:
		
… 
		Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
		
		Bất kiến bình an nhất chỉ thự.
		
		故
		鄉
		弟
		妹
		音
		耗
		絕
		
		不
		見
		平
		安
		一
		紙
		書
		
		 (Sơn cư mạn hứng)
		
Dịch:
		
		… Đệ muội quê nhà bặt âm tín,
		
		Thư báo bình an chẳng thấy nào!  
		
Từ ly tán cửa nhà, anh em mỗi 
		người mỗi ngả theo sự thăng trầm của chánh báo và y báo, vì vậy tin tức 
		quê nhà và cả anh em cũng bặt vô âm tín. Đây là một thứ tình cảm mong 
		muốn được tin nhau, được gặp lại nhau mà không được nên mang bộ mặt “Cầu 
		bất đắc”, thì sẽ sinh ra khổ đau, từ đó:
		
… 
		Nhất phiền hương tâm thiềm ảnh hạ,
		
		Kinh niên biệt lệ nhạn thinh sơ…
		
		一
		片
		鄉
		心
		蟾
		影
		下
		
		經
		年
		別
		淚
		雁
		聲
		初
		
		 (Sơn cư mạn hứng)
		
Dịch:
		
		… Bao năm lệ biệt đầu tiếng nhạn
		
		Một tấm lòng quê nhớ dưới ánh trăng…
		
Hay:
		
… 
		Ky lữ đa niên đăng hạ lệ,
		
		Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm…
		
		羈
		旅
		多
		年
		燈
		下
		淚
		
		家
		鄉
		千
		里
		月
		中
		心
		
		 (Xuân dạ)
		
Dịch:
		
		… Bao năm làm khách đèn chong lệ,
		
		Nghìn dặm quê nhà trăng dõi tâm …
		
Lệ nhỏ dưới đèn, dưới trăng 
		biểu hiện hình ảnh cụ Nguyễn Du đang là người lữ khách sống nương nơi 
		quê người, một thân một mình cô độc vào những lúc nhớ nhà, nhớ quê, nhớ 
		người thân mà không được toại nguyện trong việc gặp lại nên phải âm thầm 
		chịu đựng nỗi dày vò thương nhớ khổ đau. Nó là hình ảnh giải tỏa nỗi nhớ 
		nhung khổ nhục qua giọt lệ âm thầm rơi dưới đèn dưới trăng; chỉ có đèn 
		và trăng là vật chứng giám nỗi niềm riêng tư cho lữ khách. Cho dù cụ lúc 
		nào cũng nghĩ nhớ đến quê nhà, nhưng không có cách nào để giải quyết nỗi 
		nhớ thương đó nên đành chấp nhận nó như chấp nhận nỗi bất hạnh của chính 
		mình:
		
… 
		Hành nhân hồi thủ xứ,
		
		Vô ná cố hương sầu.
		
		行
		人
		回
		首
		處
		
		無
		那
		故
		鄉
		愁
		
		 (Tái du Tam Điệp sơn)
		
Dịch:
		
		… Người đi quay đầu nhìn quê cũ,
		
		Đành vậy! thương sầu cố hương thôi.
		
Đành chấp nhận thân tàn xin 
		gởi quê người, vì thân xác này trở thành trở ngại cho việc đi đứng trở 
		về thăm quê, nhưng hồn người, tư tưởng người không phải là vật có chất 
		ngại nên tự do tự tại trong việc đi về thăm viếng cố hương. Đây cũng là 
		một hình thức để an ủi và chia sẻ làm vơi đi nỗi thương nhớ vì xa quê:
		
… 
		Đỗ vũ nhất thinh xuân khứ hỉ,
		
		Hồn hề quy lai bi cố hương.
		
		杜
		宇
		一
		聲
		春
		去
		矣
		
		魂
		兮
		歸
		來
		悲
		故
		鄉
		
		
		 (Ngẫu thư công quán bích I)
		
Dịch:
		
		… Một tiếng cuốc kêu xuân đã qua,
		
		Hồn ơi về lại, thương cố hương.
		
Và cứ như vậy nỗi thương nhớ 
		quê nhà cứ dày vò tâm hồn và thân xác cụ như vậy là mười năm trường, vẫn 
		là kẻ khách lữ phong trần tha phương cầu thực, sống bám nhờ vào người, 
		trong khi trên đầu tóc bạc lại bạc thêm:
		
		Thập tải phong trần khứ quốc xa,
		
		Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia…
		
		十 
		 載 
		 風 
		 塵 
		 去 
		 國 
		 賒
		
		蕭 
		 蕭 
		 白 
		 髮 
		 寄 
		 人 
		 家
		
		 (U cư II)
		
Dịch:
		
		Mười năm gió bụi quê xa cách,
		
		Tóc bạc phất phơ cậy nhà người…
		
Mười năm gió bụi khổ đau 
		thương nhớ cũng đủ đề cho cụ nhìn rõ ra được chân tướng của cuộc đời qua 
		khía cạnh “ái biệt ly” là khổ, “cầu bất đắc” là khổ. Đây chỉ mới là hai 
		khía cạnh của tám khía cạnh khổ theo đức Đạo sư đã dạy. Trong thời gian 
		mười năm giang hồ cát bụi và, những năm còn lại trên cõi đời cụ còn có 
		những nỗi khổ khác nữa được thể hiện qua trong cuộc sống như: Sống, già, 
		bệnh, tử, 
		oán thù đối mặt nhau, năm uẩn không đều hòa. Đây là những hiện tượng tất 
		yếu phải kinh qua của đời người cho bất cứ một cá nhân nào hiện hữu thì 
		phải bước qua và, chúng cũng trở thành những nguyên nhân đưa đến những 
		kết quả khổ đau khác trong cuộc đời mà cá nhân cụ và mọi người phải gánh 
		chịu: Hoàn cảnh loạn lạc của chiến tranh cũng đưa đến chia lìa chết chóc 
		người thân, tan nát nhà cửa về gia đình cũng như xã hội về mặt kinh tế, 
		chúng là hậu quả của “Oán tắng hội” sinh ra đau khổ đổ lệ u hoài cho 
		kiếp người:
		
… 
		Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
		
		Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư
		
		Ngư long lãnh lạc nhàn thu da,
		
		Bách chủng u hoài vị nhất sư.
		
		桑
		梓
		乒
		前
		千
		里
		淚
		
		親
		朋
		燈
		下
		數
		行
		書
		
		魚
		龍
		冷
		落
		閒
		秋
		夜
		
		百
		種
		幽
		懷
		未
		一
		攄
		
		 (Bát muộn)
		
Dịch:
		
		… Bà con dưới đèn vài tin nhắn,
		
		Quê nhà binh lửa, lệ rơi xa
		
		Đêm thu tịch mịch cá rồng lặng
		
		Trăm mối u hoài một chưa vơi.
		
Ai trong chúng ta không lo 
		không sợ cho những người thân yêu của mình trước cơn binh lửa nơi quê 
		nhà, khi chúng ta từ nghìn dặm xa không giúp gì được cho họ, chỉ biết 
		cầu nguyện và dùng nước mắt của mình để tạm vơi đi niềm đau khổ đang dày 
		vò; trong khi đó cụ ở xa quê cũng phải kiên dè và sợ sệt lẫn nhau khi ở 
		quê người.
		
… 
		Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
		
		Loạn thế toàn sinh cửu úy nhơn …
		
		異
		鄉
		養
		拙
		初
		防
		俗
		
		亂
		世
		全
		生
		久
		畏
		人
		
		 (U cư I)
		
Dịch:
		
		… Quê người tỏ vụng phòng thế tục,
		
		Đời loạn luôn sanh sợ mọi người…
		
Đây là một kế sống an toàn 
		dành cho những nạn nhân tha hương của thời thế loạn lạc, kẻo không vô 
		tình sẽ làm đối tượng cho mọi sự đối đầu thù địch nghi ngờ. Hay chiến 
		tranh loạn lạc cũng có thể đưa người về cõi chết hay tù tội, điều đó 
		chúng ta không thể nào lường trước được. Ngay bản thân cụ Tiên điền 
		Nguyễn Du cũng là nạn nhân của tù tội do oán ghét chế độ Tây sơn đang 
		hiện hữu trước mắt cụ vào lúc bấy giờ mà ra:
		
… 
		Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
		
		Thập tuần lao ngục tử sinh tâm …
		
		四
		海
		風
		塵
		家
		國
		淚
		
		十
		旬
		牢
		獄
		死
		生
		心
		
		 (Mỵ trung mạn hứng)
		
dịch:
		
		Gió bụi khởi khắp nơi, lệ nước nhà,
		
		Lao ngục mười tuần, lòng lo sống chết...
		
Chỉ có ngục tù Nguyễn Du tiên 
		sinh mới có đủ thời gian để ngồi tư duy suy nghĩ về nỗi sống chết. Con 
		người thì ai cũng có tâm lý ham sống sợ chết, đó là một thứ tâm lý bình 
		thường, nhưng đối với cụ vì một chút tâm sự không biết ngõ cùng ai, vì 
		nó sâu thẳm như dòng Quế giang dưới chân núi Hồng Lĩnh, đó chính là nỗi 
		khổ tâm của cụ:
		
… 
		Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
		
		Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.
		
		我
		有
		寸
		心
		無
		與
		語
		
		鴻
		山
		山
		下
		桂
		江
		深
		
		 (Mỵ trung mạn hứng)
		
Dịch:
		
		Ta có tấc lòng không biết bày tỏ cùng ai,
		
		Vì nó sâu thẳm như sông Lam dưới núi Hồng. 
		
Tấc lòng sâu thẳm như thế nào 
		mà không biết đem nó ra để bày tỏ cùng ai? Cái sâu thẳm ở đây vì nguy 
		hiểm khó nói ra, hay là cái sâu thẳm không ai dò biết được như đáy dòng 
		sông Lam dưới núi Hồng? Ở đây đối với cụ Nguyễn Du chúng ta có thể hiểu 
		theo nghĩa nào cũng được, vì hiện thực một nghĩa và cũng có thế: “Bất 
		tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Đó là những nỗi 
		đau của riêng cá nhân cụ Nguyễn Du; nhưng cũng có thể là nỗi đau chung 
		của mọi người qua kiếp người. Thật ra cuộc đời đâu chỉ giới hạn trong 
		những trạng huống có thể gây ra đau khổ như vậy đâu (nhơn tai), mà còn 
		nữa: Nào là cái đau khổ vì thiên nhiên (thiên tai) có thể ập đến cho 
		chúng ta bất cứ giờ phút nào: 
		
… 
		Cố hương cang hạn cửu phương nông,
		
		Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng …
		
		故
		鄉
		亢
		旱
		久
		妨
		農
		
		十
		口
		孩
		兒
		菜
		色
		同
		
		 (Ngẫu hứng IV)
		
Dịch:
		
		… Cố hương hạn hán hại nhà nông,
		
		Mười đứa con thơ mặt xanh rờn…
		
Một thân một mình nơi tha 
		hương đất khách, nhưng cụ vẫn canh cánh bên lòng về mười đứa con thơ tại 
		quê nhà lâm vào thiên tai hạn hán mất mùa, không đủ cái ăn cái mặt, thân 
		thể xanh như lá rau, không sắc tố hồng cầu do thiếu ăn. Và có gì đau khổ 
		lo lắng hơn khi thân đang mang bệnh nặng nằm liệt giường, còn phải lo 
		cái ăn cho mười miệng trẻ đang đói chờ ăn từ nơi quê nhà đang réo gọi 
		nữa! 
		
… 
		Thập khẩu đề cơ hoành lĩnh bắc,
		
		Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông …
		
		十
		口
		啼
		饑
		橫
		嶺
		北
		
		一
		身
		臥
		病
		帝
		城
		東
		
		 (Ngẫu đề)
		
Dịch:
		
		… Mười miệng đòi ăn, bắc hoành sơn,
		
		Một thân nằm bệnh, đông kinh thành …
		
Một thân một mình nơi đất 
		khách lại bị bệnh, người thân không có, bạn bè mới nơi ở cũng không 
		nhiều nên đành âm thầm chịu đựng với con bệnh cũ dằn dai, cô đơn buồn 
		khổ trong những ngày xuân:
		
		Trường đồ nhựt mộ tân du thiểu,
		
		Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa…
		
		長
		途
		日
		暮
		新
		遊
		少
		
		一
		室
		春
		寒
		舊
		病
		多
		
		 (U cư II)
		
Dịch:
		
		Đường dài chiều tối, bạn mới ít,
		
		Xuân lạnh một nhà bệnh cũ mang…
		
Trong khi sống nơi đất khách 
		quê người thân thì nhiều bệnh tật, tâm thì lúc nào cũng buồn bực, nhưng 
		khi cụ đã về lại quê nhà rồi mà bệnh tật càng ngày càng tăng chứ không 
		giảm và nỗi buồn đau cũng theo đó mà tăng thêm, càng ngày bệnh càng trầm 
		trọng hơn:
		
Đa 
		bệnh đa sầu khí bất thư,
		
		Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư …
		
		多
		病
		多
		愁
		氣
		不
		舒
		
		十
		旬
		困
		臥
		桂
		江
		居
		
		 (Ngọa bệnh I)
		
Dịch:
		
		Mười tuần nằm khổ bên sông Quế
		
		Nhiều bệnh nhiều sầu khí chẳng thông…
		
Không có buồn nào bằng cái 
		buồn người bị bệnh nặng mà không người chăm sóc hỏi han và, như vậy bệnh 
		càng nặng hơn. Nhiều lúc buồn quá cụ Nguyễn Du phải nghĩ đến làm sao tìm 
		loại thuốc tiên nào để cụ uống cho mau lành bệnh, hoặc xin thấy được ánh 
		sáng vi diệu hiển hiện chiếu xuống cõi trần gian phá tan màng u ám cho 
		nhân loại được nhờ:
		
… 
		Thập niên túc tật vô nhân vấn,
		
		Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm.
		
		An đắc huyền quang minh nguyệt hiện,
		
		Dương quang hạ chiếu phá quần âm.
		
		十
		年
		夙
		疾
		無
		人
		問
		
		九
		轉
		還
		丹
		何
		處
		尋
		
		安
		得
		玄
		關
		明
		月
		見
		
		陽
		光
		下
		照
		破
		群
		陰
		
		 (Ngọa bệnh II)
		
Dịch:
		
		Mười năm tật bệnh không người hỏi,
		
		Tìm đâu thuốc tiên luyện chín lần?
		
		Mong hiện ánh sáng trăng mầu nhiệm,
		
		Ánh dương chiếu xuống phá quần âm.
		
Qua những bài thơ trích đoạn ở 
		trên, chúng tôi chỉ trích ra một ít trong những số bài thơ chữ Hán được 
		cụ Nguyễn Du gởi gắm tâm sự của mình vào những khổ đau buồn thương nỗi 
		nhớ mà cụ đã trải qua trong những biến động của gia đình trong loạn lạc 
		chia ly, nhà tan cửa nát, con thơ nheo nhóc đói khổ, thiên tai hạn hán, 
		chiến tranh, tù tội, tật bệnh vây quanh suốt kiếp người cụ Nguyễn Du 
		cũng như mọi người trong chúng ta. Chúng là những nguyên nhân đưa đến 
		khổ đau cho nhân thế. Ở đây là những nguyên nhân trực tiếp giáng xuống 
		đầu người, chúng có thể nhìn thấy rõ được:
		
		Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
		
		Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
		
		Xuân lan thu cúc thành hư sự,
		
		Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.
		
		壯
		士
		白頭
		悲
		向ẻ
		天
		
		雄
		心
		生
		計
		兩
		茫
		然
		
		春
		蘭
		秋
		菊
		成
		虛
		事
		
		夏
		暑
		冬
		寒奪
		少
		年
		
		 (tạp thi I)
		
Dịch:
		
		Nhìn trời tráng sĩ buồn đầu bạc,  
		
		Kế sống, hùng tâm vẫn mịt mờ.
		
		Xuân lan thu cúc thành chuyện huyễn,
		
		Hạ nóng đông hàn cướp tuổi hoa. 
		
Những điều đó cụ Nguyễn Du 
		cũng không ngoài ngoại lệ. Cụ buồn đau vì chí lớn, kế sống riêng cá nhân 
		mình vẫn còn mờ mịt, cộng thêm gia đình ly tán mỗi người vì miếng cơm 
		manh áo mà phải lầm than phiêu bạc khắp nơi nên đầu đã bạc lại bạc thêm. 
		Đây là những điều mà chính Nguyễn Du tiên sinh đã đang kinh qua và chứng 
		kiến trong chính cuộc đời của cụ, nỗi khổ đau buồn lo đến đỗi mới ba 
		mươi tuổi mà đầu đã bạc trắng, trong khi công danh sự nghiệp chưa thành 
		qua bài thơ “tự thán” cụ viết;
		
		Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
		
		Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.
		
		生
		未
		成
		名
		身
		已
		衰
		
		蕭
		蕭
		白
		髮
		暮
		風
		吹
		
		 (Tự thán I)
		
Dịch:
		
		Sống chưa thành danh thân đã suy
		
		Lưa thưa tóc bạc gió chiều lay.
		
Chính vô thường mang lại cho 
		chúng ta cái khổ đau. Qua đó, vì tâm tư ý nghĩ vô thường luôn luôn thay 
		đổi (tâm vô thường), vì hoàn cảnh hiện tượng, vật chất chung quanh cuộc 
		sống chúng ta vô thường luôn thay đổi (vật vô thường) chúng ta không giữ 
		được, nên sinh ra đau khổ cho mọi người như chúng ta đã thấy qua những 
		lời dạy của đức Đạo sư. Nguyễn Du tiên sinh thời gian nương nhờ nơi 
		Quỳnh Hải, Cụ đau lòng khi nhìn đám cỏ xanh nơi quê người khi mùa xuân 
		đến mà liên tưởng nhớ về Nam Phổ, nhìn nụ hàn mai mà nghĩ đến mùa xuân 
		qua bài Xuân nhật ngẫu hứng.
		
… 
		Nam phố thương tâm khan lục thảo,
		
		Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai ...
		
		南
		浦
		傷
		心
		看
		綠
		草
		
		東
		皇
		生
		意
		漏
		寒
		梅
		
		 (Xuân nhật ngẫu hứng)
		
Dịch:
		
		Nhìn cỏ xanh thương tâm Nam Phổ,
		
		Nhú mai vàng chớm ý Đông Quân…
		
Nhưng còn những nguyên nhân 
		gián tiếp mà chúng ta trong nhất thời khó hình dung ra được, đối với Cụ, 
		Cụ nhìn thấy tất cả từ hiện tượng bên ngoài đến bản chất bên trong, đó 
		chính là vô thường biến hoại, là thủ phạm chính cho mọi bất toàn trong 
		cuộc sống của chúng ta, tạo ra không biết bao nhiêu là khổ nạn cho kiếp 
		người: 
		
… 
		Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
		
		Hình thế không lưu bách chiến danh.
		
		Mạc hướng thanh hoa thôn khẩu vọng,
		
		Điệp sơn bất cải cựu thời thanh.
		
		古
		今
		未
		見
		千
		年
		國
		
		形
		勢
		空
		留
		百
		戰
		名
		
		莫
		向
		清
		華
		村
		口
		望
		
		疊
		山
		不
		改
		舊
		時
		青
		
		 (Vị Hoàng doanh)
		
Dịch:
		
		Nước nghìn năm xưa nay chưa thấy,
		
		Hình thể mất, còn danh trăm trận.
		
		Đừng ngóng nhìn thôn Thanh Hoa nữa,
		
		Điệp sơn như ngày nào vẫn xanh.
		
Triều đại nào tồn tại nghìn 
		năm chúng ta chưa thấy! Ngay đến doanh trại Vị Hoàng ngày xưa là nơi 
		đóng quân trấn giữ đời nhà Lê; nhưng nay hình thể quân trại không còn 
		nữa, mà chỉ còn trên cái danh là nơi xưa kia đã từng xảy ra trăm trận 
		chiến thôi. Đừng nhìn những cảnh đổi thay đó nữa mà hãy nhìn rặng Điệp 
		sơn vẫn còn xanh như ngày nào! Bản chất của màu xanh thì không bao giờ 
		thay đổi, nhưng chỉ thay đổi nơi hiện tượng hình dáng bên ngoài thôi. 
		Cũng giống như Triều đại thì có thể thay vua đổi chúa, thay đổi chế độ, 
		chứ còn dân tộc đất nước thì muôn đời không đổi vì nó là bản chất. Trong 
		cuộc sống có những thay đổi bình thường về hình thức chúng ta thấy được, 
		nhưng cũng có những biến đổi tinh thần chúng ta không nhìn thấy được, vì 
		nó thuộc về vô hình. Còn hiện tượng thì luôn tùy thuộc vào thời gian mà 
		thay đổi như:
		
		Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
		
		Môn yềm tà phi nhất viện bần.
		
		Trú cửu đốn vong thân thị khách,
		
		Niên thâm cánh giác lão tùy thân…
		
		桃
		花
		桃
		葉
		落
		紛
		紛
		
		門
		掩
		斜
		扉
		一
		院
		貧
		
		住
		久
		頓
		忘
		身
		是
		客
		
		年
		深
		更
		覺
		老
		隨
		身
		
		 (U cư I)
		
Dịch:
		
		Hoa lá cây đào rơi lác đát,
		
		Nhà nghèo cổng đóng cửa liêu xiêu.
		
		Ở lâu quên hẵn mình là khách,
		
		Năm tháng càng qua thân càng già…
		
Những hiện tượng như lá đào 
		hoa đào, cổng đóng, cửa liêu xiêu chúng ta có thể dùng mắt để thấy được 
		cái thay đổi của nó; nhưng thời gian qua đi thì chúng ta khó mà hình 
		dung được sự thay đổi này trong nguyên nhân, mà chỉ nhìn được qua kết 
		quả của nó chúng ta mới nhận thấy được sự thay đổi của chúng. Thời gian 
		vô thường đã tác hại và biến hoại tất cả từ con người đến mọi vật xung 
		quanh trong cuộc sống, không gì là không bị lệ thuộc vào chúng: Hoa lá 
		cây trái, nhà cửa, thân người nói chung là chỉ cho vật chất vật lý v.v… 
		không gì không bị biến hoại thay đổi:
		
		Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
		
		Bách niên thành phủ bán hoang khư…
		
		十
		載
		塵
		埃
		暗
		玉
		除
		
		百
		年
		城
		府
		半
		荒
		墟
		
		 (Bát muộn)
		
Dịch:
		
		Mười năm bụi phủ mờ thềm ngọc,
		
		Thành quách trăm năm nửa hoang tàn...
		
Hay:
		
		…Thành quách suy di nhận sự cải,
		
		Kỷ xứ tang điền biến thương hải…
		
		城
		郭
		推
		移
		人
		事
		改
		
		幾
		處
		桑
		田
		變
		滄
		海
		
		 (Long Thành cầm giả ca)
		
Dịch:
		
		Thành quách đổi thay việc người đổi,
		
		Bao cảnh ruộng dâu biến biển khơi…
		
Vô thường biến đổi luôn tạo ra 
		những cú sốc đau cho những người cố chấp luôn muốn sở hữu mọi thứ về cho 
		mình, cho bản ngã, cho cái ta trường tồn bất diệt mà nuôi lớn lòng tham 
		lam, sân hận, si mê; biến chúng ta thành những kẻ nô lệ cho chúng mà đẻ 
		ra không biết là bao nhiêu đau khổ đắng cay cho chúng ta, nhưng cuối 
		cùng chúng ta sẽ được gì khi chúng ta nhắm mắt buông tay, cũng chỉ hai 
		bàn tay trắng. Nguyễn Du tiên sinh đã nhìn ra được bản chất của mọi sự 
		vật là vô thường mang đến khổ đau nên đã khuyên chúng ta: 
		
Cổ 
		thời minh nguyệt chiếu tân thành,
		
		Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
		
		Cù hạn tứ khai mê cựu tích,
		
		Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
		
		Thiên niên phú quý cung tranh đoạt,
		
		Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
		
		Thế sự phù trầm hưu thán tích,
		
		Tự gia đầu bạch diệt tinh tinh.
		
		古
		時
		明
		月
		照
		新
		城
		
		由
		是
		昇
		龍
		舊
		帝
		京
		
		衢
		巷
		四
		開
		迷
		舊
		跡
		
		管 弦 一 變 雜 
		新 聲
		
		千 年 富 貴 供 爭 奪
		
		早 歲 親 朋 半 死 生
		
		世 事 浮 沈 休 嘆 息
		
		自 家 頭 白 亦 星 星
		
		(Thăng Long 2) 
		
Quách Tấn dịch:
		
		Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
		
		Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô
		
		Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
		
		Ðiệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
		
		Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
		
		Bạn bè lớp trước sống lưa thưa
		
		Nổi chìm thế sự đừng tham nữa
		
		Mái tóc mình đây cũng bạc phơ. 
		
Danh lợi quyền lực là những 
		món mồi khá hấp dẫn đối với những ai ham danh lợi và quyền lực; rốt cuộc 
		những thứ đó cuối cùng cũng để nuôi lớn lòng tham lợi, tham danh, tham 
		quyền lực nuôi lớn bản ngã chúng ta mà thôi. Nhưng có ai trong chúng ta 
		được cái này rồi mà không muốn đạt được cái nhiều hơn, cao hơn để bỏ đầy 
		túi tham của mình không? Tâm lý thông thường của chúng ta là “được voi 
		đòi tiên,” hay “đứng núi này trông núi nọ”, cũng với mục đích là để thỏa 
		mãn lòng tham danh, tham lợi, muốn biến mọi vật chung quanh thuộc về sở 
		hữu cá nhân mình, gia đình mình… Nhưng càng chạy theo nó thì những khổ 
		nhọc cay đắng càng theo sau, và những oán đối cũng tùy theo đó mà hình 
		thành nghiệp nhân oán đối với tha nhân theo sau đó. Chúng ta còn được gì 
		sau khi nhắm mắt xuôi tay? Cũng chỉ:
		
… 
		Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu,
		
		Cổ mộ hoàn lương tam xích thu…
		
		伯
		圖
		泯
		滅
		千
		年
		後 
		
		古
		墓
		荒
		涼
		三
		尺
		秋
		
		(Á phụ mộ)
		
Dịch:
		
		Mộ xưa ba thước thu cỏ lạnh
		
		Nghiệp bá tan tành sau nghìn năm. 
		
		
Theo Nguyễn Du tiên sinh thì, 
		sự nghiệp đồ vương cũng tan tành theo mây khói nghìn năm sau, xác thân 
		nằm dưới ba thước đất, cỏ lạnh úa tàn bao phủ mùa thu chỉ còn lại là một 
		nấm mồ cổ, nhiều khi không người coi sóc hoang phế điêu tàn, không một 
		ai thấy mà không khởi lên tấm lòng hoài cổ thương tâm, đối với những đổi 
		thay biến hoại của những vật thể có hình thì có hoại diệt, không có gì 
		tồn tại mãi trên thế gian này. Tuy chúng tạo cho mọi người trong chúng 
		ta những cú sốc, những vết thương lòng nhức nhối, những nỗi đau khổ 
		triền miên; nhưng chúng ta phải nhìn lại chính chúng ta đã làm được gì 
		trước định luật vô thường biến đổi luôn luôn đó, trong khi mỗi ngày qua 
		đi tóc trên đầu chúng ta lại bạc thêm giỏi lắm cũng chỉ đến trăm năm!:
		
… 
		Thế sự phù trầm hưu thán tức,
		
Tự gia đầu bạch 
		diệc tinh tinh.
		
		世
		事
		浮
		沈
		休
		嘆
		息
		
		自
		家
		頭
		白
		亦
		星
		星
		
		 (Thăng Long II)
		
Dịch:
		
… 
		Thôi đừng than thở chuyện đời chìm nổi,
		
		Tóc đầu mình từng sợi bạc phơ.
		
Cũng cái nhìn lại chính mình 
		này đã cảnh tỉnh được chính cụ trong cuộc sống tang thương đầy khổ cực 
		này. Cho dù cái khổ về vật chất hay tinh thần đến đâu đi nữa cũng không 
		làm cho cụ biến được bản chất chính con người cụ:
		
… 
		Phong trần đội lý lưu bì cốt
		
Khách chẩm tiêu 
		tiêu lưỡng mấn bồng.
		
		風
		塵
		隊
		裏
		留
		皮
		骨
		
		客
		枕
		蕭
		蕭
		兩
		鬢
		蓬
		
 (Trệ khách)
		
Dịch:
		
… 
		Tóc rối hai màu bơ phờ, gối khách 
		
Vẫn giữ thân 
		trong gió bụi muôn ngàn. 
		
Sở dĩ Nguyễn Du tiên sinh đã 
		giữ được thân mình trong cát bụi phong ba là chính nhờ vào cụ có một cái 
		nhìn tinh tế và sâu thẳm đối với cuộc đời cũng như đối với các sự vật 
		chung quanh cuộc sống, đó là cái nhìn trong vô thường bến dịch vẫn còn 
		có cái thường còn không biến đổi, nó chính là bản thể của sự vật. Tuy 
		mọi hiện tượng bên ngoài của sự vật luôn bị vô thường biến khác nhưng 
		bản chất của chúng vẫn trường tồn trong cái không trường tồn. Chúng vẫn 
		trong sáng như ngày nào, chúng vẫn xanh như ngày nào, chúng vẫn hồng như 
		mọi buổi chiều ráng hạ, chỉ có sắc màu (của ráng chiều thì lúc nào cũng 
		màu hồng, lá của cây rừng thì lúc nào cũng là một màu xanh, ánh sáng mặt 
		trời mặt trăng vẫn sáng như ngày nào) là không đổi:
		
Vô 
		cùng kim cổ thương tâm xứ
		
		Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.
		
		無窮今古傷心處 
		
		依舊青山夕照紅
		
		(Mạn hứng II)
		
Dịch:
		
		Điều thương tâm xưa nay vô cùng tận
		
		Núi biếc như xưa chiều chiếu ráng hồng.
		
2/ NGUYỄN DU VÀ PHẬT GIÁO.
		
Đọc qua thơ chữ Hán của cụ 
		Nguyễn Du chúng ta gặp những bài thơ Cụ thường nói đến, trong vô thường 
		biến hoại luôn có cái thường còn bất biến mà đạo Phật thường gọi là “Vô 
		thường tức thị thường”. Qua hai câu thơ trên Nguyễn Du tiên sinh cho 
		chúng ta thấy rằng trong vô thường biến hoại của hiện tượng giới của sự 
		vật theo nhân quả luôn luôn có sự hiện hữu của thường tồn bất biến của 
		bản thể sự vật đó chính là thật thể: Như vầng trăng sáng không bao giờ 
		thay đổi bất cứ nơi đâu bất cứ thời đại nào, lúc nào nó cũng sáng như 
		màu nguyên thỉ; hay lá cây xanh, ráng chiều hồng cũng là những hình ảnh 
		của những ẩn dụ cho những chân lý bất biến theo giáo lý Tiểu thừa giáo 
		nhà Phật, hay:
		
… 
		Ðạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt
		
		Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn…
		
		達
		人
		心
		境
		光
		如
		月
		
		處
		仕
		門
		前
		青
		假
		山
		
		(Tạp ngâm 2)
		
Dịch:
		
		Tấm lòng đạt nhân vầng trăng sáng,
		
		Trước nhà ẩn sĩ núi giả, xanh.
		
Chính nhờ có cái nhìn muôn vật 
		giữa cuộc đời này nó mang ý nghĩa “Vô thường tức thị thường” của Phật 
		giáo nên cụ Nguyễn Du cho dù lúc nào cũng sống trong khổ đau của cuộc 
		đời mà cụ vẫn không bị cuộc đời quật ngã, vẫn hiên ngang sống. Người đạt 
		đạo, nhà ẩn sĩ được cụ Nguyễn Du đem sánh với vầng trăng sáng, với màu 
		xanh của núi xanh là những hình ảnh cụ lấy làm ẩn dụ cho chân lý, cho 
		tấm lòng trong sáng của ý đạo mà theo thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo 
		gọi là: “Tâm vô phân biệt”  là “Chân tâm” là “Tâm vô sự”. 
		
Từ cái nhìn đạt lý này, đã đưa 
		cụ về với Phật một cách tự nguyện và tự biến mình thành hành giả tu tập 
		thiền định sau này. Qua mười năm biến động xa quê nhà, những gì mà cụ đã 
		kinh qua trong đau thương tiếc nhớ khi lăn lóc giữa cát bụi phong ba của 
		cuộc đời: Một mặt dù cụ nhìn thấy rõ bộ mặt thật của cuộc đời trong khổ 
		đau qua vô thường-khổ-không theo quan điểm của Phật giáo và mặt khác 
		cũng từ đây cụ đâm ra không thích sống với đời nữa, muốn xuống tóc vào 
		rừng ẩn tu làm người vô sự và, cũng từ đó cụ quyết tâm học Phật và thực 
		hành trong tu tập như trong bài Đề Nhị Thanh động:
		
… 
		Mãn cảnh giai không hà hữu tướng…
		
		滿境皆空何有相
		
		(Đề Nhị Thanh động)
		
Dịch:
		
		… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
		
Trước hết, từ khi cụ nhìn ra 
		được hiện tượng và bản chất của mọi sự vật trên cõi đời này rồi thì, tư 
		tưởng muốn xuống tóc ẩn tu làm người vô sự đã đưa cụ đến việc học Phật 
		và thực hành theo những lời Phật dạy tùy căn cơ có được của mình. Thật 
		ra ở đây không ai biết được cụ đã học Phật từ bao giờ và học ở đâu? để 
		đẻ ra cái kết quả là cụ đã trở thành một hành giả tu tập Thiền, để có 
		thời gian huân tập và ngộ đạo qua bài thơ: “Lương Chiêu Minh Thái tử 
		phân kinh thạch đài” nhân chuyến làm sứ đi Trung Quốc. Việc học kinh 
		Phật cũng giống như cụ đã học Nho giáo vậy. Không biết cụ học Nho giáo 
		vào lúc nào và học những kinh sách nào, học ở nơi đâu? Với cuộc đời năm 
		chìm bảy nổi lênh đênh từ nơi này đến nơi khác, lo toan vì miếng cơm 
		manh áo cũng đủ đứt hơi rồi huống chi là học hành; thế mà theo như tiểu 
		sử của cụ cho chúng ta biết rằng cụ đã từng đi thi và đỗ tam trường 
		trong một kỳ thi Hương và sau đó cụ không đi thi tiếp nữa! Thì việc học 
		Phật của cụ cũng vậy, chỉ biết qua bài thơ chính cụ làm ra qua bài 
		“Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” Như vậy cụ đã tập Thiền 
		Công án qua hàng nghìn lần đọc tụng về Kinh Kim Cương và cũng đã 
		ngộ được bản Kinh này qua “Vô tự” thị chân kinh. Theo chúng tôi nghĩ thì 
		có thể cụ bắt đầu học Phật khoảng thời gian từ 1786-1795, đây là khoảng 
		thời gian mười năm giang hồ gió bụi của cụ. Vì bài thơ cụ làm ra để tỏ 
		tâm sự chán đời muốn xuống tóc vào rừng ẩn tu cũng trong khoảng thời 
		gian này.
		
… 
		Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
		
		Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.
		
		何
		能
		落
		髮
		歸
		林
		去
		
		臥
		聽
		松
		風
		響
		半
		雲
		
		(Tự thán II)
		
Dịch:
		
		… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
		
		Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.
		
Có lẽ đây là giai đoạn quyết 
		định chuyển mình cho một bước đi mới sau này của cụ. Theo chúng tôi 
		trong hiện tại hoặc sau này, việc cụ không tiếp tục theo đuổi con đường 
		thi cử để thực hiện “chí cỡi mây” của mình theo cái học của Nho gia vào 
		lúc bấy giờ, như bài thơ người anh ruột Nguyễn Nễ gởi cho cụ khi cụ còn 
		lưu lạc, trong đó có câu: “tự hữu lăng vân chí” 
		(Người vốn có chí cỡi mây) có hai lý do: Thứ nhất 
		nhờ cụ đã nhìn rõ được cả hai bộ mặt thật của hiện tượng (vô thường-khổ 
		đau) cùng bản chất của mọi sự vật là không, do nhân duyên hòa hợp mà 
		hiện hữu ở trên đời này nên đã quyết định không tiếp tục con đường khoa 
		hoạn nữa. Thứ hai có lẽ cụ không muốn cộng tác với triều đình Tây Sơn 
		nên không tiếp tục ra thi cử nữa. Dù là lý do nào đi nữa thì đây vẫn là 
		quyết định không muốn “cỡi mây” nữa mà muốn làm người vô sự: “nằm nghe 
		tùng hát gió đưa mây”. Từ đây cuộc đời của cụ cũng bắt đầu chuyển đổi 
		cho việc học Phật và thực hành sống theo nếp sống vô sự của Phật, vì cụ 
		đã nhận thức rằng:
		
		Trướng vọng hồng trần diễu vô tế 
		
		Bất tri nhật nhật thử trung hành. 
		
		悵
		望
		紅
		塵
		渺
		無
		際 
		
		不
		知
		日
		日
		此
		中
		行
		
		(Từ Châu Đê Thượng Vọng)
		
Dịch:
		
		Trông xuống bụi hồng xa mờ mịt
		
		Sớm chiều trong đó bước quẩn quanh. 
		
		
Vì lợi danh quyền lực cuối 
		cùng cũng chỉ mang đến khổ đau và trói buộc chân chúng ta vào vòng dây 
		oan nghiệt chạy quanh suốt đời mãn kiếp trong chốn hồng trần không bao 
		giờ thoát ra khỏi được chúng; chỉ vì chúng ta không biết bước đi như thế 
		nào để mang đến sự giải thoát khổ đau của vòng luân hồi lẩn quẫn đó. Giờ 
		đây cụ quyết theo bước đi vô sự như một vị Tăng an nhiên thả giấc ngủ 
		dưới những làn mây cô đọng chung quanh giấc cô miên lãng đãng trong rừng 
		núi hoang vu vắng vẻ. Một cảnh quan biểu hiện lên sắc thái tự tại thong 
		dong trong cuộc sống:
		
… 
		Đình vân xứ xứ tăng miên định 
		
		Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai 
		
		Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp 
		
		Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai. 
		
		停
		雲
		處
		處
		僧
		眠
		定 
		
		落
		口
		山
		山
		猿
		咡
		哀 
		
		一
		炷
		檀
		香
		消
		慧
		業
		
 回
		頭
		已
		隔
		萬
		重
		崖
		
		(Vọng Quan Âm miếu)
		
Dịch:
		
		Mây đọng nơi nơi Thầy an giấc, 
		
		Chiều xuống non non vượn kêu thương. 
		
		
		Ðốt nén hương đàn tiêu nghiệp tuệ, 
		
		
		Quay đầu đã cách vạn trùng nhai. 
		
Ở đây chỉ cần biết quay đầu 
		lại là bờ giấc ngộ giải thoát, chúng cách xa bờ sinh tử luân hồi muôn 
		trùng trên mặt sự tướng; nhưng trên mặt lý thể thì sinh tử tức là 
		Niết-bàn, khác nhau chỉ có mê và ngộ mà thôi. Quay đầu tức là ngộ, là 
		Phật, là vô lậu, là giải thoát, là an vui; không quay đầu tức là mê, là 
		chúng sanh, là hữu lậu, là trói buộc, là khổ đau. Đem tâm mê chúng sanh 
		mà hiểu Phật thì Phật cũng thành ma, như cụ đã từng viết:
		
… 
		Sắc không cảnh giới mang bất ngộ, 
		
		Si tâm quy Phật Phật sinh ma …
		
		色
		空
		境
		界
		茫
		不
		悟
		
		癡
		心
		歸
		佛
		佛
		生
		魔
		
		(Phân Kinh thạch đài)
		
Dịch:
		
		… Cảnh giới sắc không, mê chẳng biết,
		
		Tâm mê hiểu Phật, Phật thành ma…
		
Nhờ cụ đã nhìn ra được chỗ ách 
		yếu của phương cách tu hành, và cũng từ đó hành giả theo Phật có thể 
		thực hành để đạt được sự thể ngộ chân lý qua cuộc sống bằng vào thực 
		hành tu tập để đạt đến trạng thái hư linh không tịch rỗng rang này, chứ 
		không phải mang kiến thức mê muội nhị nguyên để nói về cảnh giới Phật, 
		cảnh giới thiền là có được. Sự có được này theo cụ cũng chỉ là kiến thức 
		mê; khi mê mà nói về Phật thì Phật đó cũng trở thành mê như Kinh Viên 
		Giác đức Đạo sư đã dạy ngài Kim Cang Tạng rằng:
		
Kim 
		Cang Tạng nên biết
		
		Như lai tánh vắng lặng
		
		Chưa từng có chung thỉ
		
		Nếu dùng tâm luân hồi
		
		Suy nghĩ cảnh giới Phật
		
		Cảnh Phật thành luân hồi
		
		Phật tánh tuy sẵn có
		
		Phải tu mới hiển hiện
		
		Cũng như vàng sẵn có
		
		Phải lọc quặng mới thành
		
		Khi đã thành vàng y
		
		Không trở lại làm quặng
		
		Sanh tử và Niết bàn
		
		Phàm phu cùng chư Phật
		
		Thảy đều như hoa đớm
		
		Tâm suy nghĩ đã huyễn
		
		Nên lời nói cũng huyễn
		
		Làm sao nhập được chơn
		
		Nếu rõ được tâm này
		
		Mới cầu được Viên giác.
		
		
Nếu muốn có cuộc sống bình an 
		vô sự theo cụ Nguyễn Du thì cần phải đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang (hư 
		linh), sau đó chúng ta làm gì cũng không có lỗi với Đạo; nhưng trước hết 
		chúng ta phải thực hành ngay trong cuộc sống:
		
… 
		Tiện sát bắc song cao ngọa giả,
		
		Bình cư vô sự đáo hư linh.
		
		羨
		殺
		北
		窗
		高
		臥
		者
		
		
		平
		居
		無
		事
		到
		虛
		靈
		
		(Ký hữu)
		
Dịch:
		
		… Muốn làm người nằm cao nơi cửa bắc
		
		Sống yên vô sự đạt đến hư linh.
		
Khi mà con người sống bình an 
		vô sự thì chính đó là cuộc sống của người đạt đến chỗ tâm linh rỗng 
		rang, không bị cái gì trói buộc được. Đó là một điều mà ai là người tu 
		Phật cũng mong muốn đạt đến cảnh giới như vậy, và ở đây cụ Nguyễn Du 
		cũng vậy, mong muốn rằng cá nhân cụ có một cuộc sống bình yên vô sự như 
		hình ảnh của vị sư và trẻ mục đồng mà cụ đã từng thấy qua:
		
… 
		Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,
		
		Mục thụ kỵ ngưu nhất bất thư …
		
		山
		僧
		對
		竹
		兩
		無
		恙
		
		
		牧
		豎
		騎
		牛
		一
		不
		如
		
		(lạng sơn đạo trung) 
		
Dịch:
		
		… Sư bên khóm trúc vô sự cả,
		
		Đệ nhất mục đồng cưỡi lưng trâu…
		
Cụ đưa ra bốn hình ảnh: Nhà sư 
		núi và khóm trúc bên nhau nhưng cả hai đều vô sự, trên mặt hình thức 
		khác nhau không liên quan, trên mặt tinh thần cũng không can hệ với 
		nhau, sư có nếp sống vô sự của sư, khóm trúc có cái thể hiện vô sự của 
		nó; cũng vậy hai hình ảnh mục đồng và trâu cũng vậy mục đồng đang nghiêu 
		ngao trên lưng trâu, mặc cho trâu thong thả trên đường về. Đây là những 
		hình ảnh vô sự không can hệ lệ thuộc vào nhau để trở thành trói buộc, mà 
		ngược lại nó là những hình ảnh vô ngại tự tại dung thông trong cuộc 
		sống. Vì sống bình an vô sự chính là lối sống không bị lệ thuộc trói 
		buộc vào bất cứ điều kiện nào, mặc dù người sống vẫn sống chung với các 
		duyên sống chung quanh, nhưng người đó không bị nhiễm vào những tác nhận 
		tạo ra nghiệp của thế gian. Ở đây cụ Nguyễn Du cũng đang thực hành cách 
		sống vô sự này qua:
		
		Bất sầu cửu lộ triêm y duệ 
		
		Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần. 
		
		不
		愁
		久
		露
		霑
		衣
		裔
		
		且
		喜
		鬚
		眉
		不
		染
		塵
		
		(Dạ hành)
		
Dịch:
		
		Tay áo dầm sương không ngại ướt 
		
		Mày râu,mừng chẳng nhiễm trần ai.
		
Những hình ảnh ẩn dụ của cụ 
		đưa ra cho chính bản thân mình, đó chính là bước đi giải thoát vô ngại 
		của đạo Phật. Vẫn bước đi trong cuộc đời chứ không phải lánh đời, mà vẫn 
		sống, vẫn ăn, vẫn uống, vẫn hít thở, nói chung là vẫn làm tất cả mọi 
		chuyện như người thế gian không khác; nhưng chỉ khác với người thế gian 
		là sống với nó mà không bị đời làm nhiễm, không bị đời trói buộc qua tác 
		nhân không chấp ngã, không chấp pháp, làm với quan niệm vô ngã, vô pháp 
		thì đó chính là hành động vô sự, không bị nhiễm, không bị trói buộc. Đó 
		chính là lối sống của cụ:
		
… 
		Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
		
		Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
		
		笑
		啼
		徇
		俗
		干
		戈
		際
		
		緘
		默
		藏
		生
		老
		病
		餘
		
		(Tập Thi II)
		
Dịch:
		
		…Theo đời cười khóc qua thời loạn,
		
		Già bệnh rồi im lặng yên thân.”
		
Vậy muốn cho cõi lòng chúng ta 
		lúc nào cũng trong sáng qua cuộc sống thì, chỉ có cách im lặng mà sống 
		hay sống bằng cách vô sự, không nhiễm ô đời, không để chuyện đời vướng 
		mắc vào tâm mình, tức là chúng ta sống với tâm vô phân biệt. Đó là lối 
		sống với tâm không còn phân biệt chấp trước vào sự vật; tùy duyên mà 
		sống không cưỡng lại duyên, không cưỡng lại đời như chuyện khóc cười 
		theo đời, theo thời cuộc thăng trầm, hưng phế; nhưng không để cho đời và 
		thời cuộc trói buộc cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta để tâm chúng ta bị 
		trói buộc vào những việc đó của đời, vào thời cuộc của đời thì chúng ta 
		sẽ bị đau khổ vì sự trói buộc đó. Đau khổ là hậu quả của mọi tác nhân 
		tạo ra nghiệp do cuộc sống của chúng ta mang lại. Theo đó cụ Nguyễn Du 
		đã để lại cho chúng ta một kinh nghiệm sống của chính cụ qua tâm không 
		sau khi nghiệp chướng được tiêu trừ:
		
… 
		Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
		
		Chướng tiêu thời giác túc tâm không …
		
		老
		去
		未
		知
		生
		計
		拙
		
		障
		消
		時
		覺
		夙
		心
		空
		
		(Thôn Dạ)
		
Dịch:
		
		… Già rồi vẫn còn vụng về sinh kế
		
		 Khi nghiệp tiêu mới biết tâm không…
		
Tâm không ở đây chính là tâm 
		trong sáng, tâm vô sự, tâm chân thật, khi nghiệp của chúng ta đã tạo ra 
		đã được tiêu trừ rồi thì chính ngay lúc đó chúng ta giải thoát được khổ 
		đau và, cuộc sống của chúng ta cũng trở nên tự tại an lạc được thể hiện, 
		nên cụ lúc nào cũng ao ước là phải thực hiện cho bằng được tâm vô sự 
		này. 
		
		
Bài thơ “Thôn dạ” ở trên, cụ 
		nói đến cái quả khi chúng ta tiêu trừ được nghiệp chướng thì tâm không 
		còn gì để trói buộc, tâm trở nên rỗng rang, hay bảo là tâm không, hiện 
		tiền; nhưng bằng cách nào để tiêu nghiệp nói chung, riêng cái nghiệp trí 
		tuệ tức là cái nghiệp của thế trí biện thông, là nghiệp của trí tuệ 
		thiện thuộc pháp hữu lậu. 
		
Như kinh nghiệm ở trên cụ 
		Nguyễn Du đã cho chúng ta biết rằng: Khi nghiệp chướng tiêu trừ thì tâm 
		chúng ta trở nên rỗng rang không gì trói buộc, đó là một kinh nghiệm tâm 
		linh có được từ nơi cuộc sống đã dạy cho cụ, để từ đó cụ bắt đầu cho 
		cuộc sống của chính mình qua:
		
… 
		Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng, 
		
		Bất dung trần cấu tạp thanh hư …
		
		未
		有
		文
		章
		生
		孽
		障
		
		不
		容
		塵
		垢
		雜
		清
		虛
		
		(Ngọa bệnh I)
		
Dịch:
		
		… Chưa thấy văn chương sinh nghiệt chướng,
		
		Không để bụi nhơ vấy rỗng trong.
		
Vì bụi nhơ chính là chướng 
		nghiệp chúng có khả năng làm mờ đi bản tính rỗng rang thanh tịnh của 
		chúng ta, và mặt khác chúng kéo chúng ta vào con đường sinh tử khổ đau. 
		Vì vậy cho nên cụ Nguyễn Du dứt khoát đoạn trừ với bụi nhơ bằng cách 
		không để chúng vấy vào tâm không rỗng rang của chúng ta và lấy văn 
		chương để tiêu khiển. 
		
Vì chính văn chương không phải 
		tự nó sinh ra chướng nghiệp, mà chính tâm vọng động của chúng ta tạo ra 
		những nghiệp chướng bằng vào thân-khẩu-ý làm công cụ cho ba độc tham 
		lam, sân hận, si mê phát triển nuôi lớn ngã chấp và pháp chấp tạo ra mọi 
		thứ đau khổ ràng buộc mà đức Đạo sư gọi là nghiệp, và khi nghiệp đã trừ 
		đi hết rồi thì tâm sẽ trở nên vắng lặng trong sáng, tinh thần nhẹ nhõm 
		an lạc tự hiện ra:
		
… 
		Tam lan song hạ ngâm thinh tuyệt,
		
		Điểm điểm tinh thần du thái sơ.
		
		三
		蘭
		窗
		下
		吟
		聲
		絕
		
		點
		點
		精
		神
		遊
		太
		初
		
		(ngọa bệnh I)
		
Dịch:
		
		… Dưới cửa tam lan im bặt tiếng,
		
		Tinh thần nhẹ nhõm dạo thái sơ.
		
Tức là chỉ cho trạng thái tinh 
		thần lâng lâng nhẹ nhõm rỗng rang vô tận nguyên sơ chưa bị nhiễm ô. Khi 
		mà mọi duyên trần cảnh bên ngoài bị cắt đứt thì tâm thần trở nên nhẹ 
		nhàng thư thái lâng lâng, vì tâm lúc này không bị ràng buộc bởi các 
		duyên trói buộc, dù là duyên tốt hay là duyên xấu cũng ảnh hưởng đến sự 
		ràng buộc lệ thuộc làm cho tâm mất đi sự rỗng rang trong sáng vắng lặng. 
		Đối với cụ Nguyễn Du lúc này cụ đã làm chủ được tâm mình nên đối với 
		những cảnh sắc bên ngoài không làm ảnh hưởng đến cõi lòng của cụ nữa, 
		cho dù đó là việc hoa nở hay hoa tàn lá vàng hay lá xanh, lá rụng hay 
		đâm chồi nẩy lộc, cũng không còn ảnh hưởng tác động làm cho nó lay động 
		nữa:
		
… 
		Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự 
		
		Tứ thời tâm kính tự như như. 
		
		葉
		落
		花
		開
		眼
		前
		事
		
		四
		時
		心
		鏡
		自
		如
		如
		
		(Tạp thi II)
		
Dịch:
		
		… Lá rụng hoa khai ngay trước mắt,
		
		Cõi lòng năm tháng vẫn không thay.
		
Tức là tấm lòng của cụ vẫn 
		trong sáng rỗng rang như cái bản lai diện mục của nó từ nguyên thỉ chưa 
		nhuốm bụi trần phiền não sinh tử vậy. Vì trong hiện tại cõi lòng cụ được 
		như như, như vậy là nhờ cụ đang trụ tâm mình vào thiền định. Có lẽ cụ 
		đang tham công án thiền: “Làm thế nào để tâm có thể trụ vào nơi không có 
		chỗ trụ?” Đây là một Công Án Thiền cụ rút ra từ cốt tủy của bản kinh 
		Kim Cương, một bản kinh nền tảng của Thiền Trung quốc nói riêng cũng 
		như Thiền của các nước Đại thừa Phật giáo khác nói chung, kể từ Ngũ Tổ 
		Hoàng Nhẫn trở xuống. Cụ Nguyễn Du đã đang nỗ lực thực hành nó, cho nên 
		tâm của cụ lúc nào cũng ở trong nghi tình thiền định này:
		
… 
		Mãn cảnh giai không hà hữu tướng 
		
		Thử tâm thường định bất ly Thiền...
		
		滿
		境
		皆
		空
		何
		有
		相
		
		此
		心
		常
		定
		不
		離
		禪
		
		(Đề Nhị Thanh Động)
		
Dịch:
		
		… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
		
		Tâm này thường định, chẳng lìa Thiền...
		
Thời gian mà cụ bắt đầu có ý 
		muốn xa lánh đời để xuống tóc ẩn tu là thời gian cuối những năm từ 
		1786-1795, lúc này cụ gần 30 tuổi và thời gian mà cụ sống không lìa 
		thiền đã thể hiện ra trong bài thơ này là vào những năm 1802-1804 tức là 
		khoảng 36 hay 37 tuổi. Như vậy, việc chuyển hướng về với đạo Phật là khá 
		sớm và, việc cụ tự nói lên sự tu tập đọc tụng kinh Kim Cương đến 
		hàng nghìn lần không phải là những lời nói ngoa. (Ở đây chúng tôi xin mở 
		ngoặc một tí, vấn đề tu tập của Phật giáo nó không mang bất cứ một hình 
		thức nào nhất định hết, vì bản thân của sự tu tập này nền tảng căn bản 
		và mục đích cuối cùng của nó là làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý, 
		để mọi người không tạo ra nghiệp khổ đau mà thôi, cho nên việc tu tập 
		cũng có rất nhiều cách: đọc, tụng, học hành, lễ bái hay làm bất cứ 
		phương cách nào như chúng ta thường nghe là vô lượng pháp môn tu, ở bất 
		cứ nơi đâu, ở chùa hay ở tại thế gian cũng có thể tu tập được hết, với 
		mục đích là để làm cho ba nghiệp của thân-miệng-ý không tạo ra tác nhân 
		nghiệp và, dành cho bất cứ ai muốn thực hành điều đó, chứ không phải chỉ 
		dành cho các vị xuất gia vào chùa làm một tỳ kheo hay một tỳ kheo ni mới 
		gọi là tu theo đạo Phật, còn những người không mang hình thức này không 
		phải là người của Phật giáo. Vì quan niệm sai lầm này chúng tôi gặp rất 
		nhiều khi đọc những bài viết bình luận phê bình trong Văn học Việt nam, 
		khi viết về Phật giáo. Có nhiều người, họ cho rằng chỉ có người đi tu ở 
		chùa theo Phật mới gọi là những người tu theo đạo Phật còn những tại gia 
		không ở chùa thì không phải là người của đạo Phật!). 
		
Sở dĩ cụ Nguyễn Du đã lựa chọn 
		cho mình một phương pháp tu cho thích hợp với cuộc sống và căn cơ của 
		chính cụ cho nên Thiền Công Án là một phương pháp Thiền Định làm thanh 
		tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý của cụ. Vì trong Thiền Công Án này có nhiều 
		cách để huân tập nghi tình trong lúc tu như: Tham thoại đầu về nghi tình 
		công Án này, hoặc tham nghi tình Công Án bằng cách tụng đi tụng lại cho 
		đến lúc miên mật ngay trong giấc ngủ cũng khởi lên, huân tập nhiều ngày, 
		nhiều tháng, nhiều năm như vậy cho đến khi nào nghi tình này lớn mạnh, 
		chỉ cần nhờ một duyên cuối cùng tác động lên nó, thì Công Án nghi tình 
		sẽ bùng vỡ ngay, đó gọi là ngộ. Cũng vậy việc đọc kinh cũng giống như 
		vậy, với mục đích là huân tập đọc đi đọc lại làm cho nghi tình càng ngày 
		càng lớn hơn và, cho đến lúc nào đó, chỉ cần một duyên cuối cùng cũng đủ 
		bùng vỡ, như trường hợp của cụ Nguyễn Du cũng vậy. Phân Kinh Thạch 
		Đài là duyên cuối cùng, là giọt nước cuối cùng cho nghi tình Kinh 
		Kim Cương của cụ bùng vỡ. Có nhiều người nghĩ rằng đọc kinh không 
		phải tu, nhưng đó là một ý nghĩ sai lầm! Vì đọc kinh cũng là một phương 
		pháp cắt đứt hết mọi duyên khác, chỉ định tâm vào bản kinh và, việc định 
		tâm vào bản kinh chính là thiền định; vì lúc chúng ta định tâm vào kinh 
		thì mọi duyên khác bên ngoài chúng ta cắt đứt, chỉ còn có biết bản kinh 
		thôi. Lúc này thân chúng ta ngồi một chỗ, hay nằm một chỗ, thay vì đọc 
		bằng miệng như tụng, chúng ta dùng mắt để đọc và miệng thì giữ im lặng; 
		như vậy thì ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta đang định vào trong kinh 
		không tạo ra các nghiệp. Vậy là ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta ngay lúc 
		đó không tạo ra nghiệp dữ rồi, đó là một cách tu trong muôn ngàn cách tu 
		khác. Ở đây ai trong chúng ta bảo đọc không phải là tu đây!!!? Tu chỉ có 
		một cái nghĩa đơn giản là sửa và, thiền định là một cách sửa tâm hay 
		nhất đối với những người có căn cơ này. Việc lựa chọn kinh Kim Cương 
		để cụ Nguyễn Du tu tập bằng cách đọc kinh là một trong muôn nghìn cách 
		tu thiền định trong đạo Phật, với mục đích là để làm lắng đọng cái vọng 
		tâm đang lăng xăng chạy theo vô minh tạo ra nghiệp khổ, mà cắt đứt dần 
		mọi thứ tạp niệm của ý tạo ra những tạp niệm của thân tạo tác, miệng tạo 
		tác. Lâu ngày chầy tháng dần nhờ sự cắt đứt này mà tâm từ từ trở nên 
		trong sáng rỗng rang trở lại.
		
Theo Cụ Nguyễn Du, cũng giống 
		như nước giếng xưa vốn vắng lặng trong sạch không bị người khuấy động, 
		trăng sáng chiếu soi thấy bóng rõ ràng, vì đó là bản chất vắng lặng của 
		nước. Nếu khuấy động lên thì chúng sẽ đục, ánh trăng sáng sẽ không còn 
		thấy được nữa. Tâm của chúng ta cũng vậy không dao động trước mọi duyên 
		thì với bản chất trong sáng thanh tịnh của nó thì tự nó sẽ chiếu soi 
		khắp cả và, cũng có khả năng hiển thị tất cả qua bài thơ ẩn dụ đạo ý:
		
		Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
		
		Tỉnh thủy vô ba đào 
		
		Bất vị nhân khiên xả 
		
		Thử tâm chung bất giao 
		
		Túng bị nhân khiên xả 
		
		Nhất giao hoàn phục chỉ 
		
		Trạm trạm nhất phiến tâm 
		
		Minh nguyệt cổ tỉnh thủy. 
		
		明
		月
		照
		古
		井
		
		井
		水
		無
		波
		濤
		
		不
		被
		人
		牽
		捨
		
		此
		心
		終
		不
		搖
		
		縱
		被
		人
		牽
		捨
		
		一
		搖
		還
		復
		止
		
		湛
		湛
		一
		片
		心
		
		明
		月
		古
		井
		水
		
		(Đạo Ý)
		
Dịch:
		
		Trăng sáng chiếu giếng xưa 
		
		Nước giếng không gợn sóng 
		
		Không bị người khuấy động 
		
		Tâm này thật chẳng động 
		
		Nếu bị người khuấy động 
		
		Lay động rồi lại dừng 
		
		Một cõi tâm lắng đọng 
		
		Như trăng soi giếng xưa. 
		
Thật ra đó chỉ là một thí dụ, 
		cụ đưa để ví dụ cho tâm con người và nước giếng xưa tạm để chúng ta hiểu 
		được rằng tâm ta khi định một chỗ thì nó sẽ hiển thị ra công dụng sáng 
		trong vắng lặng cũng giống như nước giếng xưa nếu khuấy động làm cho nó 
		đục thì nó sẽ không thấy vật gì hết, còn nếu để nguyên không khuấy động 
		thì nó sẽ lắng trong. Đó là một thứ kinh nghiệm được cụ rút ra từ cuộc 
		sống của chính cụ, để cho ta thấy rằng sở dĩ thường ngày chúng ta không 
		thấy được tâm trong sáng vắng lặng rỗng rang của chúng ta, mà chỉ thấy 
		toàn những phiền não khổ đau làm cho chúng ta đau khổ: nào là tâm vật lý 
		đều vô thường luôn tạo ra cho chúng ta những thứ phiền não khổ đau từ 
		tâm lý đến vật lý: xa lìa người thân, những vật mà mình đang sở hữu 
		thuộc về của mình cũng sinh ra đau khổ; những ai mình ghét bỏ, thù oán, 
		hoặc những vật mà chúng ta không thích, không ưa mà luôn xuất hiện trước 
		chúng ta cũng tạo ra những đau khổ; những điều mà chúng ta ước muốn 
		thuộc về chúng ta (vật chất lẫn tinh thần), mà chúng ta tìm cầu không 
		được cũng làm cho chúng ta đau khổ; nói chung là mọi thay đổi trong cuộc 
		sống bất như ý chúng ta là mang lại cho chúng ta những đau khổ. Chính 
		những đau khổ này nó vấy đục tâm tư chúng ta, nó làm cho tâm tư chúng ta 
		tối tăm u ám như nước giếng xưa đang trong lành bị chúng ta khuấy đục 
		lên vậy, công dụng hiển thị sáng soi không còn nữa. Do đó chúng ta muốn 
		tâm chúng ta trong lành sáng tỏ thì đối với mọi sự vật từ tinh thần cho 
		đến vật chất chúng ta chỉ cần không đắm nhiễm chạy theo nó để bị trói 
		buộc bị khuấy đục lên thì đó chính là tâm vô sự, đó chính là Phật, là 
		tâm không như cụ đã từng viết:
		
… 
		Phật bổn thị không bất trước vật…
		
		佛
		本
		是
		空
		不
		著
		物
		
		 (Phân kinh thạch đài)
		
		Phật vốn là Không, chẳng chấp vật.
		
Khi tâm chúng ta không chấp 
		vào mọi sự vật chung quanh cuộc sống từ tinh thần cho đến vật chất thì 
		đó chính là Phật. Phật này bản thể là tính không, tướng của Phật là 
		không vì sự hiện hữu của sắc thân nên Phật do nhân duyên tích hợp mà tác 
		thành, thân Phật này không có thực thể, nó chỉ là một giả hợp của Năm 
		uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là một tích hợp của đất, nước gió, 
		lửa (thuộc vật chất); thọ, tưởng, hành thức là tích hợp của tinh thần 
		(thuộc tâm). Vậy thì từ vật chất đến tinh thần đều do nhân duyên hòa hợp 
		mà hiện hữu, nên sự hiện hữu của Phật này là một hiện hữu giả danh, vì 
		Phật chỉ là một giả danh nên Phật vốn là Không. Khi Phật đã không thì 
		tâm cũng không.
		
Vậy tâm chúng ta đục hay trong 
		cũng từ nơi ta cả chứ không ai làm cho tâm ta lu mờ và sáng trong được, 
		cho nên cụ khuyên chúng ta nên:
		
… 
		Nhân liễu thử tâm nhân tự độ, 
		
		Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu…
		
		人
		了
		此
		心
		人
		自
		度
		
		靈
		山
		只
		在
		汝
		心
		頭
		
		(Phân kinh thạch đài)
		
Dịch:
		
		… Người rõ tâm này, người tự độ,
		
		Linh Sơn 
		chỉ ở nơi tâm người …
		
Vì thường thì chúng ta hay cầu 
		Phật ở nơi bên ngoài chúng ta, tức là vong thân cầu Phật tại Linh sơn, 
		rất nhiều người nổ lực tìm cầu Phật bên ngoài mà bỏ quên ông Phật chính 
		mình nơi mỗi người, đó là một cái nhìn vô minh thiếu chánh kiến, nên lầm 
		đường lạc lối cầu Phật bên ngoài. Theo cái nhìn thấu tâm đạt lý của cụ 
		Nguyễn Du thì khi chúng ta đã tỏ rõ bản tâm của mình rồi thì chính mỗi 
		người phải tự mình độ lấy chính mình ra khỏi vô minh mờ tối của chính 
		mình tạo ra đó thì tự nhiên tâm rỗng rang trong sáng của chính mình hiện 
		hữu chứ không cần phải dựa dẫm vào bất cứ thế lực nào khác ngoài chúng 
		ta. Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyễn Du mà không biết chữ Hán hay không 
		đọc những tập thơ mà cụ viết bằng chữ Hán để biết cuộc đời của cụ đã ảnh 
		hưởng Phật giáo như thế nào mà viết về Nguyễn Du và Phật giáo thì, đương 
		nhiên có những cái nhìn lệch lạc về vấn đề này. Qua những điều chúng tôi 
		trích dẫn từ văn thơ của cụ như vậy, ai dám bảo cụ không phải là người 
		của Phật giáo? Không phải là người tu theo Phật nào?! Bởi vì “Người rõ 
		tâm này, người tự độ, Linh Sơn (Phật) chỉ tại tâm người” không phải là 
		“tức tâm tức Phật, tức Phật tức tâm” Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm 
		sao? Mà theo cụ thì sở dĩ chúng ta không nhận ra được tự tánh tâm mình, 
		không nhận ra bản lai diện mục của chính mình là vì chúng ta tìm Phật 
		bên ngoài, chạy rông từ kiếp này sang kiếp khác, từ nơi này đến nơi kia 
		để tìm; nhưng rốt cùng tìm mãi không ra chỉ vì người chỉ đi tìm cái bóng 
		của mình không thôi, trong khi bản lai diện mục lù lù nơi chính ta mà ta 
		không biết, càng chạy đi tìm thì càng lạc lối càng xa quê hương xứ sở 
		nguyên sơ của chính mình chỉ vì vô minh phiền não che lấp nên không thấy 
		đó thôi:
		
		Niên niên thu sắc hồn như  hử 
		
		Nhân tại tha hương bất tự tri. 
		
		年
		年
		秋
		色
		魂
		如
		許
		
		人
		在
		他
		鄉
		不
		自
		知
		
		(Giang Đầu Tản Bộ)
		
		Sắc thu hồn vẫn luôn như vậy 
		
		Vì mãi xa nhà không biết thôi. 
		
Tóm lại qua những bài thơ mà 
		chúng tôi đã trích dẫn trong ba tập thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du cho 
		chúng ta một cái nhìn đúng về nhà thơ đã ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo 
		trong đời sống hằng ngày, là một nhà thơ vĩ đại không những là của Việt 
		Nam ta không thôi, mà cụ còn là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thế 
		giới nữa. Cái vĩ đại của Cụ nhờ vào hai yếu tố, thứ nhất bởi một thứ trí 
		tuệ nghiệp được huân tập di truyền từ nhiều kiếp trước cộng với cái trí 
		tuệ nghiệp được huân tập từ kiếp này, từ cuộc sống qua đó Phật giáo là 
		một tác động quan trọng đối với cuộc sống của cụ, nhất là Thiền tông là 
		một nhân tố tác động chính yếu cho việc cụ khám phá ra bộ mặt thật của 
		chính mình cũng như mọi sự vật khác, để từ đó cụ sáng tác ra những tác 
		phẩm mang tính nhân bản triệt để hơn qua Truyện Kiều và Văn Tế 
		thập loại chúng sanh mang đậm tư tưởng Phật giáo trong việc phủ nhận 
		thuyết Thiên mệnh của Nho giáo đã làm hủ hóa khiến con người không tự 
		mình vươn lên trong cuộc sống được:
		
… 
		Ngẫm hay muôn sự tại trời,
		
		Trời kia đã bắt làm người có thân.
		
		Bắt phong trần phải phong trần,
		
		Cho thanh cao mới được phần thanh cao. (Kiều)
		
Với quan niệm mệnh Trời như 
		vậy thì chúng ta còn làm được gì, đành phải bó tay bó chân thôi! 
		
		
… 
		Thôi đành nhắm mắt đưa chân. 
		
		Thử xem con tạo xoay vần ra sao? (Kiều)
		
Đúng là với quan niệm như vậy 
		nó làm cho con người trở nên yếu mềm, nhu nhược. Đây mới là quan niệm 
		làm cho con người bi quan yếm thế của Nho giáo đối với cuộc sống, chứ 
		không phải quan niệm khổ đau của Phật giáo là quan niệm bi quan yếm thế 
		như nhiều người lầm tưởng. Vì đời chỉ là kết quả khổ, phát sinh từ 
		nguyên nhân, chính con người của mỗi cá nhân mang đến kết quả đó mà thôi 
		chứ đời không phải đời là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Vậy muốn quả khổ 
		này mất đi thì chỉ cần triệt tiêu nguyên nhân sinh ra khổ thì đời tự 
		nhiên hết khổ thế thôi. Vậy thì việc gì Phật giáo phải bi quan yếm thế 
		như một số người hiểu biết lệch lạc sai lầm về Phật giáo vậy! Ở đây với 
		quan niệm mệnh Trời bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong 
		trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao thì, đây mới chính là quan 
		niệm làm cho con người trở nên bi quan yếm thế không tự chủ trước cuộc 
		sống. Nhưng đó là quan niệm mệnh trời của Nho giáo mà cụ đưa ra làm tiền 
		đề và, tiếp theo đó cụ đưa ra quan điểm tự tác tự thọ, của Phật giáo qua 
		nhân quả báo ứng để kết luận, tức là tự con người làm thì tự con người 
		nhận lấy cái quả đó, mà phủ nhận cái quyền sinh sát của mệnh Trời kia. 
		Thật sự nếu có Trời đi chăng nữa thì Trời theo cụ chỉ là một cán cân mà 
		thôi:
		
Có 
		đâu thiên vị người nào,
		
		Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai. (Kiều)
		
Như vậy thì Trời đâu có thiên 
		vị và làm theo ý Trời được, mà phải lệ thuộc vào tác nhân của người tạo 
		ra mà theo đó mới bắt người chịu những kết quả tương ứng với những tác 
		nhân trước đó của họ.
		Vậy thì mệnh Trời đã bị con người tước 
		đoạt rồi, vì Trời bây giờ chỉ làm một cán cân, cân gúp cho con người 
		trong việc cân tội phước, họa phúc, nặng nhẹ thế nào thôi. Vì vấn đề 
		nặng nhẹ có được do chính con người tạo ra. Bây giờ con người đại diện 
		cho chữ tài và Trời đại diện cho chữ mệnh cả hai bình đẳng như nhau trên 
		mặt lý tính. Ở đây chúng tôi chỉ bàn sơ qua việc này để kết luận cho bài 
		viết này, việc này chúng tôi sẽ bàn chi tiết hơn trong phần thứ hai, bài 
		kế tiếp về “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều. 
		
		Đ.L.