phần [05]
Khi gặp khó khăn, nhiều 
        người trong chúng ta tìm đến người khác để nghe lời 
        khuyên của họ. Họ có thể khuyên chúng ta đi cầu nguyện 
        với một số thần thánh ở một ngôi chùa hay một chỗ thờ 
        tự nào đó hay tụng một vài câu chú hay thực thi một số 
        nghi thức và nghi lễ.
        
Nhưng lời khuyên của 
        Đức Phật lại khác hẳn. Ngài chẳng bao giờ khuyên ai làm 
        điều gì mà không điều tra và phân tách các khó khăn để 
        khám phá ra nguyên nhân chính của khó khăn đó là gì. Cái 
        lo lắng của chúng ta là khi chúng ta gặp khó khăn, do ngu si 
        chúng ta đau khổ vì sợ hãi, và chính chúng ta tạo ra nỗi 
        sợ hãi vô cớ, tưởng tượng và nghi ngờ. Sau đó chúng ta 
        tìm lời khuyên ở người khác để xóa bỏ những tư tưởng 
        ấy đi.
        
Chẳng hạn, khi người 
        ta thất bại trong thương trường, họ lại cố gắng sử dụng 
        ma thuật để đạt may mắn và thắng lợi trong công việc 
        làm ăn. Họ không cố gắng tìm ra sơ sót hay yếu điểm gì 
        dẫn đến thất bại và không nhận thức được những việc 
        cầu xin như thế chỉ căn cứ vào niềm tin dị đoan. Một số 
        được gọi là 'thầy bói' hay chiêm tinh gia lợi dụng cái 
        ngu dốt của các người nhẹ dạ làm cho họ tin tưởng là 
        những sức mạnh tai họa đứng đằng sau sự không may của 
        họ.
        
Đức Phật khuyên 
        chúng ta phát triển sự kiên nhẫn và hiểu biết, không tin 
        vào niềm tin dị đoan, và tu tập lối sống duy lý, không 
        phí phạm thì giờ và tiền bạc vào những sự thực hành 
        vô nghĩa và chính mình cố gắng để vượt qua những điều 
        đó một cách có suy nghĩ.
        
Thông thường chúng ta 
        không thể hiểu nguyên nhân gây khó khăn cho chúng ta vì lối 
        suy nghĩ của chúng ta không sáng suốt do bị che mờ bởi 
        nghi ngờ và ảo tưởng. Do sự thiếu hiểu biết chánh đáng 
        mà mà không hiểu đúng nguyên nhân của vấn đề, do đó 
        có cách giải quyết sai lầm. Chúng ta cầu nguyện, dâng lễ 
        vật, và phát nguyện vì nghĩ rằng sự khổ cực của chúng 
        ta là do sự chi phối của một lực lượng bên ngoài. Thực 
        ra hầu hết các khó khăn và lo lắng của chúng ta là do 
        chính chúng ta tạo nên.
        
Chúng ta không cố gắng 
        phát triển một đường lối sống đứng đắn qua luân lý 
        và mở mang tinh thần. Chúng ta nghĩ rằng tôn giáo chỉ để 
        cho chúng ta cầu nguyện và thi hành một số nghi thức để 
        quét sạch những khó khăn của chúng ta. Nếu chúng ta duy 
        trì niềm tin như vậy, sao ta có thể tập trung để tăng 
        trưởng kiến thức và hiểu biết sự việc đúng như bạn 
        chất của nó?
        
Hầu hết chúng ta 
        không ý thức được rằng giá trị luân lý là gốc rễ của 
        cây văn minh. Không có những rễ ấy, lá sẽ phải rụng và 
        bỏ lại cái cây chỉ còn lại gốc cây chết.
        
Ngày nay, chúng ta phát 
        triển đời sống theo một phương thức đến nỗi chúng ta 
        không có thì giờ để dành cho kỷ luật tự giác hay trau dồi 
        nội tâm. Mặc dù chúng ta thừa thãi để thỏa mãn nhu cầu 
        vật chất như thực phẩm, nhà cửa và quần áo, tất cả 
        chúng ta lại nghĩ làm sao làm ra nhiều tiền và làm sao hưởng 
        thụ lạc thú cho dù phạm đến quyền lợi của người khác. 
        Khi chúng ta gặp phải một số khó khăn, chúng ta bắt đầu 
        càu nhàu, tỏ nóng giận và tạo nhiều xáo trộn hơn nữa mà 
        không hiểu là không thể vượt qua được khó khăn bằng thái 
        độ như thế.
Người ta đã tập 
        trung nhiều vào dục lạc hơn là vào an lạc và sức khỏe. 
        Một số người lo lắng cho tương lai mặc dù có dư thừa 
        trong hiện tại. Họ lo lắng về bệnh tật, tuổi già, chết, 
        tang lễ và cả đến thiên đường hay địa ngục trong kiếp 
        tới. Ngày ngày họ chứng kiến cái bất trắc của đời họ. 
        Họ chạy đi tìm kiếm thuốc chữa để chấm dứt những khó 
        khăn của họ. Họ lo lắng khi ho trở thành già cả. Họ lo 
        lắng không đạt được điều mong muốn. Họ lo lắng khi mất 
        của cải hay người mà họ thương yêu. Sau đó họ khủng 
        hoảng, rầu buồn, tinh thần đau đớn, và đau khổ vì xáo 
        trộn tinh thần và cuối cùng những thứ đó biến thành 
        cái đau thể chất. Qua suốt cuộc đời, họ tiếp tục tìm 
        an lạc và hạnh phúc cho đến khi chết cũng vẫn chưa tìm 
        ra được giải pháp thực sự.
        
Vì không hiểu bản chất 
        thực sự của đời sống, chúng ta cố gắng duy trì cuộc sống 
        sao cho không phải trải qua thất vọng và thay đổi. Nhưng bản 
        chất của đời sống là thay đổi. Đời sống là một tập 
        hợp các yếu tố và năng lực lúc nào cũng thay đổi và 
        chúng ta không bao giờ được thỏa mãn. Đôi khi chúng ta cảm 
        thấy đời sống không thuận với chúng ta. Khi những yếu tố 
        và năng lực không quân bình, chúng ta thấy khó chịu, bệnh, 
        đau đớn và nhiều khó khăn khác. Khi năng lượng tinh thần 
        bị xáo trộn, chúng ta thấy khó khăn tinh thần. Sau đó những 
        cơ quan và các tuyến cũng thay đổi chức năng của chúng, 
        ảnh hưởng đến sự tuần hoàn của máu, hóc-môn 
        (hormones), tim và các tế bào óc.
        
Chúng ta có thể tránh 
        các khó khăn ấy nếu chúng ta hiểu sự mâu thuẫn trong cơ 
        thể và sống một cuộc đời thuận theo lực tự nhiên tạo 
        thành cuộc sống vật chất của chúng ta.
Ngày nay nhiều người 
        sống một cuộc đời trái tự nhiên mà không biết đến sự 
        nguy hiểm của nó. Những khó khăn mà chúng ta tạo nên là 
        do thái độ điên dại gây nên bởi lòng bị cám dỗ. Bình 
        dị làm cuộc sống êm trôi. Nhiều người trong chúng ta 
        nhân thức và chứng nghiệm như vậy chỉ khi đã về già.
        
Thí dụ, chúng ta có một 
        cái hố sâu 100 feet (mỗi foot + 30 cm 48 ) và chúng ta để 
        than đốt ở dưới đáy. Chúng ta lấy một cái thang và yêu 
        cầu từng người xuống hố. Những người xuống đầu tiên 
        không phàn nàn chi cả cho đến khi họ xuống sâu chừng 30 
        đến 40 feet. Qua 50 đến 50 feet, họ cảm thấy sức nóng, họ 
        càng xuống sâu hơn đến từ 70 đến 80 feet, gần đến than 
        cháy, họ có cảm giác bị phỏng. Cũng giống như vậy, người 
        trẻ không thấy khổ não măc dù Đức Phật dạy đời là 
        khổ. Nò cũng giống như khi giải thích nếu chúng ta có nhiều 
        kinh nghiệm hơn trong cuộc sống, chúng ta sẽ nhìn rõ sụ thật 
        về khổ đau hơn. Ý nghĩa thực sự của khổ đau là chứng 
        nghiệm tính chất bất toại nguyện trong mọi sự vật.
Chúng ta hãy xét đến 
        gia đình chúng ta. Có bao nhiêu gia đình sống trong sự hiểu 
        biết và tinh thần tương ái? Nơi đây chúng ta nghĩ đến không 
        những gia đình của chúng ta mà những gia đình sống chung 
        quanh chúng ta. Chúng ta có thể mời cả thế giới vào phòng 
        chúng ta qua truyền hình nhưng chúng ta không muốn mời người 
        láng giềng bên cạnh chúng ta vào nhà để nói chuyện thân 
        ái với họ. Chúng ta không có thì giờ để nhìn tận mặt 
        những người thân trong gia đình nhưng chúng ta đã bỏ ra 
        nhiều giờ để nhìn những người xa lạ trên màn ảnh truyền 
        hình. Ngay trong phạm vi gia đình chúng ta không có thì giờ 
        để nhìn tận mặt những người thân với nụ cười tuy chúng 
        ta cùng sống dưới một mái nhà. Làm sao ta có thể đoàn kết 
        và có hạnh phúc trong những gia đình như vậy? Sư kiện đáng 
        buồn này là thái độ cư xử lạ lùng rất thường thấy 
        trong xã hội hiện đại.
        
Một số người sao lãng 
        người thân trong gia đình sau ngày cưới. Đó không phải 
        là cuộc sống thực sự. Chúng ta nên duy trì một cộng đồng 
        sống bằng cách giúp đỡ lẫn nhau và bằng cách hỗ trợ 
        tinh thần cho những ai cần đến sự giúp đỡ. Mặc dù con 
        vật không giúp đỡ lẫn nhau như con người, nhưng con vật 
        sống chung, đôi khi bảo vệ nhóm chúng hay những con vật nhỏ 
        chống kẻ thù và những con vật còn non bao giờ cũng theo những 
        con vật già.
        
Dường như ngày nay 
        chúng ta sống không phải thực sự là con người. Chúng ta 
        đã đi trệch hướng rất xa đường lối tự nhiên của đời 
        sống. Do đó tại sao chúng ta phải đương đầu với nhiều 
        khó khăn và chúng ta cảm thấy cô đơn. Chúng ta phải hiểu 
        rằng có những khó khăn do tự nhiên và không có cách chi 
        có thể thoát khỏi được. Cũng có nhiều khó khăn khác do 
        tâm tạo, kết quả của ảo tưởng, vô minh và vị kỷ của 
        con người.
Cả đến những người 
        có học cũng không sử dụng một các thông thái kiến thức 
        của mình khi họ thực hành dị đoan dưới danh nghĩa tôn 
        giáo. Hãy cố gắng quét sạch tinh thần yếu đuối đó bằng 
        cách củng cố tâm trí và phát triển lòng tự tin. Rồi 
        chúng ta có thể vượt qua nhiều trong những khó khăn và 
        trong hầu hết các trường hợp, những khó khăn tưởng tượng 
        sẽ dễ dàng biến đi.
        
Theo một số niềm tin 
        tôn giáo, có một thượng đế chịu trách nhiệm tất cả 
        những việc tốt lành xẩy ra cho chúng ta, và nếu có điều 
        gì sai trái là do quỷ thần làm ra. Đối với chúng ta, đó 
        không phải là một niềm tin có sức thuyết phục.
        
Hầu hết chúng ta 
        không cố gắng hiểu tại sao chúng ta không hạnh phúc, và 
        sao chúng ta không thỏa mãn với đời sống, và ai là người 
        chịu trách nhiệm tình trạng đó. Đức Phật dạy rằng chúng 
        ta chịu trách nhiệm chính về mỗi hành động của chúng ta 
        dẫn đến toại nguyện hay bất toại nguyện.
        
Ngoài tất cả những 
        khó khăn mà ta chịu trách nhiệm, trực tiếp chịu ảnh hưởng, 
        chúng ta còn tạo ra những khó khăn chia rẽ nhân loại, tạo 
        ra những vấn đề như kỳ thị chủng tộc, tôn giáo quá 
        khích, kỳ thị văn hóa và truyền thống, ngôn ngữ, màu da, 
        độc tôn và tự tôn tự ti bởi nghĩ rằng người theo tôn 
        giáo khác là kẻ thù, và bị coi là phạm tội khi ủng hộ 
        hoạt động của tôn giáo khác. Họ không bao giờ nghĩ rằng 
        những tín đồ của bất cứ tôn giáo nào cũng đều cố gắng 
        phục vụ nhân loại và không làm hại người khác. Những 
        khó khăn như trên đậy đã gián tiếp góp phần vào cảm 
        nghĩ bất toại nguyện của chúng ta.
Mục đích của tôn 
        giáo là hướng dẫn nhân loại, phát triển đoàn kết, một 
        cuộc sống hòa hợp, trau dồi đức tính và tinh thần thanh 
        tịnh . Thế mà, tôn giáo lại dùng để gây xáo trộn các 
        tôn giáo khác, phát triển ganh ghét hay thù địch. Ngày nay 
        người ta không dùng tôn giáo để bảo vệ hòa bình mà để 
        xáo trộn và thù hận người khác. Sự cao ngạo không lành 
        mạnh này cùng với sự cạnh tranh tôn giáo đã tạo ra bạo 
        động và đổ máu ở nhiều nơi trên thế giới này,
        
Đồng thời trong khi trân 
        trọng tưởng tượng và quan niệm của mình như niềm tin thực 
        sự như là một phần của văn hóa và truyền thống, một số 
        nhà tôn giáo lại chế diễu văn hóa và truyền thống tôn 
        giáo khác. Trong niềm tin và phương pháp tu tập mà họ giới 
        thiệu thực sự là tôn giáo, họ quảng bá tư tưởng ích kỷ 
        mong cầu lợi dưỡng vật chất, quyền hành chính trị và tự 
        tôn vinh.
Cách xử thế có thể 
        định nghĩa là cách đối xử thích đáng để sống tốt đẹp 
        trong xã hội. Vì nhiều lý do xác đáng, một số truyền thống 
        được truyền thừa, và chỉ một số người không đầu 
        óc mới coi là vô giá trị việc tuân theo những luật lệ hướng 
        dẫn các quan hệ xã hội của chúng ta. Goethe khôn ngoan 
        nói:' Một người thực sự sống chỉ khi người ấy tìm thấy 
        nguồn vui trong thiện chí của người khác' Câu phương ngôn 
        cổ xưa 'Cách xử thế tạo nên con người' vẫn còn đúng 
        ngay cả đến ngày nay.
        
Những tiêu chuẩn mà 
        chúng ta coi như cách xử thế tốt đẹp khác biệt ở từng 
        dân tộc và từng cộng đồng. Chúng ta khám phá thấy những 
        tính chất đặc biệt về cách xử thế và tập tục thịnh 
        hành tại các xã hội khác khi chúng ta ra nước ngoài. Chúng 
        ta không nên vội vàng có thành kiến về cách xử thế và tập 
        tục của người khác mà quyết định cái đó thích hợp 
        hay không thích hợp. Cách xử thế chính nó chẳng tốt mà cũng 
        chẳng xấu, nhưng khi chúng gây cảm nghĩ xấu cho người khác, 
        thì có thể coi như cách xử thế xấu.
        
Chúng ta sống trong một 
        thế giới luôn thay đổi. Chúng ta không nên mù quáng bám 
        níu vào các truyền thống, tập tục, cách xử thế, nghi thức 
        và nghi lễ mà cha ông thực hành hay đã áp dụng theo niềm 
        tin và điều kiện thịnh hành trong thời đại đó. Một số 
        tập tục và truyền thống truyền thừa từ tổ tiên của 
        chúng ta có thể tốt, trong khi cũng có một số không hẳn 
        là hữu ích. Chúng ta hãy xét một cách vô tư xem chúng có 
        thích hợp và xác đáng cho thế giới hiện đại hay không?
        
Trong cộng đồng Trung 
        Hoa, họ nhấn mạnh đến việc kế tục truyền thống gia đình 
        và tôn trọng trí tuệ của người cao tuổi. Thờ cúng tổ 
        tiên có từ rất lâu đời (có từ hai nghìn năm trước Công 
        Nguyên). Đời sống cần thiết là việc gia đình, bao gồm tụng 
        niệm và dâng lễ vật trước bàn thờ nhỏ và trong am miếu 
        thờ tổ tiên, với một hệ thống soạn thảo tỉ mỉ về 
        chôn cất và tang chế, lễ nghi, thăm viếng mộ phần như dấu 
        hiệu lòng tôn kính sâu xa. Theo đạo đức, đức hạnh trước 
        nhất là hiếu thảo- một bổn phận phải phục vụ và 
        kính trọng cha mẹ và các bậc tiền bối không vì sợ hãi 
        hay lợi lạc. Tôn kính như vậy đưa đến kết quả đoàn kết 
        mạnh mẽ trong gia đình. Đức Khổng Tử rất quan tâm với 
        việc tôn kính trí tuệ của người cao tuổi. Kính trọng người 
        cao tuổi là một truyền thống cổ xưa ở Ấn Độ và một 
        số quốc gia.
        
Mặt khác hạnh kiểm tốt 
        như tử tế, kiên nhẫn, độ lượng, thành thật và khoan 
        dung cũng không thể diệt trừ được một số khó khăn vì 
        người xảo quyệt có thể lợi dụng đức tính tốt của 
        người khác. Cho nên những đức tính tốt phải được thực 
        hành một cách khôn ngoan.
        
Những nhân viên phúc lợi 
        xã hội đang cố gắng quét sạch những khó khăn nhân loại. 
        Nhưng sự đóng góp của họ chỉ giảm thiểu được một số 
        khó khăn của nhân loại. Một số người khác cố gắng giải 
        quyết những khó khăn của nhân loại bằng cách phân phát của 
        cải và lợi tức của quốc gia đồng đều cho dân chúng 
        trong xã hội gọi là xã hội chủ nghĩa. Dường như phương 
        pháp của họ cũng chẳng mấy hữu hiệu trong việc giải 
        quyết khó khăn của nhân loại, và đã thất bại ở một số 
        quốc gia, vì vị kỷ, xảo trá, biếng nhác và nhiều nhược 
        điểm khác có thể làm xáo trộn tình hình. Giáo dục khoa học 
        hiện đại thực ra đã tạo nhiều khó khăn hơn là vận động 
        cho hòa bình, hạnh phúc, và an ninh. Chính phủ cố gắng duy 
        trì hòa bình và trật tự bằng cách trừng phạt những ai 
        không tuân theo luật pháp. Nhưng trên khắp thế giới, hành 
        động tội lỗi và vô luân lan tràn nhanh chóng.
        
Những người kém hiểu 
        biết tìm đến bùa ngải, ma thuật, thần thông siêu nhiên 
        và bùa chú để vượt qua các khó khăn. Nhưng không một ai 
        biết họ đã có thể đạt được gì qua niềm tin và thực 
        hành như vậy.
        
Một số dùng phương 
        pháp bạo lực để giải quyết các khó khăn. Một số khác 
        lại giải quyết khó khăn bằng cách cải thiện đời sống 
        qua viện trợ tài chính.
        
Một số các nhà chức 
        trách tôn giáo, mặt khác cố gắng giải quyết các khó khăn 
        bằng cách minh họa quan niệm thiên đường để cám dỗ, 
        và làm cho sợ hãi bằng cách dọa họ về lửa địa ngục.
        
Dù sử dụng phương pháp 
        nào đi nữa để tránh các khó khăn, họ vẫn càng phải đối 
        đầu với nhiều khó khăn mới trong đời sống hàng ngày. 
        Nguyên nhân của tình trạng này là do tâm trí không được 
        huấn luyện, và tham dục vị kỷ hay những điều kiện bất 
        trắc của thế giới.
        
Khi chúng ta nghiên cứu 
        đời sống người nguyên thủy, chúng ta có thể thấy người 
        nguyên thủy, đối đầu tương đối ít khó khăn. Những khó 
        khăn này hầu hết chỉ là nhu cầu sống. Nhưng ngày này 
        trong xã hội gọi là văn minh hiện đại, nhiều khó khăn không 
        phải là chỉ do lòng ham muốn để được tiếp tục sống 
        mà vì chúng ta đi tìm nhiều dục lạc. Nhiều người cho rằng 
        mục đích của đời họ chỉ để thụ hưởng.
Chúng ta thường tạo các 
        khó khăn mới trong khi đang giải quyết các khó khăn hiện tại. 
        Nếu những khó khăn mới không đáng kể, chúng ta cố gắng 
        chịu đựng và làm điều chúng ta có thể nhẹ bớt buồn 
        đau. Chẳng hạn khi chúng ta bị bệnh loét dạ dày, chúng ta 
        bị đau, chúng ta đi bác sĩ khám bệnh. Nếu Bác Sĩ nói ta cần 
        phải được giải phẫu, chúng ta sæn sàng chấp nhận sự 
        việc nếu chúng ta muốn lành bệnh. Vì chúng ta biết không 
        có một giải pháp khác nữa, chúng ta quyết định đối đầu 
        với khó khăn mới là sự giải phẫu để trừ cái đau hiện 
        tại. Rồi chúng ta sæn sàng chịu đựng cái đau và cái khó 
        chịu trong cuộc giải phẫu nghĩ rằng cuối cùng không còn 
        đau nữa.
        
Cũng giống như vậy, 
        chúng ta muốn chấp nhận một số khó khăn hay đau đớn để 
        vượt qua khó khăn to lớn hiện tại. Do đó, đôi khi chúng 
        ta phải đối đầu với khó khăn với nét mặt vui tươi. Chúng 
        ta không thể vượt qua các khó khăn hiện hữu mà không phải 
        đối đầu với các khó khăn mới hay không phải hy sinh môt 
        thứ gì. Nhưng có môt điều rõ ràng là không thể giải quyết 
        tất cả những khó khăn của chúng ta vì khó khăn như những 
        làn sóng. Khi làn sóng này tan đi, nó tạo thành một lực 
        cho làn sóng khác nhô lên. Đôi khi sự có đi có lại cũng 
        giúp giải quyết khó khăn.
        
Đức Phật đã chủ trương 
        một phương pháp có ý nghĩa và thực tiễn trong việc giải 
        quyết các khó khăn. Ngài không cho ta môt giải pháp vá víu 
        chỗ này chỗ kia đơn giản để thỏa mãn chúng ta vào lúc 
        ấy. Ngài dạy chúng ta phuơng cách phải đi sâu vào gốc rễ 
        vấn đề và tìm ra nguyên nhân chính của nó. Phương pháp của 
        Ngài không phải chỉ để giảm thiểu triệu chứng của khó 
        khăn giống như một số thuốc men chỉ để loại bỏ triệu 
        chứng bệnh mà không chữa lành bệnh. Nếu một thứ thuốc 
        hay loại giảm đau công hiệu trong một lúc nào đó, nó bao 
        giờ cũng kèm theo một hay nhiều tác dụng phụ có hại.
        
Khi chúng ta bị đau bụng 
        hay nhức đầu nặng, chúng ta uống thuốc giảm đau. Chúng 
        ta cảm thấy dễ chịu hơn một lúc, rồi cơn đau trở lại. 
        Thí dụ chúng ta có một vết thương hết súc đau đớn trên 
        cơ thể. Sau khi thoa đủ mọi thứ thuốc, vết thương lành 
        . Khi một bác sĩ hay một người nào đó hỏi ' bây giờ bạn 
        cảm thấy thế nào?', chúng ta trả lời: 'chúng ta cảm thấy 
        dễ chịu hơn nhiều'. Nhưng chúng ta có thể định nghĩa từ 
        ngữ 'dễ chịu hơn' không? Ta có thể chứng minh cảm nghĩ dễ 
        chịu hơn như thế nào không? Đây có nghĩa là không còn 
        đau nữa. Về bất cứ điều gì trên thế giới này, khi 
        chúng ta nói cảm thấy dễ chịu, hay khá hơn là chỉ nói 
        cho người khác biết không còn khó khăn vào thời điểm đó. 
        Khi chúng ta nói chúng ta cảm thấy dễ chịu, chúng ta phải 
        hiểu cảm giác dễ chịu đó không lâu dài vì khi những hiệu 
        quả của thuốc giảm đau không còn tác dụng nữa thì 
        chúng ta lại bị đau trở lại. Đó là bản chất của đời 
        sống. Phương pháp của Đức Phật để đạt hạnh phúc vĩnh 
        viễn là nhổ tận gốc rễ khó khăn chứ không phải chỉ tạm 
        thời kìm nén chúng. Đương nhiên, một số người nói rằng 
        thật khó khăn thực hành lời Phật dạy, vì nó không làm 
        cho giảm đau ngay. Đức Phật dạy nguyên nhân khổ đau mọc 
        rễ thâm sâu cho nên chúng ta phải có các biện pháp mạnh mẽ 
        mới nhổ vĩnh viễn dược chúng để chúng không bao giờ 
        có thể trở lại được nữa.
        
Vê câu hỏi làm sao có 
        thể tận diệt hết được các khó khăn, Đức Phật trả lời:' 
        Khi môt người khôn ngoan, gìn giữ luân lý (giới), mở mang 
        tâm trí và chánh kiến, một người hăng hái và khôn ngoan 
        như vậy tự gỡ được rối rắm'. Một người chuyên cần 
        và hiểu biết, bởi nhận thức được bản chất thực sự 
        của cuộc sống, phát triển đạo đức và hạnh tự kỷ. 
        Giới có nghĩa là kỷ luật trong ý, lời nói và hành động 
        theo giới luật. Một người chuyên cần và khôn ngoan, biết 
        cách phải đối đầu với các khó khăn như thế nào và 
        làm sao để vượt qua chúng. Nơi đây Đức Phật khuyên 
        chúng ta phải lương thiện, chuyên cần và hành động khôn 
        ngoan nếu chúng ta muốn giải quyết những khó khăn. Không 
        có một phương pháp nào khác có thể đem đến giải pháp 
        cuối cùng cho những khó khăn của chúng ta.
Hệ thống giáo dục hướng 
        nghiệp hiện đại đào tạo các học sinh trang bị được 
        nhiều kiến thức học thuật hơn nhưng cũng phát triển 
        lòng vị kỷ. Hệ thống đó tạo ra người tài giỏi mà 
        không phát triển tinh thần đạo đức cho họ. Những người 
        như vậy không quan tâm đến người khác hay đến thế giới 
        miễn là họ được mức lợi lạc vật chất. Qua xảo quyệt 
        và áp dụng phương pháp khoa học để đạt ham muốn vị kỷ, 
        chính họ càng ngày càng lo âu.
        
Con người ích kỷ tham 
        đắm lạc thú hơn tất cả chúng sinh khác. Họ vui sống cuộc 
        đời trần tục và lạc thú nhục dục không nghĩ đến phúc 
        lợi của người khác hay sự sống còn của các loài khác. 
        Họ muốn sống lâu để hưởng khoái lạc. Họ phát triển 
        lòng tham tài sản mà họ tích lũy và sợ chết vì không muốn 
        ra đi bỏ lại các tài sản này trong khi các chúng sanh khác 
        không có các tư tưởng ích kỷ như vậy. Những chúng sanh 
        này chỉ sử dụng ý thức của họ để sinh tồn và sống 
        một cuộc đời thiên nhiên không làm hại người khác . Có 
        câu nói rằng chỉ con người mới tích lũy nhiều hơn số 
        lượng thực phẩm mà họ có thể ăn được. Tất cả những 
        con vật khác chỉ lấy cho đủ để được sống mà thôi. 
        Cái gì chúng không cần thì chúng không lấy và để cho kẻ 
        khác. Ngày nay, chúng ta không quan tâm cả đến sự nghỉ 
        ngơi mà say mê đến mức độ chúng ta trở thành nô lệ cho 
        lòng ham muốn được tự mãn.
Có người hỏi Euthanasia 
        nghĩa là gì? Từ này khởi nguyên từ danh từ ghép của Hy Lạp: 
        eu có nghĩa là tốt, và thanathox có nghĩa là chết. 
        Ghép lại với nhau từ này có nghĩa là một cái chết xứng 
        đáng không đau đớn.
        
Người ta đã bàn luận 
        nhiều đến việc có nên hợp pháp được chết (cho phép người 
        bệnh được tự tử với sự giúp đỡ của bác sĩ) là giết 
        người hay giết người để chấm dứt sự đau đớn. Lập 
        luận của phía ủng hộ hợp pháp nói rằng con người có 
        thể chết trong vinh dự, phẩm giá và tình thương.
        
Khi một người trong 
        gia đình hay một người thân bị bệnh trầm trọng và phát 
        triển các dấu hiệu phức tạp gây ra sự bất tỉnh khó 
        thay đổi được, người đó sống trong tình trạng hôn mê, 
        hay bộ não đã chết làm cho gia đình buồn đau và lo âu 
        trong việc săn sóc và nuôi dưỡng người bệnh- một gánh nặng 
        cho gia đình phải chịu đựng bằng sự can đảm phi thường 
        và sự kiên cường.
        
"Người bệnh trong 
        tình trạng hôn mê" là từ ngữ diễn đạt mới được 
        sử dụng trong y khoa. " Tình trạng hôn mê" nảy sanh 
        do sự hư hoại nặng nề của bộ não khiến bệnh nhân 
        không thể động đậy, nói và nuốt. Nhưng bệnh nhân vẫn 
        còn thở và tim vẫn đập không cần thiết bị trợ giúp. Nếu 
        có cử động thì những cử động cũng chỉ là do sự phản 
        ứng hơn là hành động do bệnh nhân điều khiển.
        
Vì kỹ thuật kéo dài 
        đời sống ngày càng tiến bộ, xã hội bắt buộc phải 
        đương đầu với câu hỏi căn bản: Bao giờ, đúng lúc 
        nào, đời sống chấm dứt? Trong khi hầu hết ai cũng đồng 
        ý bộ não không hoạt động tức là chết, trong giới y khoa 
        và công chúng đã có những tranh cãi về tình trạng hôn mê 
        của bệnh nhân.
        
Sự chẩn đoán "bệnh 
        nhân trong tình trạng hôn mê" theo Đại Học Y Khoa Hoàng 
        Gia Anh Quốc là một bệnh nhân đã ở trong tình trạng này 
        sau 12 tháng. Về thuật ngữ mô tả một người đau đớn 
        trong điều kiện này, không may từ 'vegetative' lại được lựa 
        chọn vì con người được sáng tạo khác hẳn cây cỏ hoàn 
        toàn.
        
Xác thân chết, nhưng có 
        đời sống sau khi chết. Niềm tin này được cả đến triết 
        lý gia Plato tin tưởng tuy ông cũng không có tư tưởng gì 
        khám phá ra tôn giáo từ trên hai nghìn năm qua.
        
Thêm vào sự không cử 
        động được và không giao tiếp được với thân quyến 
        trông nom mình, những người bất hạnh này đau khổ chịu 
        đựng sự đàm tiếu khinh khi vì bị đối xử như cỏ cây. 
        Và tệ hại hơn nữa, trong một số trường hợp, theo lời 
        yêu cầu của thân nhân, người bệnh không được tiếp tế 
        chất dinh dưỡng. Người thân cho như vậy để cho người bệnh 
        chết. Số người khác coi là như vậy để bệnh nhân đói 
        đến chết.
        
Chắc chắn, có một 
        bài học nơi đây cho tất cả chúng ta. Đời sống vô cùng 
        quý giá và không thể bào chữa được khi lấy đi mạng sống 
        của một người. Đương nhiên, chúng ta có bổn phận canh 
        chừng và cố gắng làm cho ông ấy hay bà ấy khỏe lại, 
        hay nếu không thể được thì ít nhất cũng có thể làm cho 
        người bệnh được an ủi chừng nào tốt chừng nấy.
        
Có một sự khác biệt 
        hẳn trên nguyên tắc giữa sự chấm dứt đời sống của một 
        người đồng loại và sự loại hay giảm thiểu sự đau đớn, 
        để cho người bệnh được an ủi và giữ phẩm giá đến 
        hơi thở cuối cùng. Đời sống thiêng liêng và ai cũng đáng 
        được kính trọng.
        
Có phải một người 
        thực sự đã chết khi người đó trong tình trạng hôn mê 
        và các cơ quan chính không còn hoạt động bởi máy móc hay 
        loại gì đó? Kỹ thuật y khoa tiến bộ và những phương pháp 
        tân tiến trong thế kỷ này đã đưa đến một sự khó xử 
        trong nhiều trường hợp, săn sóc những bệnh nhân hôn mê bất 
        tỉnh không hồi phục được, thường được biết là bộ 
        não đã chết.
        
Trước khi có những tiến 
        bộ, khi tim và phổi không hoạt động, bộ não cũng chết 
        ngay sau đó. Tương tự như vậy khi não không hoạt động, 
        tim và phổi cũng không hoạt động ngay sau.
        
Trong khi quan điểm y 
        khoa ít nhiều giải quyết như vậy, hậu quả hợp pháp của 
        những hành động hay không hành động của bác sĩ trong những 
        trường hợp như vậy thì bác sĩ hành động hay không hành 
        động trong những trường hợp như thế sẽ phải xét xử 
        thế nào vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Những bác sĩ này 
        có có bị kết án giết người hay ngộ sát khi tắt máy dưỡng 
        khí trong trường hợp vô vọng không?
        
Chết không đau đớn, 
        hay nói một cách thô thiển ' giết để chấm dứt khổ 
        đau', thường được hiểu là hành động nhân từ chấm dứt 
        đời sống của một người bị bệnh không thể chữa nổi. 
        Về phương diện pháp lý hay đạo lý hành động đó bị cấm 
        với loài người. Trong khi luật cho phép bác sĩ ngưng chữa 
        bệnh, bác sĩ không được phép dùng thuốc giết người hay 
        tiêm thuốc để chấm dứt m?ng sống của bệnh nhân. Cách 
        giải quyết như vậy cũng bị coi là bất hợp pháp ngay cả 
        khi nó phát xuất từ ý tưởng nhân đạo muốn chấm dứt sự 
        đau đớn cho người bệnh.
        
Tất cả những việc làm 
        trên không có nghĩa là kéo dài sự sống bằng bất cứ giá 
        nào khi nó rõ ràng đã đến lúc chấm dứt. Cho phép một người 
        chết ngụ ý xác nhận bệnh tình vô phương cứu chữa và 
        người đó được phép chết bình thường trong an lạc và 
        phẩm giá. Không được có một hành động cố ý phá hoại 
        mạng sống. Đúng hơn là không dính líu vào việc chũa trị 
        nữa vì biết sự chữa trị không thể thực hiện được. 
        Trong khi chúng ta phải kính trọng ước nguyện và quyền 
        được chết của một người, chúng ta không nên giúp người 
        đó chết hay tự tử.
        
Xét về luật pháp việc 
        ngưng máy trợ tim hoạt động có thể phù hợp với nhiệm 
        vụ săn sóc của bác sĩ không có nghĩa là, vì lý do chính 
        trị bác sĩ có nhiệm vụ cho bệnh nhân môt mũi tiêm giết 
        người để cho bệnh nhân không còn đau đớn.
        
Theo luật định một 
        người chịu trách nhiệm săn sóc một người khác không thể 
        chăm sóc được chính mình, thí dụ một em bé hay một người 
        yếu ớt, trở thành người chịu trách nhiệm vì giết người 
        hay ngộ sát vì đãng trí thì cũng giống như trước đây. 
        Trong khi chúng ta nên hoan nghênh kỹ thuật y khoa và việc sử 
        dụng các máy móc, như thuốc ' vi diệu', cấy ghép các bộ 
        phận cơ thể, máy lọc máu vân vân.., chúng ta nên coi chừng 
        tuột xuống dốc vào cái thung lũng chết "không đau đớn'.
        
Tháo máy trợ tim sau 
        khi bộ não đã chết, không phải quá đáng mà nói rằng đó 
        là vấn đề chung của bác sĩ và người thân nhất của người 
        bệnh sắp chết. Câu hỏi đặt ra là: Có phải tốt hơn là 
        để cho chết mau trong trường hợp vô vọng bằng cách tháo 
        máy này với người bệnh không? Một ý nghĩ đến ngay trong 
        tâm trí là: làm sao ta có thể chắc chắn là tình trạng đó 
        vô vọng? Những điều kỳ diệu vẫn có thể và xẩy ra, 
        tuy nhiên rất hiếm. Dù đúng hay không, ta chỉ có thể kết 
        luận một cách an toàn là có nhiều những huyền bí không 
        thể giải thích nổi trên thế giới này. Đó là một vấn 
        đề đã làm bối rối phương đông từ nhiều năm.
        
Phật Giáo không ủng hộ 
        cái 'chết không đau đớn' vì hai lý do. Thứ nhất mỗi 
        chúng sanh là kết quả nghiệp của mình trong quá khứ và bất 
        cứ sự can thiệp nào vào tình trạng của mình cũng sẽ chỉ 
        là tạm thời làm cho bớt đau đớn mà người đó phải chịu. 
        Lý do thứ hai kết tội sự ủng hộ nhầm lẫn cho cái chết 
        'không đau đớn' liên quan đến người giết và hành động 
        giết. Hành động giết dù bất cứ động cơ nào thúc đẩy, 
        cũng vẫn liên quan đến việc ngăn chia đời sống với xác 
        thân một cách chủ ý chống lại sự cấu tạo tự nhiên 
        con người theo năm yếu tố: năng lượng tinh thần, năng lượng 
        nghiệp, trật tự thời kỳ phôi thai, trật tự thời gian, 
        và và trật tự hiện tượng thiên nhiên. Cảm nghĩ biến thành 
        hình thức ác cảm đối với sự đau đớn được mục kích. 
        Người đó che đậy cảm nghĩ thật sự của mình làm như 
        đó là một hành động tinh thần đáng ca ngợi, và tự 
        mình bào chữa và cho là hợp với lẽ phải. Nếu người đó 
        hiểu tâm lý của chính mình hơn, sức mạnh của sự ác độc 
        ngủ ngầm xuất hiện ngay sau khi phạm hành động giết.
        
Tuy nhiên không cấm việc 
        sử dụng thuốc an thần hoặc các biện pháp làm người bệnh 
        giảm đau. Việc làm cho người bệnh bớt đau đớn bằng bất 
        cứ phương tiện gì, và tạo bầu không khí lành mạnh để 
        chữa trị đáng được ca ngợi. Tất cả những ai góp phần 
        làm giảm đau, phục vụ người bệnh cần ý thức rõ rằng 
        công việc của họ không chỉ là vấn đề học thuật hay 
        nhân từ, mà là liên kết với chân lý, một phương pháp 
        tâm lý loại trừ ích kỷ, ác cảm, và ảo tưởng.
Tự tử là một hành 
        động cố ý và tự ý lấy đi mạng sống của chính mình. 
        Tự tử rơi vào hai loại, tục lệ hay cá nhân. Loại thứ 
        nhất xẩy ra do kết quả của truyền thống và lực của 
        quan niệm quần chúng. Thí dụ như hara-kiri, tự tử bằng cách 
        mổ bụng bởi của người Nhật Bản khi bị nhục.
        
Tự tử cá nhân là loại 
        điển hình trong thời hiện đại. Lý thuyết thông thường 
        chấp nhận tự tử là kết quả của sự thất bại không 
        thích ứng đời sống của mình được với những căng thẳng 
        trong cuộc sống.
        
Tự tử là môt cách để 
        giải quyết những loại khó khăn riêng tư- cô đơn, ghét bỏ, 
        ham muốn, trả thù, sợ hãi, đau đớn thể xác, cảm nghĩ tội 
        lỗi vân vân... Đàn ông tự tử nhiều hơn đàn bà, và ở 
        mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, phụ nữ ít thành công hơn nam giới 
        vì không biết cách tự tử hay vì sự cảm xúc khác biệt.
        
Đa số những người tự 
        tử đều chán nản ngã lòng. Sự tác động cao nhất xẩy 
        ra nơi những người thất vọng kèm theo một cảm nghĩ đầy 
        vô vọng và mất hẳn sự quan tâm hay hứng thú trong các hoạt 
        động. Thêm vào, những người già, lẻ loi, ly dị. hay góa, 
        và nhất là những người ghiền rượu, ma túy, có nguy cơ 
        nhất. Những người không nhà cửa cũng tự tử nhiều hơn 
        người khác.
        
Mặt khác, thanh thiếu 
        niên tự tử là một vấn đề lo ngại. Từ những năm 1950, 
        tỷ lỷ lệ của hạng người này tăng gấp đôi ở những 
        nam giới đã trưởng thành. Tuy nhiên vì nhiều lý do, việc 
        này không xẩy ra với phụ nữ.
        
Một số chuyên viên cảm 
        thấy thanh thiếu niên tự tử do sự phức tạp và căng thẳng 
        của đời sống hiện đại. Được biết những chuyện bi 
        thảm trên truyền hình và những tin tức mới về tự tử 
        làm gia tăng con số thanh thiếu niên tự tử. Thất nghiệp 
        và áp lực thành đạt cũng là những yếu tố.
        
Có một số dấu hiệu 
        quan sát thấy, gồm có rút lui không giao du bè bạn và các 
        hoạt động thường lệ, không để ý tới dung mạo, thay đổi 
        hẳn trong thói quen ăn ngủ, lạm dụng ma túy và rượu. Một 
        số thanh thiếu niên biểu lộ ý định của chúng rõ ràng. 
        Chúng không còn thích những của cải sở hữu hay nói:' Tôi 
        không còn vấn đề gì nữa cả'. Hành động tự tử thường 
        do sự mất mát tình cảm như đoạn tuyệt vời người tình 
        hay gia đình ly dị.
        
Cho nên, khi bạn thấy 
        một trong những dấu hiệu thay đổi trên về cách cư xử - 
        bạn phải đặc biệt quan tâm đến- bạn nên lập tức nói 
        chuyện những điểm không hạnh phúc của đứa con với nó. 
        Chẳng hạn, hỏi nó cụ thể và trực tiếp là nó định làm 
        gì. Mổ sẻ những điều ấy ra có thể giảm thiểu nỗi lo 
        âu của nó, và nó sẽ cảm thấy nó được bạn hỗ trợ. 
        Chỉ như vậy rồi bạn mới có thể đi thẳng vào vấn đề 
        hoặc tìm những nhà chuyên môn giúp đỡ nếu cần thiết.
        
Tính chất dễ dãi của 
        xã hội hiện đại ngụ ý khoan hồng dối với cách cư xử 
        sai lệch có thể là một phần làm gia tăng các hành động 
        tự tử, nhất là tự đầu độc.
        
Thái độ của xã hội 
        đối với việc tự tử đã ít nặng nề hơn về đạo đức 
        và hình phạt. Bây giờ người ta đã sæn sàng hiểu biết hơn 
        là kết tội, nhưng khuynh hướng che giấu các hành động tự 
        tử vẫn còn.
        
Hành động tai hại tự 
        tử gây nên những phản ứng buồn đau và cảm nghĩ tội lỗi 
        về phần những người cảm thấy có thể ngăn ngừa bằng 
        cách chăm sóc và thương yêu nhiều hơn mà họ đã làm. 
        Không thỏa mãn được dục vọng và không làm được điều 
        mình muốn là nguyên nhân những vụ tự tử. Không có tôn 
        giáo nào tha thứ hành động ác độc này.
        
Điện thoại hiện nay 
        dùng làm phương tiện truyền thông giũa những người lẻ 
        loi và thất vọng có ý nghĩ quyên sinh, và tìm sự hỗ trợ 
        và khuyên nhủ của những người quan tâm trong xã hội. Cũng 
        giống như những Hội Vô Danh Giúp Đỡ người ghiền rượu, 
        và những tổ chức tương tự khác, những người tình nguyện 
        phục vụ như cố vấn đêm ngày và cơ quan của họ sæn 
        sàng giúp đỡ các trường hợp muốn tự tử bất cứ lúc 
        nào. Bằng chứng cho thấy các loại phục vụ này đã thực 
        sự ngăn ngừa được các vụ tự tử trên một mức độ rộng 
        lớn.
Tinh thần không quân 
        bình mà chúng ta coi như nổi điên là một khó khăn to lớn 
        khác. Vi phạm con đường đạo đức của đời sống, con 
        người xáo trộn an lạc và hạnh phúc của chính mình và người 
        khác. Rồi mang nhiều việc xẩy ra bên ngoài vào tâm, thì 
        càng nhiều khổ sở, kích động, sợ hãi và bất an được 
        tạo ra.
        
Nhiều người phải 
        đau khổ vì khủng hoảng và suy nhược thần kinh vì không 
        huấn luyện tâm trí để duy trì sự vừa lòng. Họ chỉ 
        phát triển lòng tham dục về lạc thú nhục dục. Với họ 
        phát triển có nghĩa là phát triển lòng tham dục.
        
Kết quả là họ phát 
        triển sự tranh đua không lành mạnh và bạo động. Cho nên 
        họ đã đảo lộn thế giới vào một tình trạng hỗn loạn. 
        Sau rồi mọi người kêu gào hòa bình. Người ta kết tội 
        thượng đế hay ma quỷ đẩy họ vào lầm than. Họ cầu 
        nguyện và van vái để thoat khỏi những khó khăn do chính họ 
        tạo ra.
        
Bây giờ chúng ta có thể 
        hiểu ai là người thực sự tạo khó khăn và ai có thể vượt 
        qua được những khó khăn ấy. Đức Phật dạy thế giới 
        ở trong chính bạn. Khi bạn tự ghép mình vào kỷ luật, 
        toàn thế giới sẽ có kỷ luật và hòa bình sẽ được duy 
        trì. Không cần thiết phải cầu xin hòa bình từ những người 
        khác. Tốt hay xấu, hòa bình hay bạo động, tất cả hiện 
        hữu do tâm được huấn luyện hay không được huấn luyện.
Từ căng thẳng mượn 
        từ vật lý và kỹ thuật xây dựng, có nghĩa đúng là: một 
        lực đủ lớn để bóp méo hay làm biến dạng. Trong chữa 
        trị bệnh tinh thần, căng thẳng là những phản ứng thể 
        xác và tinh thần của một cá nhân đối với áp lực của 
        môi trường xung quanh và ở trong chính mình. Có hai loại bị 
        căng thẳng chính là: bị căng thẳng vì mất người thân, 
        công việc làm, hay lòng tự trọng phát xuất khi mức độ 
        hoài vọng của một con người qúa cao; và một loại bị căng 
        thẳng là do những sự đe dọa đến địa vị, mục tiêu, sức 
        khỏe và an ninh của một cá nhân. Tình trạng bị căng thẳng 
        trở thành một phần không thể tránh được trong đời sống, 
        và làm cho người ta luôn luôn bị khích động. Khi nó xẩy 
        ra, quá sức chịu đựng, gây đau khổ cả về thể chất lẫn 
        tinh thần.
        
Tình trạng bị căng thẳng 
        nguyên do một trong những yếu tố gồm có, sự thay đổi, cả 
        tốt lẫn xấu, khó khăn cá nhân, khó khăn về thể chất, 
        đau yếu vân vân... Nguồn gốc thông thường là do: cái chết 
        của vợ chồng, hay bạn thân, ly thân, ly dị, khó khăn về 
        tình dục, thay đổi chỗ ở, con cái bỏ nhà ra đi, mang 
        thai, cầm cố nhà cửa, bị đuổi việc, thất nghiệp, thay 
        đổi trách nhiệm trong việc làm hay không hài lòng với chủ 
        nhân.
        
Mỗi quãng đời của 
        con người có một tình trạng căng thẳng riêng. Lúc bắt đầu 
        vào đời, đứa trẻ phải đối đầu trực tiếp với người 
        thân trong gia đình, những đòi hỏi của nhà trường, phải 
        điều chỉnh cho thích hợp với cá tính của thầy giáo và 
        các bạn trẻ khác nên có thể bị căng thẳng cũng như những 
        vấn đề trai gái trong tuổi thanh xuân sau này.
        
Rồi tiếp đến những 
        căng thẳng học thuật của những năm tại đại học, và sự 
        lo âu về việc chọn nghề. Sau đại học hầu hết gặp khó 
        khăn trong những năm đầu sau khi lập gia thất. Những khó 
        khăn này rất nghiêm trọng và thường dẫn đến sớm ly dị. 
        Những vấn đề có con cái là gánh nặng cho phụ nữ, trong 
        khi người đàn ông lại nặng về nghề nghiệp.
        
Một số bệnh do tình 
        trạng bị căng thẳng gồm có bệnh lở loét dạ dày, đau bên 
        đầu, phiền muộn, áp huyết cao, đột quị, và ngất sỉu 
        do tim. Bị căng thẳng liên tục sẽ làm suy yếu hệ thống 
        miễn nhiễm làm giảm sự hữu hiệu trong việc đối kháng 
        sự nhiễm trùng. Một số nhà hữu trách cho bị căng thẳng, 
        quá sức và kinh niên có thể phát thành bệnh ung thư.
        
Trong thời gian bị 
        căng thẳng, cơ thể tiết ra tầng đợt chất hóa học ở 
        não, và chất hormones gồm có cả chất adrenaline và 
        hydrocortisone, những chất này tác động được biết như phản 
        ứng của sự "chiến đấu hay chạy trốn". 
        Adrenaline làm tăng nhịp tim và nhịp thở, xác thân sæn sàng 
        chống cự lại với sự đe dọa bên ngoài, hay không chống 
        nổi. Hydrocortisone giúp chống căng thẳng. Như vậy khi ta 
        nghe một tin buồn trong điện thoại, phản ứng cúa ta tức 
        khắc bị tác động bởi chất adrenaline, kế theo bởi sự 
        tiết ra tiết ra chất hydrocortisone gia tăng .
        
Chất hormones giúp ta đối 
        đầu với tình trạng bị căng thẳng trong một thời gian ngắn, 
        tuy nhiên có thể gây ra khó khăn sức khỏe nếu chúng ta tiếp 
        tục bị lâu dài căng thẳng. Bị căng thẳng không ngớt 
        làm xác thân tiết ra chất adrenaline và hydrocortisone thường 
        xuyên, và đồng thời những chất đó trong mạch máu có thể 
        gây xói mòn. Mức độ adrenaline ở mức độ kéo dài và 
        cao, chẳng hạn, buộc tim và phổi phải làm việc quá giờ, 
        và giữ áp huyết cao hon mức độ thường. Trong thời gian này, 
        những sự thay đổi ấy có thể làm thành strokes (đột quị) 
        hay bệnh tim.
        
Lo âu là cảm nghĩ sợ 
        sệt, căng thẳng hay khó chịu khi ta phải đối đầu với 
        nguy hiểm. Chúng ta đều phải đối đầu với lo âu để 
        thi hành tốt một nhiệm vụ khó khăn, nhưng thái quá làm ta 
        có thể trở thành bất lực. Rối loạn lo âu gây thành 
        nhóm thông thường nhất bệnh thần kinh, gồm có ám ảnh sợ 
        hãi, lo sợ bị tấn công, và bị rối loạn căng thẳng hậu 
        chấn thương. Nhiều người bị ám ảnh sợ hãi như sợ hãi 
        một vật gì hay một tình trạng đặc biệt nào đó. Ám ảnh 
        lo sợ rất thông thường, chiếm khoảng 3% dân số.
        
Ám ảnh sợ được định 
        nghĩa như ám ảnh, cố chấp, không thực tế, sợ hãi triền 
        miên một đồ vật hay tình trạng nào đó. Đa số ám ảnh 
        sợ hãi là chứng sợ độ cao, sợ không gian giam hãm, sợ 
        hãi phải xa gia đình hay ở chỗ đông người, và sợ người 
        lạ. Những người này có khuynh hướng tránh tình trạng có 
        đông người để khỏi bị bẽ mặt hay bối rối. Mất ngủ, 
        hay khó ngủ, thường thấy ở nhiều người trong nhiều hoàn 
        cảnh khác nhau. Trên thực tế, trên 10% người gặp khó khăn 
        về vấn đề ngủ. Nếu ta phải đối đầu với công việc 
        tạm thời có hạn định thời gian, hay dưới nhiều áp lực, 
        ta có thể lo lắng cho nên mất ngủ. Cơ thể chúng ta ưa thích 
        hoạt động theo thường lệ, cho nên những công nhân làm 
        theo ca gặp khó khăn điều chỉnh giấc ngủ.
        
Một số người, đặc 
        biệt những cựu chiến binh, có thể đau đớn từ cái gọi 
        là hậu chấn thương biến cố trong chiến tranh như những 
        tiếng nổ bởi đạn trái phá và sau các trận đánh, thường 
        phát triển phản ứng căng thẳng lâu dài. Những triệu chứng 
        xuất hiện hay gia tăng sau khi chấn thương đã qua từ lâu. 
        Người đó có thể bị những chứng như ý nghĩ lộn xộn, 
        thấy quá khứ như hiện tại, ký ức hãi hùng hay những cơn 
        ác mộng. Người đó cũng có thể hết sức cáu kỉnh hay lo 
        lắng, và rất dễ dàng hoảng hốt. Vào lúc đó người đó 
        hình như co mình lại, không còn để ý gì đến những điều 
        thường thích truớc đây, cảm thấy lẻ loi xa những người 
        khác.
        
Điều tốt nhất có thể 
        đối trị căng thẳng hay tình trạng căng thẳng trong đời 
        sống hàng ngày hiển nhiên quan trọng là: ăn uống điều độ, 
        ngủ đủ, vận động hàng ngày, và dành thời gian giờ vào 
        các việc mà mình thích. Không hút thuốc, uống rượu hay các 
        chất ma túy khác. Người dễ bị thất bại và tinh thần nhậy 
        cảm căng thẳng, có thể tìm cách giảm thiểu phản ứng bằng 
        cách học nghỉ ngơi, thiền định, và học phương pháp thay 
        đổi tính tình.
Năng lượng tinh thần 
        đặc biệt hay trí tuệ mà con người có được không thể 
        tìm thấy ở những chúng sanh khác. Tuy nhiên năng lượng 
        tinh thần này hoang dại, phóng túng, nó cần phải được huấn 
        luyện và kiểm soát mới đem lợi lạc cho chúng ta. Nếu 
        không, tâm trí sẽ là nguồn gốc chính của những khó khăn. 
        Khi tâm trí được kiềm giữ đúng qua sự huấn luyện 
        chuyên cần, thì hòa hợp, hiểu biết và hòa bình sẽ chiếm 
        ưu thế và chúng ta có thể thi hành những hành vi rất lương 
        hảo không những cho chính chúng ta mà còn cho người khác. 
        Chúng ta hãy lấy thí dụ về một thác nước lớn. Chúng ta 
        hãy tưởng tượng năng lượng to lớn phí phạm như nước 
        chảy từ trên hàng ngàn bộ cao trên sườn núi cao. Nhưng 
        khi con người kiểm soát được năng lượng ấy và biến 
        chúng thành điện, dân chúng được lợi lạc từ năng lượng 
        ấy. Nhưng nhớ rằng, cả đến khi tâm trí được huấn luyện, 
        chúng ta áp dụng dù biện pháp ngăn ngừa nào để tránh bất 
        toại nguyện trong đời sống của chúng ta, luật vũ trụ vô 
        thường vẫn thay đổi mọi thứ trên thế giới này. Đó 
        là bản chất của cuộc sống. Mọi thứ hiện hữu đều 
        thay đổi và tan rã theo nhũng điều kiện trần thế. Sự phối 
        hợp của các yếu tố, năng lượng và sự hiện hữu tạo 
        ra vật mà chúng ta có thể nhìn thấy, sờ thấy, khiến cho 
        ta ảo giác về sự vững chắc và thường còn. Nguyên nhân 
        của sự thay đổi là sự ma sát của các yếu tố và năng 
        lượng. Khi một vật nhìn thấy tan và theo thời gian, đó 
        là sự phân hủy của yếu tố và năng lượng được hợp 
        thành. Năng lượng không mất, nhưng biến đi chuyển thành dạng 
        thức khác và tiến trình tiếp tục vô tận. Đó là hiện tượng 
        thiên nhiên và mỗi vật hợp thành (do duyên hợp) đều được 
        tạo nên bằng cách đó. Không có lý do gì để chúng ta coi 
        hiện tượng trên là sự tạo ra một chúng sinh siêu phàm 
        hay đó là kết quả của một tội lỗi nguyên thủy bị trừng 
        phạt. Người Phật Tử coi đó là một hiện tượng tự nhiên. 
        Nhưng nhiều người coi tình trạng này là một khó khăn vì 
        những sự thay đổi và vô thường không thỏa mãn lòng ham 
        muốn một cuộc sống vĩnh cửu. Tính bất toại nguyện của 
        đời sống bắt đầu khi chúng ta nhận thức được đời sống 
        bất diệt khác ở thiên đàng hay trong địa ngục, là điều 
        không thể có được.
        
Năng lực của xác 
        thân chúng ta cũng là một phần của lực vũ trụ ảnh hưởng 
        đến những yếu tố và năng lượng trong phạm vi thân thể 
        chúng ta. Một số khó khăn vật chất và tinh thần cũng do 
        những ảnh hưởng này. Một số lực khác cũng nhiễu loạn 
        đời sống của chúng ta mà người ta coi đó gây ra bởi ma 
        quỷ. Sợ hãi, tưởng tượng, nghi ngờ, và dị đoan, lúc 
        nào cũng nuôi dưỡng niềm tin như vậy để nhiễu loạn tâm 
        trí. Khi tâm trí bị nhiễu loạn, chúng ta phải đau đớn thể 
        xác.
        
Tuy nhiên, khi tâm trí 
        chúng ta được huấn luyện kỹ càng và mở mang qua sự hiểu 
        biết, chúng ta có thể ngăn ngừa những khó khăn ấy nảy 
        sinh.Cho nên Đức Phật dạy "Tâm là kẻ tiền phong của 
        tất cả trạng thái thiện và ác, tốt và xấu vì những trạng 
        thái tâm ấy là do tâm tạo ra'" Thực ra chúng ta đau khổ 
        vì những khó khăn, những khó khăn này là kết quả của những 
        ảo giác của chúng ta. Bằng cách theo lời khuyên của Đức 
        Phật, chúng ta có thể đoạn trừ sợ hãi và vô minh.
Một vấn đề khác mà 
        người dân phải đối đầu ngày nay làm thế nào khi cái chết 
        đến với người thân của mình, kể cả cha mẹ. Chúng ta 
        phải hiểu rằng chết xẩy ra tự nhiên, ta càng thương cha 
        mẹ già của ta bao nhiêu ta lại càng phải hiểu rằng theo 
        sinh vật học, tế bào trong con người có một đời sống 
        giới hạn. Thời điểm đến khi những tế bào ấy không thể 
        tự đổi mới được. Khi tuổi già đến mức cùng cực, những 
        tế bào mất khả năng giữ quân bình tiến trình phá hủy 
        và sửa chữa, và không giữ cơ thể mạnh khỏe được.
        
Lịch sử con người chẳng 
        có gì khác ngoài cách làm sao chạy trốn khỏi cái chết. 
        Nhiều văn hóa khác nhau đã cố gắng tìm cách chạy trốn 
        khỏi cái chết bằng các đường lối khác nhau.
        
Tâm cần một cuộc sống 
        vĩnh viễn nhưng đời sống lại tạo xác thân vật chất 
        vô thường và ta gọi đó là đời sống. Sau đó sự bất 
        toại nguyện đó xáo trộn tâm.
        
Với những người có 
        một sống lâu và hạnh phúc tương đối, có sự tu tập vững 
        vàng do huấn luyện, cái chết sắp xẩy đến là một hiện 
        tượng tự nhiên với họ. Khi thời điểm đến, người sắp 
        chết trở nên điềm tĩnh, từ bỏ thế giới này một cách 
        bình thản, tin là mình đã sống một cuộc đời không hại 
        ai, đã đóng góp vào sự tiến bộ cho nhân loại. Nơi có những 
        niềm tin thâm sâu và văn hóa thuần khiết, quan niệm cái chết 
        không tránh được, là phần tự nhiên của vòng đời được 
        chấp nhận. Tại những xã hội đó, người ta chấp nhận với 
        triết lý đó là sự không thể tránh khỏi này và bao giờ 
        cũng đối xử với thái độ đàng hoàng bình thản.
        
Loài người là chúng 
        sanh duy nhất có thể hiểu được một ngày nào đó phải 
        đương đầu với cái chết. Cho nên tại sao chúng ta không cần 
        thiết phải lo lắng về việc đó. Lo âu về cái chết 
        không thể ngưng nó lại được, vậy nên tại sao ta không 
        chấp nhận nó một cách bình tĩnh? Văn hào Shakespeare viết 
        Julius Caesar nói:
        
' Trong tất cả những 
        kỳ diệu mà tôi đã nghe và thấy. Đối với tôi dường 
        như rất lạ lùng là con người sợ hãi (cái chết). Vì cái 
        chết ấy, sự chấm dứt cần thiết, sẽ đến khi nó phải 
        đến'.
        
Mặt khác có những người 
        không mảy may quan tâm khi chấm dứt cuộc đời hay cái gì sẽ 
        xẩy ra sau đó. Tuy nhiên, một số đông không những lo lắng 
        về những khó khăn hiện hữu mà còn lo lắng về kiếp sau. 
        Tất cả những chúng sanh khác đều không có cảm nghĩ đó.
        
Chúng ta phải hiểu rằng 
        dù ta áp dụng phương pháp nào để vượt qua những khó khăn, 
        chúng ta không thể nào được hoàn toàn thỏa mãn trong đời 
        sống cho đến khi tâm ta được huấn luyện và giảm thiểu 
        ham muốn vị kỷ. Giáo lý của Đức Phật trình bày rõ 
        ràng để ta hiểu bản chất những khó khăn nhân loại, làm 
        sao khắc phục chúng, và làm sao đối đầu với cái chết 
        mà không sợ hãi.
        
Hãy nhớ câu nói giản 
        dị trong Phật Giáo: ' Đời sống mong manh nhưng cái chết 
        là điều chắc chắn' . Chết không phải là chấm dứt đời 
        sống. Thực ra, chết chỉ là sự bắt đầu của đời sống 
        và sanh là sự bắt đầu của cái chết. Mặt trời lặn tại 
        xứ này lại mọc tại xứ khác. Cho nên sanh và chết tương 
        quan liên hệ lẫn nhau.
        
Sanh của con người là 
        cái sanh phiền não. Càng sống lâu bao nhiêu thì lại càng trở 
        nên đần độn bấy nhiêu. Cay đắng làm sao, người đó sống 
        cho cái mà không bao giờ đạt được. Cái ham sống trong tương 
        lai khiến người đó không thể sống trong hiện tại '. 
        (Trang Tử)
        
Đức Phật nhắc nhở 
        chúng ta tất cả mọi thứ hiện hữu đều vô thường. Có 
        sanh là có tử; có mọc lên thì có tàn lụi, có xum họp 
        thì có chia lìa. Làm sao có sanh mà không có tử? Làm sao có 
        sum họp mà không có chia ly?
        
Sanh và tử là hai đầu 
        của cùng một sợi dây. Chúng ta không thể lấy đi cái chết 
        và chỉ để lại cuộc sống. Đầu tiên con người tranh đấu 
        để tránh cái chết. Sau đó người đó sửa soạn cho cái 
        chết. Thực ra chúng ta không sống mà vật lộn để sống. 
        Cái đó gọi là sống.
        
        TÍNH 
        CHẤT THIÊNG LIÊNG CỦA ĐỜI 
        SỐNG CON NGƯỜI
        
        NHỮNG LỜI PHẬT DẠY 
        - (KINH PHÁP CÚ)
        
        
          Không vì mình, cũng 
          không vì người mà người trí làm bất cứ điều gì sai 
          trái; không nên cầu con trai, giàu có, vương quốc bằng việc 
          sai trái; không nên cầu mong thành công của mình bằng những 
          phương tiện bất chính. Được vậy mới thật là người 
          đạo đức, trí tuệ và ngay thẳng. - 84
          Sống trăm tuổi mà 
          phá giới buông lung, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà 
          trì giới, tu hành. -110
          Kẻ ác cho là vui 
          lúc việc ác chưa chín; đến khi việc ác mang trái, kẻ 
          ác mới nhìn thấy kết quả tội lỗi. -119
          Người thiện cho là 
          khổ khi việc lành chưa chín; khi việc lành mang trái, người 
          thiện mới nhìn thấy kết quả tốt. -120
          Kẻ làm hại người 
          không làm hại ai, thanh tịnh và vô tội, tội ác sẽ quay 
          trở lại kẻ ấy như bụi bay ngược gió. -125
          Kẻ muu cầu hạnh 
          phúc cho mình mà lại dùng gậy gộc phá hoại hạnh phúc 
          người khác, sẽ không được hạnh phúc. -131
          Khi kẻ ngu dại 
          làm điều sai quấy, kẻ đó không hiểu bản chất của tội 
          lỗi; bởi hành vi của chính mình kẻ ngu dại đó bị dau 
          khổ giày vò, giống như người bị lửa đốt . -136
          Kẻ lấy gậy gộc 
          hãm hại người lương thiện không gậy gộc, do hành vi tội 
          lỗi của chính mình không bao lâu phải chịu một trong những 
          thống khổ sau: thân thể bị đau đớn, bại hoại, hoặc 
          bị trọng bệnh, tán tâm loạn ý, b? bức bách hay bị kết 
          trọng tội, hoặc bị quyến thuộc ly tán, tài sản tan 
          nát, hoặc bị lủa cháy. Ngay khi xác thân bị hủy diệt, 
          con người ngu dại ấy sẽ sanh vào các cõi đau khổ. -138, 
          139, 140
          Nếu tự biết 
          thương mình, ta nên bảo vệ mình bằng cách gìn giữ tâm 
          ý. Trong mỗi ba thời, người trí phải luôn tỉnh thức. 
          -157
          Tội lỗi gây ra tự 
          nơi mình, và cũng tư nơi mình gây ra ô trược. Tự mình 
          không gây tội lỗi, và cũng tự mình thanh tịnh lấy 
          mình. Thanh tịnh hay không thanh tịnh do chính nơi mình. 
          Không ai có thể thanh tịnh người khác được. -165
          Người nào trước 
          làm điều tội lỗi, nay biết làm lành, người như vậy là 
          người chiếu sáng thế gian như vừng trăng ra khỏi mây 
          mù. -173
          Sung sướng thay ta 
          sống không hận thù giữa những người thù hận; giữa những 
          người thù hận, ta sống không hận thù. -197
          Người thắng chuốc 
          thù oán, kẻ bại sống trong đau khổ. Chẳng màng tới thắng 
          bại, sẽ sống đời hạnh phúc an vui. -201
          Từ ái dục nảy mầm 
          lo âu, từ ái dục nảy mầm sợ hãi, người xa lìa ái dục 
          không còn lo âu, chẳng còn sợ hãi. -216
          Lấy tình thương 
          thắng nóng giận. Lấy hiền lương thắng bạo tàn. Lấy bố 
          thí thắng san tham. Lấy chân thật thắng dối trá. -223
          Như rỉ sinh ra từ 
          sắt, rồi lại trở lại ăn sắt, cũng vậy, hành vi ác của 
          chính người đó sẽ dẫn người đó vào cõi thống khổ. 
          -240
          Không lửa nào bằng 
          lửa ái dục, không cố chấp nào bằng sân hận, không lưới 
          nào bằng lưới ảo tưởng, không sông nào bằng sông tham 
          dục. -151
          Thấy lỗi người 
          thì dễ, thấy lỗi mình mới khó. Lỗi người, ta sàng như 
          sàng gạo để phanh phui, còn lỗi mình, ta cố che giấu như 
          kẻ cờ gian bạc lận che giấu quân bài. -252
          Người sợ cái 
          không đáng sợ, không sợ cái đáng sợ, cứ ôm tà kiến 
          ấy, địa ngục khó lánh xa. -317
          Lỗi biết rằng lỗi, 
          không lỗi biết rằng không lỗi. giữ tâm chánh kiến ấy, 
          đường lành thấy chẳng xa. -319
          Nếu không có bạn 
          đồng hành khôn ngoan sống với bạn, người hiền lương 
          và trí tuệ hãy giống như vua bỏ nước loạn, nên sống 
          một mình như con voi sống trong rừng voi. -329
        
        
        -- Kinh Pháp Cú