Chương 4: Hội nhập xã hội
Theo Phật giáo, con người chủ yếu bao gồm hai phần Tâm và Sắc (Nāma 
và Rūpa) hay còn gọi là tinh thần và vật chất. Đối tượng của Tâm là 
pháp, còn Sắc thì được cấu tạo bởi các nguyên tố vật chất.
Tâm đề cập ở đây đồng nghĩa với Thức (citta) bao gồm bốn loại: Tâm 
thiện, tâm bất thiện, tâm quả hay tâm dị thục và tâm hành hay tâm duy 
tác(1). Những loại tâm nào sinh khởi với vô tham, vô sân và vô si gọi là
 tâm thiện. Những loại tâm nào tùy thuộc vào nơi tham, sân và si để sinh
 khởi gọi là tâm bất thiện.
Các tư tưởng thiện và bất thiện này được gọi chung là Nghiệp; các 
hành động có tác ý tùy thuộc vào chính bản chất của hành động đó mà sinh
 khởi.
Tương tợ như bóng với hình, như vang theo tiếng, mỗi tư duy có tác ý 
đi liền với sáu điều kiện sinh khởi (vô tham, vô sân, vô si; tham, sân, 
si) mà sinh ra kết quả.
Những loại tâm nào mà chúng ta chắc chắn phải lãnh thọ từ các ý nghĩ 
thiện và bất thiện gọi là tâm quả hay tâm dị thục. Những loại tâm mà chư
 Phật và các vị A-la-hán, những bậc chân nhân đã đạt đến giác ngộ, do 
đoạn tận năng lực tái tạo của nghiệp, được gọi là tâm hành hay tâm duy 
tác(2).
Theo Phật giáo, hội nhập xã hội có nghĩa là nỗ lực thay đổi những 
hành vi có cội rễ bất thiện trở thành những hành vi thiện. Mục đích tối 
hậu của tiến trình này là đạt tới niết bàn hay giải thoát tối hậu; còn 
mục đích trước mắt là tạo dựng cuộc sống hiện tại an lạc hạnh phúc, cũng
 như đảm bảo một cuộc sống an lành như thế trong tương lai của đời này 
và đời sau.
 
Như thế, khái niệm về hội nhập xã hội phải được hiểu ở cả hai phương 
diện: Hội nhập xã hội tối hậu và hội nhập xã hội ở ngay đời sống hiện 
tại. Vì vô minh che lấp, nên lòng tham của con người ngày càng tăng 
trưởng, vì thế, đã che lấp khả năng nhận thức của chính mình. Kết quả là
 ta mất khả năng thích nghi với nội tại và ngoại tại, thất bại trong 
việc hợp nhất những nhân cách riêng trong mỗi chúng ta.
Theo quan điểm Phật giáo, rất ít người trong số chúng ta nỗ lực để 
đạt đến mục tiêu cuối cùng của một xã hội lý tưởng (được ví như Niết 
Bàn) “Chỉ có một số ít chúng sanh có thể đến bờ bên kia (giải thoát), số
 còn lại chỉ loanh quanh bờ bên này”(3). Dẫu cho bản chất cuộc sống là 
như vậy, nhưng để sống trong một xã hội và để thích nghi với nhau cũng 
như thiết lập một sự hài hòa trong mỗi tự thân thì sự hội nhập xã hội 
hiện tại trở nên hết sức thiết yếu.
Theo quan điểm về thời gian, quá trình hội nhập xã hội xuyên suốt qua
 nhiều đời nhiều kiếp. Quá trình hội nhập xã hội mà chúng ta đang kinh 
qua được xem như nền tảng để chúng ta hội nhập xã hội trong cuộc sống 
hiện tại, tương lai cũng như ở kiếp sau. Điều đó, không chỉ thích nghi 
với xã hội mà còn phù hợp với mưu cầu an lạc cho chính mình và người 
khác. Điều này chỉ có thể thực hiện một khi chúng ta nỗ lực thay đổi 
những tâm hành bất thiện thành thiện tâm.
Phật giáo không chấp nhận cái ‘ngã’ thường hằng, vĩnh viễn. Ngã là 
một khái niệm được tạo ra bởi chính vô minh của chúng ta. “Ta” (một cá 
nhân) và “chúng ta” (xã hội) tạo ra cái ngã (“Tôi”) này. Và sau khi tạo 
ra một cái Ngã như vậy rồi, chính cái Ngã này trở thành một vòng tròn 
khiến chúng ta chạy theo nó. Sự nhận thức bản chất của khái niệm về Ngã 
giúp chúng ta thăng tiến trên con đường hội nhập xã hội tối hậu (đạt 
được Niết bàn).
Vì quan niệm về luân hồi cho nên Phật giáo xem hội nhập xã hội cũng 
có tính luân hồi. Con người tái sinh từ kiếp sống này đến kiếp sống khác
 và quá trình hội nhập xã hội cũng mang theo mọi tác động của đời sống 
này sang đời sống kế tiếp. Kết quả do nghiệp mà chúng ta thực hiện trong
 đời này sẽ phát khởi trong đời kế tiếp. Vì thế, hội nhập xã hội là một 
quá trình liên kết đời sống của một con người từ kiếp này đến kiếp khác.
Tự nguyện: Không gây tổn thương sinh linh; không lấy của không cho; 
không tà dâm; không nói dối và không uống rượu hay các chất làm say tạo 
thành năm giới cấm.
“…Những quy tắc sau đây rất cơ bản trong cuộc sống: Quyền sống bao 
gồm việc tôn trọng cuộc sống của người khác. Quyền sở hữu vật chất gồm 
cả việc tôn trọng tài sản của người khác. Quyền hưởng thụ cuộc sống cũng
 chứa đựng việc thừa nhận người khác cũng có quyền tương tự; quyền được 
thụ hưởng thú vui cuộc sống liên quan đến trách nhiệm chấp nhận mọi 
người có quyền tương tự như vậy (ngụ ý không nên cưỡng đoạt niềm vui của
 người khác làm niềm vui cho mình) - người dịch chú thích thêm - và 
trong trường hợp hưởng thụ thái quá phải nên ngoài các quyền tư hữu (kể 
cả niềm vui) của người khác, không nên cướp đoạt niềm vui kẻ khác. Quyền
 tìm kiếm lẽ phải bao gồm phận sự sống chân thật bởi sự giao hảo không 
thể thực hiện với người bất tín. Nếu một người say bởi rượu hay các chất
 khác thì chính người đó đánh mất sự tự trọng bản thân cũng như mất khả 
năng tự chủ, người đó sẽ trở thành kẻ quấy rầy”(4).
Năm giới này “Tạo thành nền tảng các quyền lợi và nghĩa vụ qua lại 
giữa con người với nhau, giữa cá nhân và xã hội, giữa quốc gia này với 
quốc gia khác. Chúng dựa trên nền tảng của sự hiểu biết, địa vị hay mối 
quan hệ xã hội của một cá nhân. Chúng thừa nhận sự hiện hữu của mỗi cá 
nhân, nhưng là những thực thể không tách biệt. Chúng thừa nhận mỗi cá 
nhân chính là một phần thiết yếu và không thể tách rời trong một tiến 
trình mà nếu không có sự nỗ lực cá nhân thì tiến trình đó sẽ không 
chuyển động hay phát triển. Chính mỗi cá nhân tạo nên thế giới và làm 
cho thế giới quay xung quanh mình. Và cũng chính cá nhân ấy hòa mình vào
 quá trình này và không thể tách rời khỏi tiến trình này”(5).
Trong quá trình chuyển đổi những căn hành bất thiện sang những căn 
hành thiện nơi tâm, một cá nhân phải tu tập mười đức hạnh sau để chuyển 
mình hội nhập hoàn toàn vào xã hội. Mỗi đức hạnh đều có liên quan đến 
hai thực thể có trong xã hội đó chính là cá nhân đang chuyển đổi và 
những người khác trong xã hội. Đức hạnh thứ nhất là bố thí, còn tham lam
 là bất thiện. Trong một gia đình, đây là nguyên tắc cơ bản nhất, chia 
sẻ vật chất và tinh thần cho mọi thành viên. Sự chia sẻ có trong xã hội 
dưới những mức độ khác nhau. Nhưng với một người thực tập công hạnh bố 
thí thì người đó phát triển công hạnh này ở cấp độ cao nhất. Tùy thuộc 
vào công hạnh bố thí mà người đó đang thực tập sẽ cho biết anh ta đang ở
 cấp độ nào trong quá trình hội nhập xã hội này.
Đức hạnh thứ hai là kỷ luật (trì giới). Ở cấp độ thấp nhất, chúng ta 
chịu tác động bởi những kỷ luật từ bên ngoài. Cha mẹ đề ra kỷ luật đối 
với con cái. Thầy cô tại trường đề ra kỷ luật đối với học sinh. Xã hội 
hay cộng đồng yêu cầu chúng ta phục tùng không những luật pháp mà còn 
những tập tục truyền thống hay các tục lệ đã có sẵn. Ngoài ra, có những 
nhóm riêng biệt hay cộng đồng nào đó có thể đề ra những quy tắc để ràng 
buộc các thành viên trong cộng đồng với nhau. Việc thực hiện các quy tắc
 hay kỷ luật sẽ tốt hơn nếu chúng xuất phát từ chính bản thân của chúng 
ta. Trong Phật giáo, từ Sīla có nghĩa là giới mà một người tự nguyện noi
 theo. Ở đây, lại nhắc đến mức độ hội nhập xã hội của một người tùy 
thuộc vào sự tiến tu của người đó trong việc tuân thủ kỷ luật hay giữ 
giới. Việc không giữ giới hay không tuân thủ kỷ luật được xem như là 
hành động bất thiện.
Đức hạnh thứ ba là thực tập hạnh viễn ly, nghĩa là từ bỏ những thứ 
thuộc vật chất và tinh thần không một chút vướng bận. Bạn có thể hi sinh
 những thứ yêu thích của mình để đem lại lợi lạc cho người khác hay là 
bạn muốn thâu tóm tất cả về mình? Tư tưởng bất thiện trong trường hợp 
này là sống ích kỷ; chấp thủ với người, vật và những tình huống xảy ra 
trong đời sống.
Thứ tư là trí tuệ. Trí tuệ là tri thức cộng với sự tự chứng tự nội. 
Chúng ta thu thập kiến thức từ trường học, từ xã hội và từ sách vở v.v..
 Kinh nghiệm làm cho kiến thức có được hoàn thiện hơn. Sự phân tích nội 
tâm làm cho kiến thức và kinh nghiệm trở thành trí tuệ. Đối với Phật 
giáo, sự hội nhập xã hội nhấn mạnh đến yếu tố trí tuệ bởi khi có trí 
tuệ, nhân loại sống tốt hơn và đạt được niết bàn tối hậu. Nếu tiến trình
 hội nhập xã hội này đi theo một hướng khác, thì nó là kết quả của việc 
không có trí tuệ.
Tinh tấn là đức hạnh thứ năm. Ở điểm này, một cá nhân tinh cần, không
 phóng dật trong các hoạt động cả về thân lẫn tâm sẽ đem lại kết quả tốt
 đẹp nhất. Đối nghịch với tinh tấn là biếng nhác. Một khi thực hành hạnh
 tinh tấn thì lười nhác sẽ biến mất, lúc đó ta sẽ đạt tới một trạng thái
 đầy nghị lực.
Tiếp theo là nhẫn nhục. Hiềm thù hay báo thù là mặt trái của đức tính
 nhẫn nhục, nó thuộc về tâm bất thiện. Nhẫn nhục có nghĩa là sẵn sàng 
tha thứ, không oán giận, không ganh ghét, không thù hận và không tìm 
cách để trả thù.
Không nói dối là một khía cạnh thiết yếu của hội nhập xã hội. Nói láo
 một khi đã thốt ra bởi tâm hành bất thiện sẽ khiến cho xã hội bị rối 
ren. Sự hội nhập xã hội nếu dựa sự không chân thật thì hậu quả sẽ không 
bao giờ tốt đẹp.
Với đức hạnh kiên trì, sẽ tăng sức mạnh nội tâm và thúc đẩy con người
 hành động. Kiên trì để đạt được những gì mà chúng ta muốn cả thiện tâm 
lẫn ác tâm. Nhưng để hội nhập xã hội thì chúng ta nên kiên trì giữ tâm 
thiện nơi chính mình.
Thân thiện hay tâm từ với mọi người được xem là rất hữu ích cho xã 
hội. Trước hết, nên thực hiện tâm từ với chính mình, sau đó mở rộng từ 
tâm với mọi người trong gia đình, họ hàng bà con, làng xóm bạn bè và 
cuối cùng thậm chí đem tâm từ đến với kẻ thù của mình. Biểu lộ từ tâm 
của mình đến với người khác trước tiên nên thể hiện bằng hành động bên 
ngoài, sau đó là lời nói và cuối cùng là tư tưởng. Muốn phát triển nhân 
cách hoàn hảo thì cá nhân đó phải thẩm tra trong tư tưởng thâm sâu của 
mình xem liệu rằng còn tồn tại những tiềm thức hay cảm thọ giả dối, bất 
thiện hay không?
Cuối cùng là hạnh xả. Chúng ta nên cố gắng không bị vướng bận bởi 
những thất tình lục dục của thế gian. Lợi lộc và mất của, danh vọng và 
tai tiếng, khen ngợi và chê bai, hạnh phúc và đau khổ là bốn cặp phạm 
trù tác động đến cuộc sống của nhân sinh. Hội nhập xã hội cho phép chúng
 ta hiểu những phạm trù này và rèn luyện mình để không bị chúng ảnh 
hưởng.
Theo giáo lý Phật giáo, hội nhập xã hội được thiết lập dựa trên nền 
tảng đạo đức. Một quy tắc đơn giản của hội nhập xã hội là những gì mình 
không muốn, không thích thì đừng làm điều đó cho người khác. Quy tắc đạo
 đức này phải được thể hiện trong: Hành động (thân hành), lời nói (khẩu 
hành) và tư tưởng (ý hành).
Hội nhập xã hội có thể gồm hai loại là công khai và khép kín. Sự hội 
nhập công khai được xã hội thành lập và tuân theo các quy tắc và giá trị
 của xã hội. Còn hội nhập xã hội khép kín thì hoàn toàn ngược lại. Ví 
dụ, một người nào đó tỏ vẻ yêu mến và quan tâm đến bạn nhưng lại khuyến 
khích bạn tham gia vào các hoạt động gây tổn hại đến tài sản, tiền bạc. 
Hay người đó tập cho bạn chơi bài, uống rượu, ăn cắp v.v.. đó chính là 
hội nhập xã hội khép kín.
Mặc dù hội nhập xã hội khép kín có những khía cạnh tiêu cực như trên,
 nhưng đôi khi chúng cũng có những vai trò tích cực. Ví dụ, như một ông 
thương gia hứa cho đứa con một số tiền nếu anh chàng đó đến gặp đức Phật
 và nghe đức Phật thuyết pháp. Việc này nhằm dụ dỗ (đút lót) cho người 
con nhưng kết quả cuối cùng là đem lại lợi ích cho chính chàng thanh 
niên này. Sử dụng phương pháp hội nhập xã hội khép kín như trong trường 
hợp này rất phổ biến trong phương pháp giáo dục của Phật giáo.
Trong quá trình hội nhập xã hội, Phật giáo đồng nhất các tổ chức như 
gia đình, dòng họ, cộng đồng và bạn bè thành những thể chế chính cấp. 
Còn quá trình hội nhập xã hội ở thể chế thứ cấp diễn ra khi chúng ta 
tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp, tham gia vào một cộng đồng mang 
tính tôn giáo, như cộng đồng tu sĩ Phật giáo chẳng hạn. Ngoài ra, còn 
một quá trình hội nhập xã hội khác được gọi là tái hội nhập xã hội. Quá 
trình này cần thiết vì hai lý do chính sau:
+ Thứ nhất là để phục hồi các mối quan hệ bị mất trong thể chế chính 
cấp của một cá nhân hay một nhóm nào đó. Ví dụ, trường hợp ông lão 
Bà-la-môn bị con cái ruồng bỏ(6). Đức Phật đã giáo dục các người con của
 ông lão để họ thực hiện bổn phận làm con của mình.
+ Thứ hai là củng cố các giá trị xã hội đã tồn tại. Ví dụ, khi những 
cô gái chuẩn bị lấy chồng, cha mẹ họ đã thỉnh đức Phật tới để ban lời 
giáo huấn(7). Hay nàng Visākhā được cha răn dạy trước khi về nhà chồng. 
Hay như nhà vua nước Kosala, trước khi bị con mình xử trảm, ông đã đưa 
ra những lời khuyên để con mình trở thành một vị vua tốt(8).
Theo Phật giáo, hội nhập xã hội nên bắt đầu từ gia đình. Trong gia 
đình, chúng ta có thể thấy vai trò cặp đôi của các thành viên trong một 
gia đình thể hiện như thế nào trong mối quan hệ song phương này. Bổn 
phận và trách nhiệm của cha mẹ và con cái, của chồng và vợ, của chủ và 
tớ, là những cặp vai trò thể hiện sự tương tác lẫn nhau. Chúng ta không 
thể mường tượng được nếu chỉ thiết lập vai trò của một bên trong mối 
quan hệ song phương này mà không có sự bổ sung từ phía còn lại. Ví dụ, 
chúng ta không thể chỉ bàn về vai trò của cha mẹ mà không nói tới vai 
trò của con cái. Mối quan hệ song phương này không chỉ nói đến trách 
nhiệm mà còn đề cập tới các quyền lợi. Không có các vai trò mang tính 
song phương này thì hội nhập xã hội trở nên vô nghĩa.
Thậm chí, trong thể chế chính cấp và thứ cấp của hội nhập xã hội, thì
 mọi vai trò đều được thành lập dựa trên khái niệm song phương này. Ở 
trường học, thầy giáo thể hiện vai trò của mình như là một người ‘cha’, 
còn học sinh là ‘con’. Bổn phận và trách nhiệm của đôi vai trò này thể 
hiện như sau.
Học trò phải thực thi năm quy tắc đạo đức sau đối với người thầy:
1. Đứng dạy chào hỏi.
2. Hầu hạ thầy.
3. Lắng nghe lời thầy dạy bảo.
4. Giúp đỡ việc cho thầy.
5. Kính trọng lời dạy bảo.
Trách nhiệm và bổn phận của người thầy đối với học trò:
1. Dạy học trò cách đối nhân xử thế.
2. Trao truyền kiến thức rõ ràng, phù hợp với khả năng nắm bắt của học viên.
3. Những gì mà người thầy biết phải truyền đạt cho trò, không hề giấu diếm.
4. Ca ngợi học lực và đạo đức của học trò trước người khác.
5. Quan tâm và bảo vệ học trò(9).
Bạn bè đồng trang lứa tạo thành một tác nhân quan trọng trong quá 
trình hội nhập xã hội. Chính những người bạn đó góp phần hình thành tính
 cách của một con người. Những người bạn tốt đem lại lợi ích lớn cho 
việc hội nhập xã hội, còn những nhóm bạn xấu sẽ khiến ta sa sút. Vì thế,
 chúng ta nên tránh xa bạn xấu, gần gũi bạn lành.
Có bốn loại người không nên kết bạn, họ luôn tỏ ra là người bạn tốt 
nhưng thật sự không phải như vậy. Thứ nhất là người đến từ hai bàn tay 
trắng nhưng luôn tìm cách lấy đồ của người khác. Loại thứ hai luôn nói 
lời ngon ngọt dụ người. Loại thứ ba miệng nói lời hòa nhã nhưng tâm địa 
thì độc ác. Và loại cuối cùng trước mặt giả vờ thân thiện nhưng sau lưng
 tìm cách đánh phá.
Phật giáo phân tích bốn loại bạn đó như sau: Loại bạn thứ nhất luôn 
đến với bạn với ý muốn chiếm đoạt, xin xỏ vật chất. Nhưng ngược lại, 
người đó cho bạn rất ít, anh ta chỉ giúp bạn khi ngại bị ảnh hưởng đến 
mình, chứ không vì tình cảm. Động cơ để thúc đẩy loại người này kết bạn 
là tính ích kỷ.
Loại bạn thứ hai sở hữu những đặc điểm sau: Tình cảm của anh chàng 
này chỉ giới hạn trong phạm vi lời nói, thường tán gẫu về những chuyện 
quá khứ, tương lai, không có căn cứ hay vô bổ. Dễ dàng nhận ra bộ mặt 
của anh chàng này khi bạn bè nhờ giúp đỡ, anh ta sẽ tìm lý do để xin lỗi
 và khước từ.
Bản chất của loại bạn thứ ba là luôn khuyến khích bạn tham gia vào 
các hoạt động phạm pháp, không bao giờ khuyên bạn làm bất cứ điều hay lẽ
 phải nào. Anh ta luôn nói xấu sau lưng và khen bạn khi đứng trước mặt.
Loại thứ tư luôn mong bạn bước chân vào con đường tự hủy hoại mình. 
Anh ta khuyến khích bạn uống rượu; thường rủ bạn đi chơi vào những giờ 
không thích hợp (thường là đêm khuya, giờ của giới giang hồ hoạt động, 
bị chính quyền liệt vào danh sách đen); hay dẫn bạn tới những quán bar, 
sàn nhảy, chơi bài bạc v.v.. Đó chính là hội nhập xã hội khép kín. Vì 
biết những người bạn như thế, biết những kiến thức như thế, sẽ giúp 
chúng ta thận trọng trong quá trình hội nhập xã hội khép kín.
Cũng có bốn hạng người nên kết thân, chọn làm bạn:
1. Luôn giúp đỡ bạn bè.
2. Hỗ trợ khi bạn bè gặp khó khăn; xem khó khăn của bạn như thể của chính mình.
3. Góp phần gia tăng sản nghiệp của bạn bè.
4. Luôn đối xử tốt với bạn bè.
Loại bạn tốt đầu tiên thể hiện vai trò tích cực trong việc ngăn chặn 
những thói hư tật xấu khiến mình nghiện ngập, sa ngã như nhậu nhẹt, xì 
ke ma túy. Hay khi có người nào đó rắp tâm lừa gạt tài sản của mình thì 
người bạn tốt sẽ cản trở âm mưu này. Khi gặp phải những trường hợp lo 
lắng hay sợ hãi, người bạn tốt sẽ sát cánh bên mình động viên và an ủi. 
Nếu cần sự giúp đỡ, người bạn tốt sẽ ra tay giúp nhiều hơn những gì được
 yêu cầu.
Loại bạn thứ hai đáng để kết thân là những người đồng cam cộng khổ, 
luôn sát cánh bên mình dù bất kỳ hoàn cảnh nào. Người bạn đó sẽ giãi bày
 tâm sự sâu kín của mình cũng như biết lắng nghe tâm sự của người. Người
 đó không bao giờ khai thác hay đem những câu chuyện riêng tư gây tổn 
thương đến cho bạn bè. Khi tai họa ập đến, người bạn tốt sát cánh và 
không bao giờ bỏ rơi bạn bè. Thậm chí, người đó có thể hi sinh cuộc đời 
mình cho bạn.
Người bạn tốt sẽ tạo điều kiện cho tài sản của mình gia tăng. Người 
đó không những ngăn cản mình tham gia vào các hoạt động phi pháp, mà còn
 khuyến khích mình làm điều lành. Người đó sẽ luôn động viên và tạo điều
 kiện để bạn tiếp thu với những lời dạy hữu ích mà bạn chưa từng được 
nghe trước đây.
Loại bạn thứ tư với lòng từ của mình, sẽ đồng cảm khi bạn bè gặp khó 
khăn và hạnh phúc khi bạn bè gặp điều may mắn; ngăn chặn kẻ khác nói xấu
 bạn mình. Thay vào đó, luôn khen ngợi và tán dương phẩm chất tốt đẹp 
của bạn bè(10).
Trong kinh mô tả bốn loại bạn nên tránh xa và bốn hạng người nên gần 
gũi đó để chúng ta có thể lựa chọn một khi hội nhập vào xã hội. Khi con 
còn nhỏ, cha mẹ nên hướng dẫn con mình chọn bạn lành để kết thân. Vì khi
 khôn lớn, chính nhân tố này trở nên rất quan trọng trong việc hội nhập 
xã hội. Khi con thơ chưa trưởng thành, nếu không đặt vào một môi trường 
xã hội lành mạnh, đặc biệt là ảnh hưởng của bạn bè đồng trang lứa có thể
 dẫn tới vô số vấn đề nan giải trong tương lai.
Khi chọn bạn bè nên kết thân với những người sẵn sàng giúp đỡ nhau, 
những người đồng cảm và gắn bó bạn bè trong mọi hoàn cảnh, những người 
chỉ cho mình con đường tiến bộ và những người lo lắng quan tâm đến mình.
Bạn bè có vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định loại hội 
nhập xã hội. Trong chuyện tiền Thân của đức Phật(11) có kể câu chuyện về
 hai anh em con két được chăm sóc và nuôi dưỡng bởi hai nhóm người khác 
nhau. Một con két rơi vào tay những tên cướp, còn con kia thì được vị ẩn
 sĩ tu hành nuôi dưỡng. Con két thứ nhất hấp thu những lối nói cộc cằn, 
thô lỗ của những tên cướp. Trong khi đó, con két được vị ẩn sĩ tu hành 
nuôi lớn thì nói năng điềm đạm, lời lẽ ôn hòa không giống như người anh 
em song sinh của mình.
Câu chuyện về con voi của nhà vua là một trong những ví dụ điển hình 
trong trường hợp này(12). Ngày nào con voi cũng phải nghe những cuộc 
tranh luận của băng nhóm tội phạm với những lời lẽ cộc cằn, thô lỗ gần 
nơi nó ở. Vì nghe những lời như thế, tâm tánh của con voi bắt đầu thay 
đổi. Thay vì như trước đây, nó phục tùng mệnh lệnh của người nài voi, là
 một con voi hoàng gia có kỷ luật, thì nay nó trở nên cứng đầu, không 
nghe lệnh chủ. Hay như chú ngựa(13)  được huấn luyện bởi một anh què, 
dáng đi khập khiễng. Thế là chú ngựa ấy cũng bắt chước chủ của mình chạy
 như què chân. Hay trong câu chuyện Tiền thân(14)  khác một người giao 
du với những kẻ không ra gì dẫn đến suy sụp đời mình.
Nền tảng hội nhập xã hội, cả trong gia đình, trường học và xã hội, 
đều tuân theo năm quy tắc đạo đức sau: Không nên “Phá hoại mạng sống, 
lấy của không cho, tà dâm, nói dối và uống rượu”(15). Nền tảng hội nhập 
xã hội có trong giáo lý Phật giáo chính là việc duy trì năm nguyên tắc 
đạo đức này. Nhân đây cũng nói thêm rằng, năm nguyên tắc trên luôn được 
các vị Chuyển Luân Vương áp dụng như là điều luật để cai trị thế giới.
Trong gia đình, quá trình hội nhập xã hội bắt đầu thậm chí trước khi 
đứa trẻ ra đời (hội nhập xã hội từ trứng nước). Những tập tục và lễ nghi
 để thích nghi với xã hội phải được định hướng từ khi trẻ còn chưa ra 
đời. Người cha và người mẹ nên tránh những hành động như cư xử thô lỗ 
với nhau, chửi mắng nhau và thậm chí giận hờn hay sân si vì chúng sẽ ảnh
 hưởng đến đứa con trong bụng.
Tình cảm hay tình yêu thương là nền tảng giúp gia đình hội nhập vào 
xã hội. Những vai trò cặp đôi như vai trò giữa cha mẹ và con cái, giữa 
vợ và chồng luôn nhấn mạnh đến giá trị tình cảm. Thậm chí, trong quá 
trình giáo dục, tình cảm là đức tính chính yếu góp phần thành công trong
 việc trao truyền kiến thức.
Lễ nghi và hội hè hiện diện khắp nơi trong đời sống và những lễ hội 
nào đó nếu có liên quan tới những tình huống khó khăn trong đời sống thì
 sẽ góp phần quan trọng đối với việc hội nhập xã hội. Những tình huống 
khó khăn xảy ra trong khi một nghi thức nào đó đang diễn ra (ví dụ như 
sanh nở, mừng tuổi, hôn nhân, tử vong) hay khi đương đầu với một sự kiện
 hết sức nghiêm trọng như trường hợp của hoàng tử Dīgathi Kosala chứng 
kiến cha mẹ mình bị tử hình. Nhìn đứa con bất lực khi thấy mình bị xử 
tử, người cha trước khi chết đã có những lời khuyên để con mình có thể 
tự hội nhập xã hội, và tự mình đối diện với những khó khăn trong tương 
lai(16). Sự kiện cha mẹ bị xử tử là tình huống kịch tính kết hợp với một
 nghi thức, còn cảnh ngộ của hoàng tử là tình huống khó khăn bất ngờ ập 
đến mà bất cứ ai cũng có thể gặp phải. Hoàng tử được vua cha dặn dò làm 
sao để có thể đối diện với những khó khăn không mong muốn, làm sao có 
thể kiểm soát cơn nóng giận và lòng căm thù của mình để đem lại lợi ích 
cho chính mình và xã hội.
Trong quá trình hội nhập xã hội, vai trò của tôn giáo cũng quan trọng
 không kém. Giới tu sĩ dù là tu sĩ Phật giáo, Bà-la- môn hay bất cứ vị 
tu sĩ của tôn giáo nào cũng đều thể hiện vai trò của mình trong mối quan
 hệ với giới cư sĩ tại gia. Bổn phận của người tu sĩ đối với giới cư sĩ 
như sau:
1. Ngăn người cư sĩ phạm tội.
2. Khuyến khích họ khởi lòng từ đến người khác, cầu chúc an lành đến với tất cả.
3. Khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động được mọi người khen ngợi.
4. Nên thuyết giảng những gì mà họ chưa từng được nghe.
5. Giảng giải giáo lý để họ thực sự hiểu, để họ thực sự không còn nghi ngờ.
6. Nên chỉ cho họ con đường chánh đạo dẫn tới giải thoát khổ đau.
Ngược lại, bổn phận của hàng cư sĩ đối với các bậc tu hành như sau:
1. Người cư sĩ nên thể hiện sự quý kính đối với các bậc tu hành.
2. Nên nói với họ bằng những lời quý kính.
3. Luôn cầu an lành đến họ.
4. Nên cúng dường vật dụng thích hợp với nhu cầu của họ.
5. Cúng dường thực phẩm hàng ngày cho họ(17).
Vai trò có tính song phương này nhấn mạnh đến việc thực hiện bổn phận
 và trách nhiệm của cả hai bên. Trong gia đình, con cái phải biết vâng 
lời cha mẹ, nhưng khi họ trưởng thành, cha mẹ phải cưới vợ - gã chồng 
cho họ và còn tin tưởng giao phó việc quản lý tài sản của gia đình. 
Người con, ngược lại, phải chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ khi về già.
Nếu một bên trong cặp vai trò không hoàn thành bổn phận và trách 
nhiệm thì sẽ mất đi những quyền lợi của mình. Quyền lợi này được thể chế
 hóa trong các văn bản pháp luật. Sự mất đi đặc quyền này được thể chế 
hóa bởi một số quy định chặt chẽ trong các văn bản pháp luật. Việc công 
nhận mất quyền lợi nếu một khi không hoàn thành trách nhiệm và bổn phận 
này góp phần rất nhiều đến sự phát triển của tiến trình hội nhập xã hội,
 khuyến khích việc thay đổi những tư tưởng bất thiện sang tư tưởng thiện
 của con người.
Các thể chế xã hội thứ cấp cũng có vai trò quan trọng trong việc tác 
động đến quá trình hội nhập xã hội. Nếu thấy sự hội nhập xã hội thứ cấp 
cần thiết cho cộng đồng thì những thể chế mới sẽ được thành lập để góp 
phần thuận tiện cho quá trình tái hội nhập xã hội. Ví dụ, như cộng đồng 
tu sĩ chẳng hạn một khi được thành lập sẽ đem lại những giá trị đạo đức 
mới giúp cho việc tái hội nhập cộng đồng của những người đi lầm đường 
lạc lối.
Những thể chế mới một khi thành lập ở bất kỳ đâu thì đều phải hội 
nhập với xã hội. Khi nàng Visākhā lấy chồng, một nhóm các bô lão là hàng
 xóm của cặp vợ chồng trẻ được thành lập, có nhiệm vụ tư vấn những khó 
khăn mà họ sẽ gặp phải. Sáng kiến về việc thành lập nhóm tư vấn như thế 
là nét nổi bật của Phật giáo trong quá trình tái hội nhập xã hội.
Khi một người Bà-la-môn thỉnh đức Phật ban lời dạy cho con gái mình 
trước khi lấy chồng, thì đó chính là cơ hội tuyệt vời để củng cố quá 
trình hội nhập xã hội. Gia chủ Bà-la-môn thỉnh đức Phật tới nhà, cúng 
dường bữa cơm như là một lễ nghi và sau đó đức Phật ban lời giáo huấn 
cho cô con gái sắp về nhà chồng. Việc ban lời giáo huấn chính là việc 
củng cố việc hội nhập xã hội của cô gái, giúp cho cô gái hội nhập với 
một cuộc sống mới: “…Này tín nữ, cha mẹ vì thương con cái nên dựng vợ gả
 chồng, tìm kiếm hạnh phúc cho con, mong con được tốt lành. Vì chồng, ta
 nên dậy sớm lo việc nhà cửa, nghỉ ngơi sau mọi người, thương kẻ làm 
công, sắp đặt việc nhà chu đáo, gọn gàng, nói năng hòa nhã”.
“Lại nữa, là người vợ nên tôn trọng, quý kính những ai mà chồng kính 
trọng, dù người đó là cha hay mẹ, các bậc tu hành, khi họ đến nhà đều 
phải mời ngồi và dâng trà nước”.
“Lại nữa, là người vợ, phải khéo tay, nhanh nhẹn trong việc gia đình.
 Khi được giao hay làm việc gì, phải siêng năng để hoàn thành công việc 
đó”.
“Lại nữa, là người vợ, bất cứ những người làm công cho chồng như 
người phục dịch, người đưa thư, người làm thuê v.v.. thì ta phải quán 
xuyến xem công việc giao cho họ đã hoàn thành hay chưa hoàn thành vì lý 
do gì. Ta phải biết người nào bệnh, người nào khoẻ để quan tâm kịp thời,
 cũng như phân phát thức ăn cho mỗi người theo khẩu phần thích hợp”.
“Lại nữa, là người vợ, ta phải bảo quản, trông coi tài sản như vàng 
bạc v.v.. mà chồng đem về, đề phòng trộm cướp chờ thời cướp giật”(18).
Giới trẻ là nhóm tuổi mà xã hội cần đặc biệt quan tâm trong quá trình
 hội nhập xã hội. Lớp trẻ luôn hãnh diện về tuổi tác của mình chính vì 
“Ngạo khí đó nên họ không khỏi dấn thân vào chuyện ác, miệng nói lời ác 
khẩu, ý nghĩ điều bất thiện”. Nên nhìn tuổi trẻ với cái nhìn hiểu biết 
và cảm thông, giao cho họ trách nhiệm, tạo cơ hội cho họ phát triển kỹ 
năng, kiến thức và trí tuệ, và nhiều thứ khác nữa. Tấm gương cao quý của
 các bậc cha anh trong xã hội (những người không bao giờ đi ngược lại 
những gì họ tuyên bố) luôn là tấm gương quý giá để họ noi gương theo.
 
1. Đọc thêm nơi sách Vi Diệu Pháp Toát Yếu, chương I, phần Bốn loại Tâm Vương, bản dịch của Phạm Kim Khánh- người dịch ghi chú.
2. Ven. Narada, Sambhāsā, 1991
3. DhP.32
4.  Malalasekera,  G.P.,  ‘Philosophical  Implications  of  the  Pañcasīla’ Sambhāsā, 1991;266-273
5. ibid
6. S I, 175-177
7. A III, 26-28
8. VIN I, 342
9. DIII, 189
10. D III, 185-186
11. J 495
12. J 26
13. J 186
14. J 397
15. Cf.DhP. 246-247
16. J. Tr. III. 211
17. D II,III,80-86
18. A III, 37-38; IV, 256