Chương 1: Dẫn nhập
Siddhārta Gautama được hàng triệu phật tử trên khắp năm châu tôn xưng
 là đức Phật hay đức Phật Cồ-Đàm ra đời vào khoảng 556 năm trước Tây 
Lịch, tại thành Kapilavathu, phía bắc Ấn Độ nay thuộc nước Nê-Pal. Để 
tìm chân lý giải thoát khổ đau cho nhân sinh, Ngài đã kinh qua nhiều 
triết thuyết và hệ thống đạo giáo khác nhau đương thời. Cuối cùng, bằng 
nỗ lực cá nhân, Ngài đã khám phá một con đường mới chính là Bát Chánh 
Đạo. Con đường này giúp chúng ta hiểu được Tứ Thánh Đế và vì thế chấm 
dứt khổ đau, đoạn tận luân hồi.
Tư tưởng của Phật giáo nằm trong ba bộ kinh thường được gọi là Tam 
Tạng kinh điển (the Tripiṭaka) gồm có: Kinh tạng, Luật tạng và Luận 
tạng. Kinh điển không được ghi chép trong thời đức Phật còn tại thế. Lời
 dạy của Ngài được ghi nhớ và khẩu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
 cho tới năm 29 - 17 trước Công nguyên. Tam tạng Thánh điển được ghi 
chép lại ở Aluvihāre, Matale, Sri-Lanka(1).
Tác phẩm này được dựa trên tư tưởng Phật giáo bao gồm nhiều chương 
khác nhau mà các nhà xã hội học hay nhân loại học ngày nay quan tâm 
nghiên cứu. Tài liệu chính sử dụng trong quyển sách này được lấy từ các 
bản kinh thuộc Phật giáo Nguyên thủy. Những bản kinh thuộc hệ Pāli thời 
kỳ đầu là những nguồn khảo cứu có độ chính xác cao được người nghiên cứu
 quan tâm hàng đầu. Những kinh văn Pāli và Sanskrit giai đoạn sau chỉ 
được dùng để triển khai hay làm sáng tỏ những lời dạy của đức Phật được 
tìm thấy tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy.
Trong công việc phiên dịch các dữ liệu thu thập được, người nghiên 
cứu sử dụng phương pháp so sánh giữa các bản Kinh và Luật làm nguyên tắc
 chủ đạo. Trong chừng mực có thể, người nghiên cứu cũng sử dụng những 
Luận giải của các vị Tổ sư được lưu giữ trong Luận tạng. Để hiểu hơn lời
 Phật dạy, ngoài sưu tầm nghiên cứu, việc tái khám phá hay tái kiểm 
chứng thông qua thực hành là việc làm hết sức cần thiết. Vì thế, người 
nghiên cứu hết sức thận trọng để tìm hiểu tư tưởng Phật giáo một cách 
trọn vẹn và áp dụng nó vào những tình huống sống động trong cuộc sống 
hiện đại.
Tư tưởng về xã hội của Phật giáo không tập trung trong một bộ kinh 
hay một quyển kinh nào. Vì thế, người nghiên cứu phải đọc hầu như toàn 
bộ ba tạng kinh điển để thu thập những dữ liệu có liên quan đến xã hội, 
sau đó liên kết chúng lại nhằm hệ thống hóa học thuyết xã hội một cách 
mạch lạc. Ta nên biết rằng, đức Phật không bao giờ giảng dạy để tạo ra 
một hệ thống xã hội hay bất cứ học thuyết nào, mà chỉ đem lại giải thoát
 khổ đau cho chúng sanh.
Trong khi nghiên cứu về tư tưởng xã hội học của Phật giáo, người 
nghiên cứu sử dụng chủ yếu hai tạng Kinh và Luật, bởi hầu hết tư tưởng 
có liên quan đến xã hội đều nằm trong hai bộ này. Còn Luận tạng - được 
các nhà Ấn Độ học quan tâm xem như là nguồn tham khảo thứ ba khi nghiên 
cứu Kinh và Luật - cũng được người nghiên cứu rất thận trọng khi tham 
khảo nhưng chỉ sử dụng vài điểm trong bộ này.
Nếu muốn phát triển bộ môn xã hội học Phật giáo - những lời dạy của 
đức Phật về xã hội - buộc ta phải nghiên cứu, thâm nhập Kinh, Luật một 
cách toàn diện. Tác phẩm này chỉ là một đề cương, một nỗ lực khiêm tốn 
để khuyến khích và cổ vũ giới học giả xã hội học và nhân loại học tiếp 
cận vào mảnh đất màu mỡ, đầy triết lý của tư tưởng Phật giáo trong tương
 lai.
Các chương trong quyển sách này được sắp xếp theo một thứ tự đặc biệt
 với ý tưởng phác thảo những nét chính của xã hội học Phật giáo. Các 
chương đầu tiên đề cập về các vấn đề như gia đình, quá trình xã hội hóa,
 các thể chế xã hội (như kinh tế, chính trị, tôn giáo và giáo dục), rồi 
tiếp đến là chương nói về thân phận phụ nữ, phân tầng xã hội, các vấn đề
 xã hội (như rượu, ma túy), bạo hành và chủ nghĩa khủng bố, cấu trúc xã 
hội, sức khoẻ và cuối cùng là chương nói về tội phạm và các vấn đề liên 
quan đến sự trách phạt. Mục tiêu của quyển sách này là chú ý trọng tâm 
tới những điều mới mẻ và thực tiễn của Phật giáo trong việc hội nhập 
hoàn toàn vào xã hội hiện đại.
Thế giới ngày nay đang phải vật lộn để tìm ra phương pháp giải quyết 
hàng nghìn vấn đề nan giải tồn tại trong xã hội. Nhiều triết lý hay học 
thuyết đã từng một thời được xem là kim chỉ nam đã không còn thích hợp 
với những vấn đề mới phát sinh trong xã hội hiện nay. Tư tưởng xã hội 
Phật giáo nếu được nghiên cứu sâu hơn từ các quan điểm về xã hội học và 
nhân loại học thì có thể cung cấp những giải pháp thú vị cho những vấn 
đề nan giải như thế.
Liên quan đến vấn đề này, xin trích dẫn sơ lược vài ví dụ. Nền dân 
chủ mà chúng ta thường đề cập tới được hiểu theo tư tưởng Phật giáo là 
một lối sống. Đó không phải chỉ là tiến trình bầu cử lựa chọn người lãnh
 đạo hay là sự tự do bày tỏ quan điểm cá nhân. Dân chủ theo Phật giáo 
đòi hỏi giới cầm quyền phải có những phẩm chất nào đó để lãnh đạo và xem
 xét điều gì là cần thiết để thiết lập sự tự do bày tỏ quan điểm cá 
nhân. Thậm chí, một quyết định theo đa số cũng chưa thể xem là dân chủ 
khi nó mâu thuẫn với chân lý. Trong kinh điển đã cẩn thận nêu ra những 
cách thức và phương tiện để đạt được sự đồng thuận của người dân trước 
một vấn đề nào đó.
Phật giáo nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục trong một quốc 
gia dân chủ. Dân chủ sẽ không phát huy nếu người lãnh đạo và dân chúng 
thiếu giáo dục. Một khi sự phân biệt giữa hai giai cấp thống trị và bị 
trị giảm tới mức thấp nhất, cán cân quyền lực chia đều nhau ở cả hai bên
 thì sẽ không có tình trạng độc chiếm quyền lực mãi mãi, trái lại thay 
phiên nhau nắm quyền. Mặt khác, khi phân tích học thuyết về quyền lực, 
Phật giáo nêu ra năm loại quyền lực khác nhau và nhấn mạnh đến quyền lực
 về trí tuệ như là một nhân tố chính điều khiển bốn quyền lực còn lại. 
Nếu không có trí tuệ thì những quyền lực khác như giàu sang, quần chúng,
 địa vị và dòng dõi sẽ trở nên vô nghĩa.
Sự hòa nhập xã hội theo quan điểm của Phật giáo là một kinh nghiệm có
 được trước khi chúng ta sinh ra (còn trong bụng mẹ), hoặc dĩ nhiên có 
liên quan đến nhiều kiếp trước. Đức Phật giải thích giai cấp không có 
liên quan đến dòng dõi gia đình mà do chính hành động của một người tạo 
nên. Ngài đưa ra một lý thuyết kinh tế mà từ đó giúp cho mọi tầng lớp 
trong xã hội có cơ hội công bằng để tiếp cận các nguồn vật chất và tinh 
thần bằng chính nỗ lực của bản thân và cũng như không cho phép bất kỳ cá
 nhân nào bóc lột xã hội vì sự ích kỷ của mình.
Về tội phạm và hình thức khiển trách được Phật giáo quan sát từ những
 khía cạnh khác nhau. Việc khiển trách khi thực hiện với mong muốn người
 phạm tội sẽ lại trở thành một công dân tốt hay là khiến họ phạm tội 
nhiều hơn và bị xã hội xa lánh? Luật án treo Parivāsa là bộ luật trọng 
tâm trong giới luật Phật giáo. Ta nên nghiên cứu và phân tích những điều
 luật này để khám phá nhiều điều hữu ích có liên quan đến hình thức xử 
trị ngày nay.
Mối quan tâm tuyệt đối của Phật giáo về vấn đề môi trường là một lãnh
 vực quan trọng kế tiếp. Môi trường không chỉ có loài người mà còn bao 
gồm hệ thực vật và động vật – toàn thể thiên nhiên. Tôn trọng cuộc sống 
bắt đầu từ loài người, sau đó mở rộng đến các loài động vật, thực vật, 
và cho đến trái đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao v.v... Nếu quy tắc 
tôn trọng này được thực hiện một cách nghiêm túc thì thiết lập được sự 
thăng bằng giữa con người và thiên nhiên.
Bạo hành và khủng bố đã trở thành một ‘hiện tượng tự nhiên trong thế 
giới hiện nay. Những hành vi khủng bố hay bạo động hầu như xảy ra hằng 
ngày trong thế giới chúng ta. Làm thế nào để giảm thiểu hành vi khủng 
bố, bạo lực và ngăn chặn không cho chúng xảy ra? Làm thế nào để giải 
thích trọn vẹn ý nghĩa bất hại (non-violence) và áp dụng chúng để đem 
lại lợi ích cho các loài hữu tình? Các vấn đề này đã được phân tích và 
ghi lại trong kinh điển Phật giáo.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã 
hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con 
người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác như động thực vật, các 
loài phi nhân v.v.. Nhãn quan của xã hội học Phật giáo rộng hơn nhiều so
 với xã hội học thông thường. Xã hội học Phật giáo nỗ lực quan sát và 
tìm hiểu phản ứng không chỉ của con người với con người trong đời này mà
 còn ở những đời khác trong vòng sinh tử luân hồi.
Quan điểm của Phật giáo đối với các vấn đề xã hội có tính thực tế. 
Loài người bị tham ái chế ngự, vì thế các vấn đề xã hội khó mà dập tắt. 
Cố gắng giải quyết hoàn toàn các vấn đề xã hội là việc làm không tưởng, 
phương pháp tốt nhất là tìm hiểu và hòa giải với chúng. Thái độ này giúp
 chúng ta kiểm soát được chúng, đó chính là một giải pháp mang tính thực
 tế.
Hiểu mình, biết người sẽ cho chúng ta một cuộc sống an lạc và hạnh 
phúc, giảm thiểu đến mức thấp nhấp xung đột nội tại và ngoại tại. Rất 
thường xảy ra việc tự mình xung đột với chính bản thân mình sau đó lan 
sang cho kẻ khác. Càng ít xung đột nội tại, thì càng ít xung đột với tha
 nhân. Xã hội học Phật giáo mở đường cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạn 
chế thấp nhất cuộc chiến tự thân và tha nhân.
 
1. DPV XX 14 66; MHV XXXIII. 3466