Khoảng giữa năm 515 và 500 trước CN, tại vùng 
        "Trung Nguyên", xuất hiện bảy vị Ðạo Sư trong số 
        các Sa-môn có ảnh hưởng lớn đặc biệt. Ngoài đức Phật, 
        các nguồn Kinh Ðiển Phật Giáo nêu lên danh sách các vị 
        này (DN 2.2)
        
          1. Pùrana kassapa (Phú-lan-na Ca-diếp)
          2. Makkahi Gosala (Mạt-già-lê Cù-xá-lợi).
          3. Ajita Kesakambilin (A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la).
          4. Pakkuda Kaccàyana (Bà-phù-đà Ca-chiên-diên).
          5. Sanjaya Belatthiputta (Tán-nhã-di Tỳ-la-phê-phất).
          6. Nigantha Nàtaputta (Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử).
        
        Các vị này đều là bậc trưởng thượng, đáng 
        tôn trọng (DN 2.2) - nhưng chúng ta phải luôn nhớ rằng thọ 
        mạng trung bình của người ấn Ðộ vào thế kỷ thứ sáu 
        - thứ năm trước CN được dự trù vào khoảng hai mươi hai 
        tuổi, vì vậy một người trên năm mươi tuổi được xem là 
        già lắm rồi.
        
        1) Pùrana Kassapa:
        
        Pùrana kassapa tự xưng là Toàn tri kiến (AN 
        9.39) vì thế tên vị này có lẽ phải được giải thích 
        là Purananõàna: có toàn tri kiến, nhất tri kiến.
        Chúng ta chỉ được biết về nguồn gốc vị 
        này là người thuộc gia tộc thấp hèn, và theo hạnh du sĩ 
        lõa thể - "mặc bộ y đức hạnh", tình trạng lõa 
        thể này được gọi như thế. Các Kinh điễn Kỳ-na giáo nhắc 
        đến một "kẻ khổ hạnh ngu si" tên là Pùrana có gốc 
        từ Bebhela, chắc hẳn là vị Purana này. Một giả thuyết 
        cho rằng vị ấy đã nhịn đói đến chết sau mười hai 
        năm khổ hạnh và đã chết ở Sàvittha. Nhưng theo một bài 
        Kinh Phật về sau của tạng Sanskrit (Divyàvadàna), vị ấy buộc 
        một bình đầy đất vào cổ rồi trầm mình.
        Một số lời thuyết giảng của Pùrana còn 
        được lưu lại vừa đủ để ta có thể thấy sơ lược nội 
        dung triết lý này. Vua Ajàtasattu, người đã làm đạo với 
        du sĩ Pùrana, tường thuật chuyện này với đức Phật như 
        sau:
        "Ðạo sĩ Pùrana Kassapa nói: "Thưa Ðại 
        Vương, không có ác nghiệp do người làm hay người xúi gục 
        kẻ khác làm, như chém giết, đốt cháy, gây phiền muộn, 
        khổ não, kích động, sát sanh hay cướp bốc. Thậm chí người 
        nào dùng một bánh xe sắc như dao giết chết hết mọi chúng 
        sanh trên quả đất này thành một đống thịt cũng không 
        có tội ác do kết quả việc làm kia, và tội ác cũng không 
        tăng trưởng. Hoặc nếu kẻ nào bố thí, tế lễ, cũng không 
        có phước đức do kết quả việc làm ấy, và làm phước 
        cũng không tăng trưởng. Bố thí, tu tập thân tâm, nói lời 
        chân thật ... cũng không có phước báo gì". (DN 2.17, giản 
        lược)
        Phù hợp với điều trên, một đệ tử của Pùrana 
        tóm tắt Giáo lý của thầy mình bằng những lời này: 
        "Ðạo sư Kassapa không thấy tội ác gì trong việc chém 
        giết, lừa đảo, dối gian cả. Vị ấy cũng không tin có phước 
        báo gì cho mỗi người" (SN 2.3.10), và Mahàli người 
        Licchavì, tường thuật với đức Phật lời tuyên bố của 
        Pùrana: "không có nhân duyên (điều kiện) đối với sự 
        ô nhiễm của chúng sanh. Không có nhân duyên, chúng sanh bị 
        nhiễm ô. Không có nhân duyên, chúng sanh trở thành thanh tịnh". 
        (SN 22.60)
        Như vậy Pùrana chủ trương rằng thiện hành 
        hay ác hành đều không có hậu quả gì đối với người tạo 
        nghiệp, tức là vị ấy phủ nhận qui luật nghiệp báo. Vì 
        giải thoát không cần điều kiện tiên quyết nên nó không 
        thể được thực hiện nhờ hành động của chính mình. 
        Nói cách khác, chúng sanh không thể góp phần gì vào sự giải 
        thoát của mình cả, mà phải chấp nhận số phận và chờ 
        đợi được giải thoát một cách thụ động. Thuyết định 
        mệnh của Pùrana tương tự với thuyết của người giữ vững 
        lập trường Aụjivika, là Makkhali Gosala.
        
        2) Makkhali Gosala:
        
        Bản Kinh Bhagavatìsùtra của Kỳ-na giáo nêu 
        tên của Makkhali theo lối chữ Ardha-Màgadhì là Makhaliputta 
        Gosalà. Do vậy, vị này là con trai của người hát dạo 
        (mankha), cái nghề mà có lẽ chính vị này đã nối tiếp 
        cha ông. Ðứa bé thuở ấy được sinh ra trong một chuồng bò 
        (gosàla) ở Saravana, vì thế có tên này.
        Makkhali gặp Nigantha Nataputta (tức Mahàvìra), vị 
        kế thừa tổ sư sáng lập Kỳ-na giáo, khi vị này đang tu tập 
        khổ hạnh vào năm thứ ba (524 trước CN). Bị lôi cuốn theo 
        cách này, Makkhali cầu xin Mahàvìra nhận mình làm đệ tử, 
        nhưng Mahàvìra im lặng bước đi. Một thời gian sau, Makkhali 
        quyết định vứt bỏ hết y phục giống như Mahàvìra và từ 
        đó sống suốt đời làm một Sa-môn lõa thể. Tại 
        Paniyabhùmi, một nơi không xa Nàlandà, vị ấy gặp lại 
        Mahàvìra, và thỉnh cầu lần nữa được nhận làm đệ tử. 
        Lần này Mahàvìra nhận lời, và suốt sáu năm ròng, hai người 
        sống cùng nhau chia xẻ mọi nỗi khó khăn của đời du sĩ vô 
        gia đình.
        Chính trong thời gian này, Makkhali phát triển niềm 
        tin vào tính chất tiền định của mọi việc diễn tiến. Vị 
        này hết sức thán phục vị thầy thông thái của mình tiên 
        đóan nhiều sự kiện không thể nào ngăn cản được. Ví dụ, 
        có lần Mahàvìra tiên đoán rằng vào một ngày nhất định 
        nào đó, Makkhali sẽ được cho một đồng tiền giả lúc 
        đi khất thực, và mặc dù Makkhali tìm hết mọi cách ngăn cản 
        việc này, nó vẫn xảy ra chính xác như Mahàvìra đã tiên 
        đoán. Vì thế Makkhali kết luận "Việc gì phải xảy ra 
        thì sẽ phải xảy ra như vậy, chứ không thể khác được".
        Chính một phần do triết lý này và một phần 
        do tính khoe khoang khoác lác mà Makkhali liên tục đặt mình 
        và vị thầy minh trí của mình vào các cảnh khốn đốn ngặt 
        nghèo. Hơn một lần vị ấy bị đám đông đánh đập tả 
        tơi. Thỉnh thoảng hình như vị ấy ngầm trả thù những kẻ 
        từ chối bố thí cho vị ấy thì nhà của họ và cả làng 
        họ có thể bị hỏa hoạn, và chuyện ấy cũng xảy ra thực!
        Vì có lần Mahàvìra không giúp sức chống lại 
        những kẻ tấn công nên Makkhali rời bỏ vị thầy dạn dày 
        kinh nghiệm ấy ra đi, để rồi chẳng mấy chốc liền nhận 
        ra rằng không có thầy bảo vệ, vị ấy càng gặp nhiều 
        gian lao vất vả mới sống mà chẳng hề hấn gì. Sáu tháng 
        sau, vị ấy tìm lại thầy, nhưng chẳng học hỏi được gì 
        về kinh nghiệm sống của thầy và vẫn tiếp tục lối cư 
        xử đầy khiêu khích và tinh quái. Vào một dịp có một đám 
        cưới đi qua, vị ấy bình luận là cả cô dâu lẫn chú rễ 
        đều xấu xí lạ lùng. Sau khi bị đám cưới cho một trận 
        đòn chí tử, vị ấy nhận ra rằng lời nói của mình chẳng 
        khôn khéo gì cả.
        Sự đỗ vỡ sau cùng với đạo sư Mahàvìra 
        là do một trong các trò lừa gạt khác của vị đệ tử này. 
        Trên con đường đi qua Magadha, Makkhali chỉ một cây mè và hỏi 
        thầy xem thử riêng cây mè này sẽ có quả nào không. 
        Mahàvìra bảo có nhiều lắm. Khi họ tiếp tục du hành, 
        Makkhali đi lùi ra sau một chút và đợi lúc Mahàvìra không 
        để ý, bèn nhổ cây mè lên. Một thời gian sau, cả hai 
        cùng đến lại chỗ ấy và thấy cây mè kia, dù bị nhổ 
        lên, vẫn không chết. Một trận mưa đã làm cho cây bén rể 
        lại và nó còn sinh ra trái mè nữa! Do vậy, mặc dù 
        Mahàvìra được chứng tỏ là đã tiên đoán đúng, trò đùa 
        tinh quái của Makkhali để thử tài thầy cũng là lý do đủ 
        làm cho vị đạo sư tống cổ vị đệ tử kỳ quặc này.
        Bị bỏ lại theo đường lối riêng của mình, 
        Makkhali nỗ lực rèn luyện mong đạt thần thông và tri kiến, 
        những mục đích mà theo lời đồn vị ấy chứng đắc 
        trong vòng sáu tháng. Việc này có lẽ được ghi lại vào năm 
        517 trước CN. Từ đó đến lúc mạng chung, Makkhali sống đời 
        Sa-môn du sĩ, nhưng bao giờ cũng an cư mùa mưa trong nhà một 
        người đàn bà làm đồ gốm. Theo thời gian, vị ấy dần tạo 
        được một số đệ tử xuất gia lẫn tại gia. Chắc hẳn 
        vị ấy cũng có vài đặc điểm kỳ diệu nào đó nên đã 
        gây được sự cảm phục ngay cả Ðại Vương Pasensdi nước 
        kosala, vị thân hữu của đức Phật.
        Các Kinh điển Kỳ-na giáo ghi đầy đủ chi tiết 
        về cuộc đời của Makkhali một lần nữa vào năm du hành 
        thứ hai mươi bốn của vị ấy, tức là năm vị ấy từ trần 
        (501 trước CN). Năm ấy Makkhali họp sáu đệ tử quanh mình 
        để kết tập giáo lý theo hệ thống. Khi Mahàvìra, đạo 
        sư thông thái cũ của vị ấy, nghe tin về cuộc hợp này, 
        liền nhớ lại các trò điên khùng của Makkhali từ thời 
        hai vị còn sống chung với nhau, và nói toang mọi việc cho 
        đám đồ chúng nghe. Chuyện này lan truyền nhanh như cháy rừng, 
        gây biết bao phiền muộn cho Makkhali.
        Phẫn nộ vì bị làm trò cười như vậy, vị 
        ấy liền đến trước mặt Mahàvìra, tuyên bố rằng mình 
        không còn là chàng Makkhali Gosala cũ kỹ trong thời quá khứ 
        xa xưa: nhiều lần tâm trí được tái sanh đã biến cải vị 
        ấy thành một người mới hoàn toàn. Khi Mahàvìra khinh bỉ 
        phủ nhận luận điệu này, Makkhali mất hết bình tĩnh và 
        thét lên vào mặt Mahàvìra: "Người sẽ bị thần thông 
        của ta đục thủng! Trong sáu tháng ngươi sẽ chết vì sốt!". 
        Tuy nhiên Mahàvìra chẳng hề dao động: phép mầu không có 
        tác động gì đối với vị này cả mà sẽ trở về với kẻ 
        sử dụng nó: "Trong bảy đêm kể từ nay, chính ngươi sẽ 
        chết vì sốt".
        Và quả thực, các Kinh điển Kỳ-na giáo nói 
        tiếp, Makkhali trở về lò gốm ở Sàvittha, và bắt đầu lâm 
        bệnh. Vị ấy lên cơn sốt mê sảng, nhảy múa, ca hát và 
        trét đất sét nguội của lò gốm lên khắp mình mẩy. Ðối 
        với những người hâm mộ đến thăm vị ấy trong tình trạng 
        này, vị ấy cũng nói toàn những lời lú lẫn do loạn trí. 
        Ít lâu sau vị ấy ra huấn thị cho đám đệ tử về việc 
        hỏa táng của mình, và lễ hỏa táng ấy phải được cử 
        hành linh đình trọng thể.
        Nếu ngày nay ta có thể tin tưởng được các 
        Kinh điển Kỳ-na giáo (chắc chắn có nhiều thành kiến), 
        thì Makkhali, vào đêm thứ bảy sau cuộc so tài nguyền rủa 
        kia, đã thú nhận việc phạm giới khổ hạnh của mình với 
        các đệ tử rằng vị ấy không phải là một A-la-hán chứng 
        đắc thắng trí mà chỉ là một kẻ lừa đảo, do vậy đã 
        chết vì lời nguyền của chính mình. Vội rút lui lời huấn 
        thị về việc tổ chức hỏa táng trước kia của mình, vị 
        ấy truyền lệnh rằng cần phải làm ô nhục thân xác 
        mình, các Sa-môn phải phỉ nhổ ba lần vào mặt thầy, rồi 
        buộc một dây thừng vào chân trái thi thể và kéo đi khắp 
        thành Sàvitthi rồi quẳng thây đâu đó.
        Các môn đồ chỉ làm chuyện xúc phạm thánh 
        thể ấy một cách tượng trưng mà thôi. Họ vẽ bản đồ 
        thành Sàvatthi trên sàn túp lều của lò gốm rồi kéo di 
        hài lên, sau đó làm lễ hỏa táng vô cùng long trọng!
        Trong đám ngoại đạo sư đồng thời, đức Phật 
        khinh bỉ Makkhali. Ngài tuyên bố: "Ta không thấy ai đem lại 
        nhiều tai họa và bất hạnh cho nhiều người bằng Makkhali 
        Gosala, kẻ điên khùng ấy". (AN 1.17)
        Trong tất cả giáo lý của Sa-môn Bà-la-môn ngoại 
        đạo, chủ thuyết của Makkhali là hạ liệt nhất. Vì 
        Makkhali ngu si này tuyên bố chủ trương không có (qui luật) 
        nghiệp nhân, không có nghiệp quả, không có tinh tấn (năng 
        lực để đạt giải thoát)." (AN 3.135)
        Và trong một cuộc đối thoại với du sĩ Bà-la-môn 
        Vacchagotta, ngài tuyên bố không một người nào thuộc phái 
        Ajìvika từng đạt giải thoát khổ đau, chỉ trừ được một 
        người tái sanh Thiên giới, nhưng vị này không hẳn là một 
        vị Ajìvika đích thực và vị ấy đã không tin vào nghiệp 
        (do vậy đã tạo được một số công đức cho mình).
        Kinh Tạng Pàli ghi lại sơ lược lý thuyết của 
        Makkhali Gosala từ miệng vị này thốt ra. Vua Ajìtasattu tường 
        thuật với đức Phật những lời của vị ấy, được xem 
        là y nguyên văn:
        "Không có nhân duyên đối với sự ô nhiễm 
        của chúng sanh. Không có nhân duyên, chúng sanh bị ô nhiễm. 
        Không có nhân duyên đối với sự ô nhiễm của chúng sanh. 
        Không có nhân duyên, chúng sanh được thanh tịnh. Sự thành 
        đạt hình thái hiện hữu nào cũng không tùy thuộc vào tự 
        lực, tha lực hay tinh tấn... .Tất cả mọi hữu tình, mọi 
        sinh vật, mọi sinh loại, mọi sinh mạng (Jìva) đạt đến hình 
        thái hiện hữu của chúng đều không do tinh tấn hay tự lực, 
        nhưng đã thành thục như là kết quả của định mệnh 
        (niyati), cha mẹ sinh sản (sangati) và hiện hữu (bhàva) ở đời 
        trong sáu loại tái sanh, nơi mà giờ đây chúng hưởng thọ 
        khổ hay lạc. Sau 8.400.000 kiếp (trong vòng luân hồi sanh tử), 
        người hiền trí cũng như kẻ ngu si nhiều đoạn tận khổ 
        ưu. Ta không nên suy nghĩ: "nhờ kỷ luật này, giới hạnh 
        này, khổ hạnh này hay Phạm hạnh này ta sẽ làm thành thục 
        các nghiệp chưa chín muồi, và sẽ đoạn trừ các nghiệp 
        đã thành thục". Những việc ấy không thể xảy ra, khổ 
        hay lạc đều được định phần và không thể tăng hay giảm 
        vòng luân hồi sanh tử. Giống như một cuộn dây được 
        tung ra sẽ kéo dài mãi cho đến khi tháo hết, cũng vậy, cả 
        kẻ ngu lẫn người trí đều chấm dứt khổ đau khi nào họ 
        đã lưu chuyển trọn vòng luân hồi sanh tử." (DN 2.20, 
        giản lược).
        Quan điểm chính của triết lý này là số mệnh 
        (niyati) quyết định con đường của mọi chúng sanh qua vòng 
        luân hồi . Nó không chịu tác động của bất cứ điều gì, 
        do vậy thiện nghiệp hay ác nghiệp đều không gây hậu quả 
        đối với tính chất các cuộc tái sanh.
        Cũng vậy, Giới Luật tu tập cũng không có 
        giá trị gì, và thâm chí một vị Aụjìvika cũng không thể 
        thúc đẩy tiến trình giải thoát. Các Sa-môn Ajìvika làm đạo 
        sĩ vì số phận đã định phần cho họ như vậy, chứ không 
        phải vì họ có hy vọng cải thiện số phận tương lai. Tuy 
        nhiên, một động lực chung của họ là học nghệ thuật 
        tiên đoán. Nếu số phận mọi người đã được tiền định, 
        theo họ suy nghĩ, ít ra họ có thể tìm cách biết việc tương 
        lai gần xảy ra.
        Vì con đường của mọi người qua vòng luân hồi 
        đã được hoạch định sẵn, nên phải phân lượng hạnh 
        phúc hay khổ ưu mà họ thọ hưởng đều được số phận 
        ban bố trước. Do vậy, thái độ hợp lý duy nhất là chấp 
        nhận mọi sự xảy ra và chịu đựng mà không than phiền. 
        Giải thoát sẽ tự động diễn tiến ngay khi mỗi người trải 
        qua 8.400.000 kiếp. Có một tục ngữ của phái Ajìvika như 
        sau:
        
          
          Không đường lên thiên giới,
          Cứ sống hết phận mình,
          Mọi buồn vui xảy tới
          Ðều do số phận dành.
          Vòng luân hồi chung cuộc
          Khiến mọi người tịnh thanh.
          Ðừng nóng lòng muốn biết
          Những việc sắp thành hình.
          (Jàkata VI 544)
          
        
        Giới chiến sĩ đặc biệt bị thuyết định mệnh 
        này lôi cuốn nhưng rất nhiều người khác nữa thường thích 
        nhớ lại một tục ngữ nào đó của phái Ajivika mỗi khi 
        có chuyện không may xảy ra.
        Cùng với sự biến mất của phái Ajìvika vào 
        thế kỷ thứ hai trước CN ở bắc Ấn và thế kỷ thứ mười 
        bốn sau CN ở Nam Ấn, tất cả kinh sách của họ cũng thất 
        lạc luôn; cho nên mọi điều chúng ta hiểu biết về triết 
        lý của phái này đều phát xuất từ các trích đoạn trong 
        thi văn của các phái đối lập. Một số vấn đề cốt yếu 
        như bản chất của linh hồn hay sinh mạng (Jìva) tạo nên mối 
        liên lạc giữa các đời sống với nhau, và bản chất của 
        giải thoát ở chặng cuối cùng của sinh tử lộ dài dằng 
        dặt ấy đều được số phận phát họa sẵn, do vậy, 
        không có câu giải đáp chính xác nào cả.
        
        3) Ajita Kesakambalin:
        
        Không có các chi tiết nào được lưu truyền về 
        tiểu sử của Ajita Kesakambalin (ngoại trừ sự kiện là vị 
        này già hơn đức Phật nhiều. Biệt hiệu trên chứng tỏ 
        là vị ấy mang áo khoác (kambala) bằng tóc (kase) một loại 
        y mà như đức Phật nhận xét (AN 1.135), hết sức bất tiện: 
        lạnh lẽo về mùa lạnh, và nóng nực về mùa nóng, lại 
        hôi hám và ngứa ngáy. Không ai hiểu được tại sao vị ấy 
        mặc y này quanh năm, bởi vì vị ấy phủ nhận giá trị của 
        khổ hạnh , nên vị ấy cũng không hy vọng cái ý này làm 
        gì được cho việc giải thoát.
        Lý thuyết duy vật- hư vô của Ajita tương tự 
        với lý thuyết của các phái Lokàyatas, Càrvàkas hoặc 
        Nàstikas và theo lời vua Ajìtasattu, được tóm tắt như sau:
        " Không có bố thí, hy sinh hay tế lễ, (những 
        việc có thể đem giá trị cho giải thoát). Không có kết quả 
        của các nghiệp thiện ác (kamma), không có đời này hay đời 
        sau (mà chỉ có sự gặp gỡ các giác quan). Không có mẹ, 
        không có cha, và cũng không có các loài hóa sanh. Ở trên đời 
        này không có các Sa-môn hay Bà-la-môn thành tựu cứu cánh tối 
        thượng, những vị đạt giác ngộ viên mãn, tuyên thuyết 
        thế giới này và thế giới khác, sau khi đã chứng tri 
        chúng bằng thắng trí của mình. Ðúng ra, con người này do 
        tứ đại hợp thành. Khi mạng chung, địa đại trở về với 
        đất, thủy đại trở về với nước, hỏa đại trở về 
        với lửa, phong đại trở về với không khí và các căn tan 
        biến vào cõi hư vô. Cả năm, nghĩa là bốn kẻ gánh quan 
        tài và thi thể trong quan tài là năm, cùng đi đến nơi hỏa 
        táng. Bọn người kiêng xác cứ ca ngợi tán dương cho đến 
        tận nơi kia, nơi đống xương hóa ra màu trắng xóa và lễ 
        vật trở thành tro bụi. Chỉ có người ngu si truyền bá 
        các sự bố thí tế lễ. Khi chúng bảo có ích lợi cho việc 
        kia, đó chỉ là lời dối trá trống rỗng. Kẻ ngu cũng như 
        người trí, khi thân hoại mạng chung đều hủy diệt, tiêu 
        vong, không còn tồn tại sau khi chết". (DN 2.23)
        Thật khó tưởng tượng rằng Ajita, người không 
        đưa ra một tia hy vọng nào về đời sau hay con đường giải 
        thoát, lại có thể được Sa-môn nào theo làm đồ đệ. Hình 
        như vị ấy xuất hiện như một diễn giả đơn độc và chỉ 
        có đám đệ tử tại gia mà thôi.
        
        4) Pakudha Kaccàyana:
        
        Một lý thuyết về nguyên tử của vật chất 
        được Pakudha Kaccàyana đề xướng, từ đó vị này rút ra 
        những kết luận thô thiển hạ liệt. Ta chỉ đây là một 
        người thuộc giai cấp Bà-la-môn qua danh tánh ấy. Vị này 
        công nhận có bảy yếu tố căn bản hay thân
        (kàya) thuộc về bảy loại hoàn toàn khác biệt 
        do đó mọi vật được cấu thành. Chúng không được sáng 
        tạo, thường hiện hữu và bất biến. Bảy yếu tố căn bản 
        ấy là: đất, nước, lửa, gió, lạc, khổ và linh hồn hay 
        mạng căn (Jìva).
        "Không có người bị giết hay người chết, 
        không có người nghe hay người nói, cũng không có người biết 
        hay người cho biết. Bất kỳ ai chặt đầu người khác với 
        kiếm sắc bén cũng không đoạt mạng sống của ai cả. Kẻ 
        ấy chỉ xuyên lưỡi kiếm vào khoảng hư không nằm giữa bảy 
        yếu tố kia (chứ không làm hại vật gì cả). (DN 2.26)
        Sự thật là bảy yếu tố căn bản kia, nếu 
        được phối hợp thành một tổng thể có sức sống, khả 
        dĩ bao hàm một hiện tượng cao quí hơn, vĩ đại hơn con số 
        cọng đơn giản tất cả yếu tố lại, rõ ràng điều này 
        không soi sáng vào lý luận của Pakudha. Tuy nhiên ,về phương 
        diện lịch sử, đạo sư này cũng có địa vị quan trọng 
        như một người chủ trương thuyết nguyên tử vật chất đầu 
        tiên của Ấn Ðộ. Bảy yếu tố căn bản của vị này về 
        sau được phái Ajivika phương nam tiếp nhận, vì vậy đôi 
        khi vị ấy cũng được gọi là một vị Ajivita.
        
        5) Sanojaya Belatthipputta:
        
        Kinh điển Phật giáo đưa ra một hình ảnh 
        khá mờ nhạt về vị này, có lẽ đây chính là vị Sanojaya 
        ở Ràjagaha đã có thời là đạo sư của hai tôn giả 
        Sàriputta và Moggallàna. Trong cuộc đàm luận với vua 
        Ajàtasattu, vị này tự xem mình là một người theo thuyết 
        hoài nghi và bất khả tri, bài bác mọi lý thuyết không được 
        thiết lập trên quan sát và kinh nghiệm. Có lẽ triết lý 
        này cũng có một ý nghĩa nội dung tích cực nào đó, song nếu 
        vậy thì nội dung ấy đã không tồn tại qua hai ngàn năm 
        trăm năm kể từ thời sơ khai.
        
        6) Nigantha Nàtaputta (nam tử của gia tộc 
        Nàtha theo phái Ly Hệ Phược), có tên riêng là Vardhamàna, 
        và là con trai của vị võ tướng quý tộc nhiều quyền lực 
        Siddhattha cùng phu nhân Trisalà. Vị ấy sinh năm 557 trước CN 
        tại Kundagràma (nay là Basukund) gần Vesàli, về sau nỗi tiếng 
        hơn với các danh hiệu tôn quý như Mahàvìra (Ðại Hùng) và 
        Jina (Thắng Giả). Tên gọi tôn giáo của đạo sư này, Kỳ-na 
        giáo, phát xuất từ biệt hiệu thứ hai.
        Vardhamàna lớn lên trong hoàn cảnh gia đình hưng 
        thịnh, tiếp nhận một nền giáo dục thông thường của một 
        vị Sát-đế-lỵ. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy kết 
        hôn và có một con gái. Cha mẹ vị này theo giáo lý của 
        Pàrsva (Nàtha), có lẽ đó là một đạo sư có thật trong lịch 
        sử, tương truyền xuất thân từ Benares, sống vào thế kỷ 
        thứ tám trước CN và đám môn đồ được gọi là Nigantha 
        (Ni-kiền-tử: Ly hệ phược). Họ theo giáo phái khổ hạnh 
        thật nghiệm khắc đến độ, muốn đạt thanh tịnh bản thân 
        để tiêu trừ nghiệp quá khứ (kamma), họ nhịn đói cho đến 
        chết. Theo bước chân cha mẹ, ngoài Vardhamàna, vị huynh trưởng 
        Nandivardhana cũng là một Ni-kiền-tử. Sau khi cha mất, 
        Nandivardhana lãnh nhiệm vụ chính trị của cha và dùng thế 
        lực ở Vesàli để truyền bá đạo Ni-kiền-tử.
        Hai năm sau khi cha mẹ nhịn đói đến chết, vào 
        dịp đầu mùa đông, Vardhamàna từ giã gia đình để theo đời 
        Sa-môn. Thời ấy, (527 trước CN) vị này được ba mươi tuổi. 
        Vì tuân thủ lời dạy của sơ tổ Pàrsva, vị ấy không cần 
        tìm một đạo sư mới mà chỉ sống theo Giới Luật của sơ 
        tổ. Trước tiên, vị ấy làm du sĩ khổ hạnh, chỉ đắp một 
        y, nhưng sau mười ba tháng vị ấy bỏ y này và từ đó 
        "mặc y không khí:, tức là lõa thể, một tập tục mà 
        đồ đệ một thời của vì này là Makkhali Gosala, một du sĩ 
        Ajivika, đã chấp nhận.
        Vardhamàna tự buộc mình theo những điều luật 
        khắc nghiệt, tương truyền là đã dựng một bức tường 
        cao quanh mình để hành thiền bên trong. Suốt hai năm hai tháng 
        vị ấy vẫn ở chỗ cũ theo cách này, và sau đó bắt đầu 
        du hành, dần dần tiến về hướng đông từ vùng "Trung 
        Nguyên" vào phía Tây vịnh Bengal ngày nay, và có lẽ ra tận 
        biển. Việc tiếp xúc của vị ấy với quần chúng miền đông 
        Ấn không được hoàn toàn tốt đẹp, vì dân chúng ở đó 
        xem hình thức lõa thể là vô liêm sĩ và không hiểu được 
        lối sống khất sĩ. Ðôi khi họ còn thả chó ra vồ cả 
        Sa-môn lõa thể kia nữa!
        Vardhamàna sống đời khổ hạnh cùng cực, dù 
        vị ấy chưa theo đuổi một kiểu hành hạ xác thân nào. Sự 
        kiện Giác Ngộ của vị này được xem là đã khiến vị 
        này thành bậc Toàn Tri Kiến xuất hiện sau mười hai năm sống 
        đời du sĩ không nhà, nghĩa là năm 515 trước CN. Khung cảnh 
        giác ngộ là một cây Sàla gần Jrimbhikagràma. Do giác ngộ, 
        đạo sư Vardhamàna trở thành Thắng Giả (jina) cùng với 
        danh hiệu này, thời kỳ bị quần chúng bài xích cũng qua 
        đi: vị Thắng Giả đã được thiên hạ đối xử tôn 
        kính.
        Sau ba mươi năm hành đạo và tạo nên sự nghiệp 
        thành công với địa vị giáo chủ, Mahàvìra từ trần tại 
        Pàvà (nay là Pàvapurì) gần Patna vào năm 485 trước CN ở tuổi 
        bảy mươi hai. Cũng giống như cha mẹ đạo sư này nhịn đói 
        cho đến chết. Vị ấy để cho hậu thế một hội chúng 
        Sa-môn và đệ tử tại gia, cả nam lẫn nữ, ít hơn số 
        tăng chúng Phật giáo hay phái Ajivika, nhưng cũng khéo tổ chức 
        theo đoàn thể. Giáo lý Nigantha được vị này phục hưng, dần 
        dần theo thời gian được gọi là Kỳ-na giáo, tồn tại ở 
        Ấn Ðộ cho đến nay và có khoảng hai triệu môn đồ, phần 
        lớn ở Bombay.
        Ðại cương giáo lý Kỳ-na mà chúng ta thấy 
        được trong Kinh Tạng Pàli (DN 2.29) thiếu mất điểm trọng 
        yếu của hệ thống này. May mắn là chúng ta không cần phải 
        theo nguồn Kinh điển ấy, vì chính môn đồ Kỳ-na giáo có 
        nguồn thánh điển bao quát đầy đủ được chép thành văn 
        vào thế kỷ thứ năm sau CN và lưu truyền theo ngôn ngữ 
        Ardhamagàdhì (ngôn ngữ của sư tổ Mahàvìra), Apadhramsa và 
        Sanskirt.
        Ngoài ra, văn học của dân chúng Ấn Ðộ chịu 
        nhiều ảnh hưởng của đạo Kỳ-na. Giáo phái này xem việc 
        bảo tồn các kinh sách cổ điển quan trọng là công đức tạo 
        phước nghiệp bằng cách chép tay hay in lại các sách này hư 
        nát sau khoảng chừng một trăm rưỡi năm.
        Cũng như Phật giáo, đạo Kỳ-na không tin vào 
        sự tăng hay giảm theo định kỳ của thế giới. Thế giới 
        xưa nay vẫn tồn tại như vậy và không hoại diệt, mặc 
        dù mọi hình thức thay đổi cứ tiếp diễn trong đó và mọi 
        hoàn cảnh luôn biến dịch. Vạn pháp diễn ra theo qui luật 
        nhân quả tự nhiên và không có một vị thần linh nào kiểm 
        tra cơ chế của thế giới cả. Mọi sự can thiệp từ bên 
        ngoài vào qui luật tự nhiên là điều không thể có được.
        Toàn thể thế giới gồm các yếu tố phi sinh 
        mạng và sinh mạng, điều này được phái Kỳ-na phân biệt 
        rất rõ ràng. Lãnh vực phi sinh mạng (ajìva) bao gồm năm thể 
        loại, hình thái, và thực tại, đó là: không gian, chuyển 
        động, đình chỉ, thời gian và vật chất (pudgala). Vật chất 
        (tức là đất, nước, lửa, không khí) do các nguyên tử 
        (anu) tạo thành, các nguyên tử này không thể phân chia nhỏ 
        hơn nữa. Các nguyên tử kết hợp cùng với nhiều nguyên tử 
        khác, và từ sự hòa đồng này phát sinh nhiều biểu hiện 
        vật chất đa dạng mà ta có thể thấy được. Bóng tối, 
        ánh sáng, âm thanh và tiếng động cũng đều được xem là 
        vật chất.
        Trái với lãnh vực phi sinh mạng ấy là lãnh vực 
        sinh mạng (jìva). Vô số linh hồn hay tự ngã riêng biệt 
        (àtman) thuộc về lãnh vực này, chúng trường tồn, có ý 
        thức, toàn tri kiến, vô ưu và hoàn hảo, bao lâu chúng chưa 
        bị suy thoái thành các "sinh mạng" (jìva) hay 
        "linh hồn nhập thể" do sự ô nhiễm từ bên ngoài. 
        Cả hai từ àtman và jìva đều chỉ chung linh hồn, theo cách 
        nó hiện hữu trong trạng thái thanh tịnh hay trạng thái nhập 
        thể. Tất cả mọi atmans đều giống nhau, trong khi các 
        jìvas lại khác nhau do quá trình hiện thân nhập thể ấy.
        Sự suy thoái của àtman thành một jìva do sự 
        lắng động một chất bất tịnh tinh tế tạo nên, mắt thường 
        không thấy được, nó dính vào àtman như thể các hạt bụi 
        dính vào một bề mặt trơn láng. Theo cách này, àtman trước 
        hết tạo ra một thực thể tâm linh, sau đó là một thực 
        thể vật chất. Thực thể này ban đầu che dấu và cuối 
        cùng bao phủ lên mọi tính chất căn bản àtman. Như thế 
        àtman trở thành một jìva, là một hữu tình sống thực bị 
        trói buộc vào vòng luân hồi sanh tử (samsàra), vì vậy phải 
        chịu đựng khổ đau triền miên tái diễn.
        Mọi khổ đau phát xuất từ sự trói buộc 
        linh hồn vào thể chất. Các jìvas không chỉ là loài người, 
        sinh vật, mà còn là cỏ, cây, đất, nước, lửa, gió, cho 
        đến đá, sỏi nữa. Các loài vật này có một linh hồn tập 
        thể. Theo quan điểm Kỳ-na giáo như thế, phần lớn các phạm 
        vi hiện hữu đều sống động, trong khi các trường phái tư 
        duy khác thường xem chúng là vô tri, bất động. Niềm tin này 
        giải thích sự quan tâm đặc biệt của người theo đạo Kỳ-na 
        tránh làm hại môi trường xung quanh.
        Sự trói buộc (yoga) các linh hồn vào thế giới 
        vật chất và vòng luân hồi sanh tử đã xuất hiện từ thời 
        vô thủy. Nó được tạo ra bởi các nghiệp (karman) từ ý, 
        khẩu, thân của mỗi vị hữu tình. Mọi hành động dù thiện 
        hay ác, đều cuộn lên những hạt bụi của nghiệp lực -được 
        gọi là những karman trong thuật ngữ Kỳ-na giáo - chúng làm 
        cấu uế sinh mạng tức là người hành động: những karman 
        này được xem là các "chất tội lỗi" tinh tế. 
        Các hành động độc ác và ích kỷ tạo nhiều bụi bặm ô 
        nhiễm nghiệp lực hơn các hành động khác, và càng trói chặt 
        loài hữu tình vào vòng luân hồi hơn nữa.
        Cứu cánh của Kỳ-na giáo là giải thoát linh hồn 
        khỏi vòng tái sanh. Giải thoát, nghĩa là biến đổi sinh mạng 
        (jìva) trở về trạng thái linh hồn (àtman) thanh tịnh, được 
        thực hiện bằng cách sống cho hết mọi nghiệp quá khứ 
        (karman), như vậy chúng được tận diệt, đồng thời bằng 
        cách không tạo thêm các nghiệp mới. Phương pháp đi đến 
        cứu cánh này qua nhiều kiếp tái sanh thật trường kỳ và 
        khổ đau. Phái Kỳ-na do vậy nhận định rằng chỉ có một 
        số ít hữu tình đi con đường ấy cho đến đích, còn đa 
        số phải chịu tái sanh vĩnh viễn.
        Ðể hủy diệt các nghiệp cũ càng nhanh càng tốt, 
        nhiều người theo đạo Kỳ-na thực hành nhiều giới khổ hạnh 
        khắc nghiệt gồm cả nhịn ăn đến chết. Chết do khổ hạnh 
        thì được chấp nhận, mặc dù tự sát thông thường được 
        xem là dấu hiệu của hèn nhát. Nhằm mục đích đề phòng 
        các nghiệp mới sanh khởi, họ thường theo nếp sống vô 
        cùng nghiêm ngặt.
        Tất cả mọi đệ tử Kỳ-na giáo, tu sĩ cũng 
        như tại gia, có năm điều luật căn bản (vrata), được suy 
        diễn là khá nới lỏng đối với cư sĩ, nhưng cực kỳ 
        nghiêm khắc đối với tu sĩ, đó là: không hại bất cứ 
        jìva nào (ahimsà), không trộm cắp hoặc nói dối, sống tiết 
        chế nhục dục và không tạo quá nhiều tài sản.
        Con đường đi đến giải thoát dành cho cư sĩ 
        được chia làm mười một giai đoạn (pratimà). Vì không thể 
        nào tránh làm hại các sinh vật bé nhỏ ở trong đất, nên 
        giữa các nghề, người thế tục bị cấm làm nghề nông. 
        Thế là cộng đồng cư sĩ đạo Kỳ-na đa số gồm thương 
        gia, nhiều người đã trở thành giàu có nhờ buôn bán vàng 
        ngọc. Vàng ngọc là vật vô tri, do vậy sử dụng chúng 
        không làm hại jìva nào cả.
        Chứng đắc viên mãn (siddhi) và giải thoát 
        (moksa) chỉ có thể do giới tu sĩ thành tựu. Ðiều này cốt 
        yếu là giải thoát linh hồn, phục hồi sự thanh tịnh của 
        àtman. Những ai được giải thoát (kevalin) sau khi chết sẽ 
        cư trú trên cõi trời cao hơn vũ trụ này. Tại đó họ tồn 
        tại như những linh hồn phi thể chất trong một trạng thái 
        cực lạc toàn tri kiến, bất động, ly hỷ, vô ưu.
        Trên đây là sơ lược giáo lý Kỳ-na, mặc dù 
        một vài điểm có thể đã được phân loại về sau, tuy 
        nhiên, điều chắc chắn là các tư tưởng tinh túy đều đã 
        có từ thời tổ sư Mahàvìra, thậm chí cả tổ Pàrsva nữa.
        Kinh điển Pàli không có dấu hiệu nào cho thấy 
        đức Phật đã từng đích thân hội kiến bất kỳ ai trong 
        số lục sư ngoại đạo danh tiếng ở thời ngài cả. Theo 
        nguyên tắc ngài tránh các cuộc gặp mặt như vậy (Snip 828, 
        912) mặc dù rất có thể là ngài sẽ thắng trong bất kỳ 
        cuộc tranh luận nào với chư vị ấy. Ngài được xem là một 
        đối thủ đáng kính nể, khó thắng được.
        "Sa-môn Gotama đầy mưu lược, vị ấy biết 
        nhiều xảo thuật mê hoặc lôi cuốn (tức là cảm hóa) các 
        đệ tử ngoại đạo". Vị đệ tử Kỳ-na giáo 
        Dìhatapassin (Trường Khổ Hạnh Giả) tường trình với đạo 
        sư Mahàvìra của mình như vậy, sau khi đã tranh luận với 
        đức Phật (MN 56). Tổ Mahàvìra có lễ cúng để dễ dàng tạo 
        được một số ý kiến cá nhân đánh giá "Sa-môn 
        Gotama", vì cả hai vị đều ở gần nhau tại Nàlandà 
        (MN 56). Về phương diện khác, đức Phật cũng không quan 
        tâm đến việc kết giao với tổ Mahàvìra.
        Trong hai thập niên hoằng pháp đầu tiên, việc 
        hóa đạo của đức Phật thành công tương đối dễ dàng. 
        Nhiệt tình của ngài còn tinh nguyên và truyền cảm, trong 
        khi các giáo lý đối lập lại yếu hơn. Ðám người cạnh 
        tranh gay gắt để chiếm ưu thế giữa quần chúng và các đạo 
        sư đối lập điêu luyện chỉ xuất hiện dần theo thời 
        gian, trước tiên từ phái jìvikas, về sau từ phái Kỳ-na. 
        Trong thập niên cuối cùng của đời ngài, hầu như chỉ còn 
        phái Kỳ-na là nhóm triết gia đối lập với ngài.
        Mặc dù đức Phật chưa bao giờ đích thân gặp 
        mặt bất cứ vị lãnh đạo nào của các giáo phái khác, 
        thông thường đệ tử của các đạo sư ấy, nhất là của 
        tổ Mahàvìna, vẫn đến yết kiến ngài. Kinh điển Pàli tường 
        thuật nhiều cuộc viếng thăm kia, ví dụ như sau:
        "Một thời, Thế Tôn trú tại Nàlandà, ở 
        tinh xá trong Vườn Xoài Pàvàrika. Rồi thôn trưởng 
        Asibandhakaputta, đệ tử của đạo sư Lõa thể Mahàvìra đến 
        yết kiến Thế Tôn. Khi vị ấy ngồi xuống bên tả Thế 
        Tôn, Thế Tôn hỏi:
        -Này thôn trưởng, giáo pháp của Nigantha 
        Nàtaputta dạy đệ tử thế nào?
        -Bạch Thế Tôn, Nigantha Nàtaputta dạy như vầy:
        " Bất cứ ai sát hại sinh mạng, tất cả 
        chúng đều phải vào đọa xứ, địa ngục. Bất cứ ai lấy 
        của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, tất 
        cả chúng đều phải vào đọa xứ, địa ngục. Theo cách một 
        người có thói thường sống như thế nào, kẻ ấy đi về 
        hướng sanh thú ấy". Bạch Thế Tôn, như vậy là giáo 
        pháp mà Nigantha Nàtaputta dạy đệ tử".
        -Này thôn trưởng, ông nói: "Theo cách một 
        người có thói thường sống thế nào thì kẻ ấy đi 
        về hướng sanh thú ấy". Song nếu sự tình là như vậy, 
        thì không ai vào đọa xứ, địa ngục cả. Vì ông nghĩ thế 
        nào, này thôn trưởng? Nếu một người thỉnh thoảng có 
        sát sanh, thì thời nào là thông thường hơn (= nhiều hơn) 
        đối với kẻ ấy: thời gian kẻ ấy sát sanh hay thời gian 
        kẻ ấy không sát sanh?
        -Bạch Thế Tôn, dĩ nhiên thời gian kẻ ấy 
        không sát sanh là thường hơn.
        -Nhưng ông nói: "Theo cách một người có 
        thói thường sống như thế nào, thì kẻ ấy đi về hướng 
        sanh thú ấy". Do vậy, theo giáo pháp của Nàtaputta, không 
        ai được đọa xứ, địa ngục cả.
        (Ðiều này cũng phù hợp với các ác nghiệp 
        được tổ Mahàvìra bác bỏ).
        Này thôn trưởng, một đạo sư khác thuyết giảng 
        (điều trái ngược hẳn với những gì Mahàvìra tuyên bố) 
        và đệ tử đặt lòng tin vào thầy mình. Kẻ ấy nghĩ: 
        "Thầy tuyên bố rằng bất cứ ai sát sanh - tất cả 
        chúng đều vào đọa xứ, địa ngục. Nay ta cũng đã sát 
        sanh, vậy ta sẽ phải vào đạo xứ, địa ngục". Và bởi 
        vì kẻ ấy chấp chặt tà kiến kia, không buông bỏ tà kiến 
        kia, chắc chắn kẻ ấy phải vào địa ngục, đọa xứ.
        * Nhưng ở đây, này thôn trưởng, Như Lai xuất 
        hiện ở đời, bậc A-la-hán Cánh Ðẳng Giác. Như Lai kịch 
        liệt chỉ trích sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong 
        các dục, và nói láo. Vị đệ tử đặt lòng tin vào đạo 
        sư, bèn suy nghĩ: "Nay ta đã sát sanh. Việc ấy là không 
        đúng, như vậy là không tốt. Phải luôn ghi nhớ rằng hành 
        động ác kia ta đã lỡ làm, nay ta hãy ăn năn hối cải". 
        Và do suy nghĩ như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh và bằng 
        cách này vị ấy vuợt qua ác nghiệp (kamma)... và đồng thời 
        tu tập chánh kiến, hộ trì các căn, phát triển thiền định, 
        quán từ âm...
        Cũng giống như chiếc tù và bằng vỏ ốc vang 
        dội bốn phương, vị ấy biến mãn khắp bốn phương với 
        tâm từ, bi, hỷ, xả, vô lượng, vô biênẨ, này thôn trưởng, 
        nhờ từ tâm giải thoát và xả tâm giải thoát được tu tập 
        như vậy, phàm việc gì có hạn lượng sẽ không có dư tàn, 
        sẽ không còn tồn tại".
        Khi nghe những lời này, thôn trưởng 
        Asibandhakaputta thưa với Thế Tôn:
        " Thật vi diệu thay, Bạch Thế Tôn, thật 
        hy hữu thay, bạch Thế Tôn, ước mong Thế Tôn nhận con làm 
        cư sĩ tại gia quy ngưỡng Thế Tôn từ nay cho đến trọn đời". 
        (SN 42.2,8 giản lược)
        Bài kinh này thật thú vị, không chỉ vì miêu 
        tả một cuộc thảo luận giữa các giáo phái, mà còn vì kỹ 
        thuật biện luận được đức Phật dùng ở đây, kỹ thuật 
        này có thể được gọi là "phương pháp hạn chế". 
        Sau khi nêu rõ lý thuyết về nghiệp (kamma) của Mahàvìra là 
        cực đoan A (các hành động ác thỉnh thoảng xảy ra không 
        đưa đến nghiệp quả), và của một đạo sư khác là cực 
        đoan Z (tất cả các hành động ác đều đưa đến nghiệp 
        quả),  ngài trình bày lý thuyết về nghiệp của ngài 
        là Trung Ðạo M hợp lẽ phải: " Nghiệp quả của một 
        hành động ác có thể được khắc phục nhờ ăn năn hối 
        cải và tu tập phát triển công đức giới hạnh". Cả 
        trong thực chất của vấn đề cũng như phương pháp lý luận, 
        ở đây đức Phật đều chứng minh Trung Ðạo của ngài.
        Ðức Phật không đánh giá cao khả năng thuyết 
        giảng cùng giáo lý của tổ Mahàvìra. Ngài bảo chư Tỳ-kheo, 
        các giáo lý Kỳ-na không thỏa đáng từ bất cứ quan điểm 
        nào. Bởi vì nếu khổ lạc của chúng sanh đều do nghiệp 
        quá khứ quyết định thì mọi đệ tử phái Kỳ-na, những 
        kẻ sống theo Giới Luật khắc nghiệt, phải chịu đựng quá 
        nhiều khổ đau như vậy, chắc hẳn phải là những kẻ tạo 
        nhiều ác nghiệp trong kiếp quá khứ. Hoặc nếu ta giả thiết 
        khổ lạc đều do một đấng sáng tạo nào đó, hoặc do ngẫu 
        nhiên, thì hẳn mọi đệ tử Kỳ-na phải do một đấng Sáng 
        Tạo ác độc tác thành, hoặc là kết quả của tai họa ngẫu 
        nhiên đầy bất hạnh. (MN 107)
        Trí tuệ linh hoạt mẫn tiệp của đức Phật 
        khiến ngài dễ dàng phản bác các triết lý đối lập bằng 
        cách nêu ra các điểm mâu thuẫn nội tại của họ. Một 
        ví dụ là cuộc đối thoại với vị thôn trưởng phái Kỳ-na 
        vừa nêu trên, một ví dụ khác là cuộc đàm luận của 
        ngài đối với du sĩ ngoại đạo Dìghanakha Aggivessana, con 
        trai của bà chị tôn giả Sàriputta (MN 74). Dìghanakha (Trường 
        Trảo) đến yết kiến đức Phật trên núi Linh Thứu 
        (Gijjhakuta) gần Ràjagaha, và nêu quan điểm: "Tất cả đều 
        không làm tôi thích thú". Ðức Phật đáp rằng nếu tất 
        cả (sabbam) đều không làm vị ấy thích thú, thì điều này 
        phải bao gồm luôn cả triết lý với vị ấy nữa. Túng thế, 
        Dìghanakha buộc phải thừa nhận điều này chính là vậy. 
        Sau đó đức Phật thuyết giảng rằng những quan niệm đầy 
        mâu thuẫn nội tại như vậy làm chướng ngại sự an tịnh 
        của tâm. Cứu cánh giải thoát chỉ có thể đạt được bằng 
        cách từ bỏ mọi hý luận triết lý, nhờ tuệ giác thấu 
        triệt bản chất như thật của hiện hữu, sắc thân là vô 
        thường, khổ, vô ngã (tức là không có bản ngã tồn tại 
        sau khi chết). Nhận thức này sẽ đưa đến yếm ly mọi cảm 
        thọ (khổ, lạc, bất khổ bất lạc), ly tham, giải thoát 
        và đoạn tận tái sanh. Dìghanakha cảm phục khi nghe lời 
        thuyết giảng này, liền xin gia nhập hội chúng cư sĩ tại 
        gia của đức Phật.