Chương 
        V
        Ðức 
        Phật Gotama và các phương diện tâm lý
        
        -oOo-
        NHÂN 
        DẠNG CỦA NGÀI
        Kinh Ðiển Pàli có 
        nhiều đoạn miêu tả đức Phật do Bà-la-môn Sonadanta phát 
        họa. Quả thật, trước kia vị Bà-la-môn chưa gặp bậc Ðạo 
        Sư vào thời điểm miêu tả này, vị ấy chỉ lập lại 
        những gì đã được nghe, nhưng sau đó vị ấy diện kiến 
        ngài và nhận ra rằng điều này thật chính xác:
        
        "Quả thật Sa-môn 
        Gotama diện mạo tuấn tú, khả ái, gợi niềm tin tưởng, đặc 
        biệt có làn da như màu hoa sen, màu da tương tự như Phạm 
        thiên, rực rỡ như Phạm thiên. Diện mạo ngài thật cao 
        sang. Giọng nói ngài thanh lịch, ngôn từ ngài diễn đạt cũng 
        vậy, tao nhã, tế nhị, hùng hồn, trong sáng và chính xác". 
        (DN 4.6)
        Làn da tươi sáng của 
        đức Phật được nhiều người đồng thời chú ý. Ngài thường 
        được miêu tả "có màu da sáng như vàng" và 
        sau cuộc tranh luận sôi nổi với vị cư sĩ Ni-kiền-tử 
        Saccaka Aggivessana, vị ấy nhận xét rằng "màu da của 
        Tôn giả Gotama vẫn giữ nguyên vẻ trong sáng" (MN 36. 
        49). Trong một xứ như Ấn Ðộ, nơi người ta chú trọng đến 
        màu da và da có màu "lúa vàng" được xem là dấu 
        hiệu của cả giai cấp thượng lưu (vanna: nghĩa đen: màu 
        da) cùng với gia tộc cao sang, nhận xét này có ý nghĩa không 
        chỉ là ca ngợi diện mạo đức Phật mà còn tán tụng các 
        tổ tiên của ngài nữa.
        Tuy nhiên không thể 
        kết luận về nguồn gốc gia tộc của đức Phật do màu da 
        của ngài. Dân chúng ở cộng hòa Sakiya một phần gốc Ấn, 
        đa số gốc Indo-Ariyan. Họ nhập cư từ miền Tây và Nam, và 
        một phần gốc Mông Cổ từ Bắc tràn xuống dọc theo các 
        thung lũng bên bờ sông. Thời đức Phật có hai sắc tộc, dân 
        Ấn màu nâu và dân Mông Cổ vàng nâu, đã đồng hóa với 
        nhau trong lãnh thổ bộ tộc Sakiya này, vì thế có nhiều 
        mẫu người tạp chủng và nhiều dân tộc có đủ màu da 
        phối hợp.
        Một dấu hiệu cho 
        thấy đức Phật có lẽ thuộc về sắc tộc Ấn Ðộ hơn là 
        sắc tộc Mông Cổ ở vùng Tuyết Sơn là chiều cao của ngài. 
        Dân tộc Mông Cổ thường mập lùn, thô kệch, thấp hơn dân 
        Ấn Ðộ, còn kinh sách ghi chép rằng đức Phật Gotama, ngay 
        cả khi đang du hành giữa đám dân chúng Ấn Ðộ ở miền 
        Nam sông Hằng, cũng vẫn hiện rõ dáng điệu oai nghi cao 
        cả.
         
        SỰ PHÁT 
        TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA NGÀI
        Nếu quốc vương 
        Suddhodana ở Kapilavatthu từng nuôi hy vọng rằng Thái tử 
        của ngài sẽ trở thành một người cường tráng đầy năng 
        động, quan tâm đến thế sự và có tham vọng trị nước, 
        thì ngài đã thất vọng. Vì nam tử này chẳng hề bị lôi 
        cuốn vào các trò tiêu khiển tập thể hay các buổi huấn 
        luyện quân sự, mà lại trở thành một người thích cô độc, 
        với nhiều khuynh hướng về suy luận triết lý và trầm tư 
        mặc tưởng. Thay vì hưởng thụ mọi lạc thú đúng với 
        vị trí một hoàng tử, chàng lại phát triển các tiêu 
        chuẩn của riêng mình và bất mãn với thế gian vì phải 
        chịu đựng những sự bất toàn hảo ở đời. Ðồng 
        thời, chàng lại trầm tư về cách làm thế nào chàng có 
        thể vượt lên cảnh đời ấy theo ý mình. Tóm lại, theo ngôn 
        từ tâm lý học, chàng là mẫu người trí thức nhạy cảm, 
        thường xuyên hướng nội. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên 
        khi đời sống gia đình và hôn nhân không làm chàng thỏa mãn 
        và chàng đã nắm lấy cơ hội từ giã thế tục để thành 
        Sa-môn khất sĩ.
        Chúng ta cần phải nhìn 
        thấy trong kinh nghiệm Giác Ngộ (bodhi) của đức 
        Phật vào năm 528 trước CN cả một biến cố trọng đại 
        không chỉ đem lại Ðạo Pháp cho thế giới, mà còn chuyển 
        biến Thái tử Siddhattha Gotama với khuynh hướng nội tâm 
        nổi bật ấy thành đức Phật hướng ngoại theo định kỳ. 
        Kinh nghiệm Giác Ngộ ấy đã đổ xô về hướng biểu lộ 
        tâm tư qua ngôn ngữ với một sức mạnh vĩ đại biết 
        chừng nào! Nó khiến đức Phật đi tìm nhiều người để 
        ngài có thể khai thị các khám phá của ngài và truyền 
        thụ kho tàng tâm linh mà ngài vừa tìm được.
        Suốt bốn mươi lăm năm 
        hoạt động hoằng Pháp này, ta có thể quan sát đức Phật 
        chuyển dịch giữa khuynh hướng thiên về nội tâm và khuynh 
        hướng ngoại giới. Các thời kỳ thuyết Pháp thành công 
        rực rỡ khiến ngài du hành từ vùng dân cư đông đúc này 
        đến vùng khác, có thể được phân biệt rõ ràng với 
        những thời kỳ ngài mệt mỏi vì quần chúng và tìm cách 
        độc cư an tịnh. Ngài thích du hành một mình (AN 6. 42 & 
        SN 22. 81) "như tây ngưu". Giáo Pháp của ngài hợp 
        với người thích độc cư, chứ không phải với những người 
        ham quần chúng, ngài tuyên bố như vậy (AN 8. 30).
        Tuy thế, ngài chỉ dành 
        cho khuynh hướng độc cư ở trong một số giới hạn, bởi 
        vì dù ngài truyền bá một giáo lý hướng nội ẩn dật, ngài 
        cũng phải hướng ngoại và du hành giữa quần chúng nếu ngài 
        muốn có nhiều người được cảm hóa vào đạo. Về sau, có 
        sự phân biệt giữa một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka-Buddha), 
        một vị Giác Ngộ riêng mình, xem các khám phá của mình là 
        sở hữu riêng, nên đã giữ im lặng về việc ấy, và một 
        vị Toàn Giác hay Chánh Ðẳng Giác (Sammà- Sambuddha) là 
        vị Phật tuyên bố sự khám phá của mình về con đường 
        cứu khổ cho đời. Lý tưởng của vị Phật Toàn Giác cao 
        thượng hơn vì một bậc đại tuệ hiền trí có tri kiến 
        tối thắng không chỉ nghĩ đến tự lợi mà còn nghĩ đến 
        lợi tha (AN 4. 186) .
        Khi tuổi càng cao, các 
        giai đoạn hướng nội tâm của đức Phật càng kéo dài. 
        Về phương diện truyền bá Giáo Pháp, ngài hài lòng với 
        sứ mạng thành công của ngài và không còn cảm thấy nỗi 
        phấn khởi của người diễn thuyết khi thính chúng bám sát 
        từng lời nói của mình và ngài chán ngán danh vọng (AN 5. 
        30) . Mặc dù ở độ tuổi tám mươi ngài vẫn còn đầy đủ 
        trí lực (MN 12. 62) và diễn thuyết hùng biện, các ảnh dụ 
        của ngài đã thiếu vẻ tân kỳ và màu sắc linh động, còn 
        các bài giảng Pháp của ngài có phần nào lập lại theo khuôn 
        mẫu cũ. Như vậy, càng ngày ngài càng cảm thấy việc giáo 
        huấn chư Tăng là vừa đủ cho ngài, nên chỉ khuyên răn 
        giới cư sĩ khi được yêu cầu. Về phần còn lại, thì 
        từ nay Giáo hội đã phát triển thành một cơ cấu có địa 
        bàn rộng lớn với nhiều đệ tử truyền bá Giáo Pháp danh 
        tiếng lẫy lừng, cần phải đảm nhận chức vụ thuyết 
        giảng này (DN 29. 15).
        Trong các lý do khiến 
        đức Phật giảm bớt hoạt động thuyết Pháp, cần phải 
        thêm một điểm quan trọng nữa: khoảng từ độ tuổi sáu 
        mươi, sức khỏe không cho phép ngài tiêu hao năng lực 
        nhiều.
        Trước kia, đức Phật 
        vẫn luôn luôn nhận thức rõ vấn đề sức khỏe, và ngài 
        cũng tuân hành các giới luật của đời Sa-môn. Trong những 
        tháng nóng nhất cuối mùa hạ ở Ấn Ðộ, ngài cho phép mình 
        ngủ trưa sau buổi thọ thực (MN 36. 46) và kiêng ăn buổi 
        tối để "giữ gìn sức khỏe, tươi vui, khinh an, dõng 
        lực và sống dễ chịu". (MN. 70)
        Ngoài chứng bao tử đôi 
        khi gây xáo trộn, đó là điều không thể tránh được 
        trong đời khất sĩ mà ngài đã chữa khỏi bằng cách xoa 
        dầu và dùng thuốc nhuận tràng (Mv 8. 1. 30), uống mật mía 
        với nước nóng (SN 7. 2. 3) hoặc cháo lỏng có ba dược 
        liệu (Mv 6. 17. 1), ngài còn mắc chứng đau lưng lúc về già, 
        có lẽ vì một đốt xương sống bị trặc. Ðứng lâu 
        khiến ngài đau lưng (AN 9. 4) và mặc dù lúc ngài đến 
        viếng Kapilavatthu, ngài ngồi trong hội trường mới xây, 
        dựa lưng vào cột, xương sống cũng làm ngài đau nên ngài 
        phải nằm xuống và bảo Tỳ-kheo Ànanda giảng tiếp Pháp 
        thoại (MN 53) .
        Hơi ấm thật tốt lành 
        cho chứng đau lưng ấy, có lẽ điều này khiến bậc Ðạo 
        Sư thường xuyên tắm các suối nóng khi trú tại Ràjagaha. 
        Một bài kinh (SN 48. 5. 1) tả cảnh đức Phật về già thường 
        ngồi ở tinh xá Ðông Viên sưởi ấm lưng trần dưới 
        nắng chiều tà trong lúc thị giả Ànanda vừa xoa bóp đôi 
        chân gầy yếu của ngài vừa mải mê bàn luận về sự suy 
        tàn của thân thể lúc tuổi già. Chẳng bao lâu, trước khi 
        viên tịch, bậc Ðạo Sư nhận xét rằng thân ngài chỉ được 
        duy trì sức sống nhờ chống đỡ bằng dây đai chằng 
        chịt (DN 16. 2. 25).
         
        CÁCH ÐỨC 
        PHẬT TỰ NHẬN XÉT MÌNH
        Như đã nói ở trên, 
        sự Giác Ngộ bừng lên trong tâm vị vương tử Thích-ca ba mươi 
        lăm tuổi này không chỉ là một hoạt động của tri thức, 
        mà còn là một chuyển biến về nhân cách nữa. Do Giác 
        Ngộ, ngài cảm nhận vô cùng sâu sắc rằng một bậc Giác 
        Ngộ không còn thuộc vào một hạng người nào trên thế 
        gian này nữa, mà đúng hơn, ngài tượng trưng cho một loại 
        hữu tình đặc biệt (AN 4. 36):
        
        "Ðừng xưng hô 
        với ta (theo cách thân mật cũ) là ‘hiền giả’", ngài 
        bảo các bạn đồng tu khổ hạnh ngày trước của ngài, khi 
        ngài gặp chư vị sau thời kỳ Giác Ngộ, "nay ta là 
        bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác" (Mv 1. 6. 12).
        Ðặc biệt phi thường 
        do quả Giác Ngộ, lại có nguồn gốc quý tộc, học vấn 
        xuất sắc và trí tuệ ưu việt, đức Phật thấy không có 
        lý do gì phải e ngại bất kỳ ai cả. Với các đại vương 
        và tiểu vương ở vùng "Trung Nguyên", ngài nói 
        chuyện thẳng thắn, không có gì dè dặt, và đàm đạo bình 
        đẳng với các Bà-la-môn thông thái nhất thời ngài. Ðối 
        trị với sự kiêu mạn của một số Bà-la-môn đã có lần 
        bày tỏ vẻ khinh bỉ một cách thô lỗ (DN 3), ngài cương 
        quyết không chịu để cho họ xem ngài thấp kém hơn họ. 
        Khi một trong số ấy trách ngài không đảnh lễ các vị Bà-la-môn 
        chuyên nghiệp cao sang, không đứng dậy chào họ hoặc mời 
        họ ngồi, bậc Ðạo Sư đáp lại rằng ngài không thấy có 
        ai trên đời xứng đáng để ngài tỏ ra tôn trọng như 
        vậy (AN 8, 11) . Ngài chỉ muốn phản bác 
        lại những điều tương tự như thế, chứ không có ý gì hơn. 
        Ngài đã từng tuyên bố, "Một vị A-la-hán không 
        cảm thấy hơn hay kém bất cứ ai khác". (AN 6. 49)
        Ngành tôn giáo đối 
        chiếu thường phân biệt các vị sáng lập tôn giáo thành 
        những nhà tiên tri và những nhà huyền bí.
        Nhà tiên tri là một người 
        hướng ngoại quá nhiệt tình, tâm trí bị ám ảnh bởi kinh 
        nghiệm thần linh nên cố thuyết phục người đồng loại 
        tuân lệnh Thượng Ðế, và tìm cách cải tạo thế giới 
        theo ý Thượng Ðế. Vị ấy tạo được số tín đồ bằng 
        những lời hứa hẹn hạnh phúc và đe dọa trừng phạt đọa 
        đày, và vì không tránh né tranh chấp ở đời, nên khi vị 
        ấy gặp xung đột với những kẻ theo truyền thống cũ, thì 
        thông thường phải chịu mạng vong do bạo lực.
        Trên phương diện khác, 
        nhà huyền bí khởi đầu từ quan điểm rằng giải thoát 
        khổ đau không thể được chứng đắc ở ngoại giới hay 
        qua sự can thiệp của một vị thần linh nào, mà nó chỉ có 
        thể tìm thấy ở nội tâm - qua sự thâm nhập vào bên trong 
        của mỗi người. Bậc hiền trí như vậy sống hòa hợp 
        với thế giới. Thái độ căn bản của vị ấy là thái độ 
        thanh thản, buông xả nội tâm, an nhiên tự tại.
        Ðức Phật tượng trưng 
        mẫu người huyền bí này. Vì ngài phủ nhận sự hiện 
        hữu của một bản ngã, một cái Tuyệt Ðối, nên kinh 
        nghiệm Giác Ngộ của ngài mang hình thức một sự đột phá 
        trong tri kiến, chứ không phải sự hòa nhập vào cái huyền 
        bí (unio mystica). Ðó chính là tuệ giác thấy rằng thế 
        giới với tất cả khổ đau (dukkha) có thể được 
        nhiếp phục, và nhờ nỗ lực mỗi người, ta có thể chặt 
        đứt vòng luân hồi sanh tử (Samsàra). Kinh nghiệm 
        của ngài về cái siêu nhiên, do đó ngài đạt địa vị cao 
        quý ở đời, là sự chứng đắc giải thoát bằng cách "dập 
        tắt", tịch diệt, Niết-bàn.
        
        Bất cứ ai gặp ngài 
        đều cảm thấy rằng người này vẫn ở trong thế 
        giới, nhưng không còn thuộc về thế 
        giới này nữa, và chính tuệ giác siêu phàm ấy đã 
        khiến ngài không bị nhiễm 
        ô giữa thế giới hiện tượng luôn biến chuyển.
        "Này các Tỳ-kheo, 
        Như Lai (tức chính đức Phật) đã liễu ngộ thế giới và 
        đã giải thoát khỏi thế giới. Như Lai đã liễu ngộ 
        nguồn gốc của thế giới (và của khổ đau) và đã giải 
        thoát khỏi thế giới. Như Lai đã liễu ngộ sự đoạn 
        tận thế giới và đã tự mình chứng đắc sự đoạn tận 
        ấy. Như Lai đã liễu ngộ và thuyết giảng con đường đưa 
        đến sự đoạn tận thế giới. Bất cứ những thứ gì 
        trong thế giới từng được (do tri kiến giải thoát) thấy, 
        nghe, cảm nhận, thức tri, chứng đắc, tầm cầu, suy tư, 
        tất cả những thứ ấy đều được Như Lai liễu ngộ. Chính 
        vì lý do này, ngài được gọi là Như Lai". (AN 
        4. 23, giản lược)
        
        "Này các Tỳ-kheo, 
        ta không tranh chấp với đời, chính đời tranh chấp với 
        ta. Người Thuyết Pháp không tranh chấp với bất cứ ai 
        giữa đời.
        Bất cứ điều (kiến) 
        gì được người hiền trí bác bỏ, ta cũng đều bác bỏ. 
        Bất cứ điều (kiến) gì được người hiền trí chấp 
        nhận, ta cũng đều chấp nhận ...
        Giống như một hoa sen 
        xanh hay trắng sinh ra trong nước, lớn lên trong nước (và vì 
        có lớp màng phủ bên ngoài) nên không bị nước làm ô 
        nhiễm. Cũng vậy, Như Lai đã sinh trưởng trong đời, đã vươn 
        lên khỏi đời và an trú không bị đời làm nhiễm ô". 
        (SN 22. 94, giản lược)
        Thật không có một nhà 
        huyền bí nào tự miêu tả đặc tính của mình chính xác hơn 
        thế nữa.
        Lời đức Phật khẳng 
        định rằng ngài chỉ công nhận những quan điểm (kiến) nào 
        được người hiền trí công nhận đáng cho ta quan sát kỹ 
        lưỡng. Lời ấy dựa trên niềm tin vững chắc rằng Giáo 
        Pháp của ngài không phải là thứ triết lý do suy tư tạo 
        thành, mà phát xuất từ tuệ giác thực chứng và tượng trưng 
        chân lý khách quan. Ngài chắc chắn là bất cứ ai thể 
        nhập vào tri kiến uyên thâm về thế giới cũng sẽ xác 
        nhận Pháp chính là thực 
        tại đơn thuần, không gì khác.
        
        Với niềm xác tín như 
        vậy, thật không lạ gì khi ngài xem các quan điểm khác 
        chỉ là tà kiến, hý luận vọng tưởng và nhận định vô 
        căn cứ (DN 1. 1. 29). Các vấn đề lý luận siêu hình như là 
        thế giới thường hằng hay vô thường (DN 1. 2), bản ngã (mà 
        ngài đã bác bỏ sự hiện hữu) là gì và có tồn tại sau 
        khi chết không (DN 1. 2. 38) và tương lai sẽ ra sao..., tất 
        cả những vấn đề đó ngài đều bài bác như những điều 
        vô ích. Chỉ một thứ tri kiến cần thiết: đó là giải 
        thoát tri kiến (DN 1. 3. 30).
        Những kẻ khác có 
        thể đã công kích những lý thuyết mà họ xem là sai lầm, 
        và tranh luận với những ai giữ quan điểm ấy, song đức 
        Phật không làm như vậy, ngài có thái độ điển hình của 
        nhà huyền bí không "tranh chấp với ai ở đời":
        
          
            
            Có người thường 
            nói với tâm sân,
            Một số nói tâm hướng thật chân,
            Ðể mặc cho người đời muốn nói,
            Bậc hiền trí tịnh chẳng quan tâm.
            (SNip 780)
            
            Bậc trí tịnh tâm 
            thấy khắp nơi
            Không còn thành kiến với người đời
            Tử sinh, ngài đoạn trừ si, mạn,
            Không chấp thủ gì, để ý ai.
            Lắm kẻ bận tâm chuyện thế gian
            Người không vướng bận, biết sao bàn?
            Người không chấp nhận, không bài bác,
            Rũ sạch mọi thiên kiến, chẳng màng.
            (SNip 780-7)
          
        
        Các từ 
        "kiến", "quan điểm", dịch từ "ditthi" 
        (Pàli) chỉ tất cả các quan điểm lý luận ở đời không 
        được thực chứng.
        Kinh Ðiển Pàli ghi 
        lại nhiều trường hợp hễ đức Phật thấy một cuộc 
        tranh luận nào thiên về lý thuyết, thì ngài liền tìm cách 
        đưa đề tài ấy trở lại con đường thực tiễn đi đến 
        giải thoát. Trong các vấn đề tín ngưỡng, ngài là một người 
        chủ trương thực tiễn, như ngài đã giải thích cho 
        Tỳ-kheo Màlunkyaputta với ảnh dụ mũi tên độc. Màlunkya-putta 
        đã suy tư nhiều về đủ mọi vấn đề lý luận siêu hình 
        mà vị ấy đưa ra tham vấn đức Phật. Bậc Ðạo Sư đáp:
        
        "Này Màlunkyaputta, 
        hỏi thế này cũng giống như trường hợp một người bị 
        bắn một mũi tên tẩm thuốc độc rất nặng. Bằng hữu người 
        ấy mời một y sĩ, song người bị thương ấy bảo: "Ta 
        không muốn nhờ nhổ mũi tên này ra cho đến khi ta biết rõ 
        tên họ, gia tộc người bắn cung, kẻ ấy cao hay thấp, da 
        đen, nâu, hay vàng, sống ở đâu, cây cung và dây cung ra sao, 
        mũi tên được làm bằng gì và loại lông chim nào kết vào 
        mũi tên. Này, Màlunkyaputta, người kia có thể chết trước 
        khi tìm được mọi câu giải đáp ấy". (MN 
        63, giản lược)
        Lời khuyên nhủ tiến 
        hành theo cách thực tiễn, tiêu chuẩn làm phương tiện lợi 
        ích cho giải thoát, được đức Phật đưa ra cho dân chúng 
        thuộc bộ tộc Kàlàmas ở Kesaputta, một thị trấn nhỏ ở 
        vương quốc Kosala. Những người ấy hỏi ngài làm thế nào 
        phân biệt giả chân khi các Sa-môn, Bà-la-môn nói những điều 
        tương phản nhau. Ðức Phật bảo họ:
        
        "Này các vị Kàlàmas, 
        đừng tin theo truyền thuyết, truyền thống, cũng đừng tin 
        theo những gì người ta thường nói hay uy quyền của kinh điển, 
        cũng đừng theo các lý luận siêu hình hay các lối suy 
        diễn, hoặc do thích thú một số học thuyết quan điểm, 
        hoặc vì cảm phục tài đức một bậc đạo sư. Nhưng đúng 
        hơn, khi nào chính chư vị nhận xét: "Các pháp này là 
        bất thiện, đáng chê trách, bị người trí chỉ trích và 
        nếu được thực hiện sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau", 
        thì này các vị Kàlàmas, chư vị hãy bác bỏ chúng.
        ... Và khi chính chư 
        vị nhận xét: "Các pháp này thuần thiện đáng được 
        chấp nhận, được người hiền trí tán thán và nếu được 
        thực hiện, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc", thì này 
        các vị Kàlàmas, chư vị hãy chấp nhận chúng". (AN 
        3. 65, giản lược)
        
        Tiêu chuẩn duy nhất để 
        đánh giá một lý thuyết là tính cách hữu hiệu của nó 
        đưa đến giải thoát: giá trị của nó nằm ở trong kết 
        quả nó đạt được. Nếu 
        giá trị giải thoát của nó đã được xác lập, thì người 
        ta phải tuân thủ nó.
        Ðức Phật cũng thực 
        tiễn khi trình bày các khám phá mới của ngài, và chỉ 
        giới hạn những điều ngài khai thị cho phù hợp với cứu 
        cánh giải thoát. Có lần đang lúc ngài ngồi nghỉ gần 
        Kosambì dưới một khóm cây rừng Simsapà, tức cây Asoka (Saraca 
        indica) với các chùm hoa nở tuyệt đẹp, ngài nắm một 
        ít lá rụng trong bàn tay và hỏi:
        
        "- Này các 
        Tỳ-kheo, cái nào nhiều hơn, nắm lá Simsapa trong tay ta, hay 
        đám lá trên các cây kia?
        
        - Bạch 
        Thế tôn, chỉ có một ít lá trong tay Thế tôn, còn trên cây 
        kia thật nhiều lá.
        
        - Cũng 
        vậy, này các Tỳ-kheo, có rất nhiều điều ta đã khám phá, 
        nhiều hơn hẳn những gì ta đã khai thị. Chỉ có một ít 
        điều ta đã khai thị mà thôi. Và tại sao ta lại không khai 
        thị các điều kia? Bởi vì chúng không có lợi ích, không 
        phục vụ đời Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, 
        an tịnh, thắng trí, Giác Ngộ, Niết- bàn". (SN 
        56.12. 4 , giản lược)
        Trong khi một số đạo 
        sư Ấn Ðộ tự xưng là có khả năng giải thoát cả thế 
        giới này, đức Phật Gotama nói rõ là chỉ những người nào 
        "biết lắng tai nghe" do có căn tánh nghiệp 
        lực thuận lợi, mới có thể được giải thoát. Ngài 
        thấy ngài chính là người hướng dẫn con đường đưa đến 
        giải thoát, song ngài không 
        thể bắt buộc những người được ngài chỉ đường 
        phải đi con đường ấy.
        "Chỉ một số ít 
        đệ tử được ta thuyết giảng, chứng đắc cứu cánh 
        tối thượng, Niết-bàn. Những kẻ khác không chứng đắc 
        cứu cánh ấy... Có Niết-bàn, có con đường đưa đế 
        Niết-bàn và có ta là người chỉ đường. Nhưng trong các 
        đệ tử được ta thuyết giảng chỉ một số chứng đắc 
        cứu cánh, một số khác thì không. Ta biết làm gì được? 
        Ta chỉ là người chỉ đường". (MN 
        107 , giản lược)
         
        TÍNH TÌNH
        
        * ÐẶC TÍNH TÂM LÝ: 
        Từ, Bi, Hỷ, Xả
        Ðức Phật bài bác 
        niềm tin của giai cấp Sát-đế-lỵ (võ tướng) khi ngài 
        dạy rằng các võ tướng chiến sĩ ngã xuống ngoài mặt 
        trận sẽ phải chịu một tái sanh bất hạnh vì nghiệp 
        lực. Do các hận sân của vị ấy tăng trưởng đối với 
        kẻ thù, một chiến sĩ chết trận có thể tái sanh vào Ðịa 
        ngục Saràjità, ngài tuyên bố như vậy (SN 42. 3). Mặc dù 
        sự trận vong của người anh hùng có ích lợi cho tổ 
        quốc, nó lại đem đến một tái sanh khổ đau cho người 
        tử sĩ.
        Chủ trương hòa bình vô 
        điều kiện của đức Phật biểu lộ rõ ràng trong ba vần 
        kệ của Pháp Cú, ở đó ngài diễn tả bất bạo động là 
        phương tiện chấm dứt thù nghịch hận sân:
        
          
          "Nó làm nhục tôi, 
          tấn công tôi!
          Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!"
          Ai chứa trong lòng tư tưởng ấy,
          Hận thù như vậy chẳng hề nguôi.
          "Nó làm nhục tôi, tấn công tôi!
          Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!"
          Không chứa trong lòng tư tưởng ấy,
          Hận thù như vậy sẽ dần nguôi.
          Các mối hận thù giữa thế gian
          Chẳng hề tiêu diệt bởi lòng sân,
          Vô sân trừ khử niềm sân hận,
          Ðịnh luật muôn đời của cổ nhân.
          (Dhp 3-5)
        
        Khi các tôn giáo của dân 
        bản xứ Ấn Ðộ bị người Hồi giáo đàn áp vào thế 
        kỷ thứ mười một và mười hai, hàng ngàn Tỳ-kheo chịu 
        để cho họ giết mà không kháng cự. Các nguồn kinh điển 
        Tây Tạng đã ghi nhận hành động tự điều phục bản thân 
        anh dũng ấy.
        Vô sân là một lý tưởng 
        cao thượng nhưng lạnh lùng, nó cần được lòng từ (mettà) 
        bổ sung. Dù cho các tên trộm cướp sát nhân có chặt tay chân 
        của một Tỳ-kheo bằng cái cưa, các Tỳ-kheo cũng không được 
        để cho thù hận khởi lên trong lòng. Thậm chí ở trong hoàn 
        cảnh như vậy, chư vị cũng phải tự kiềm chế, và tự 
        nhủ:
        
        "Tâm ta sẽ không 
        dao động, ô nhiễm và ta sẽ không thốt ra một ác ngôn nào. 
        Chúng ta sẽ an trú với từ tâm, không sân hận. Sau khi đã 
        làm thấm nhuần khắp người kia với từ tâm, chúng ta sẽ 
        an trú trong trạng thái ấy biến mãn cùng khắp thế 
        gian..." (MN 21. 1, giản 
        lược).
        Ðức Phật chứa chan lòng 
        từ hướng đến mọi cảnh giới có sự sống trên thế 
        gian. Các nghề nghiệp tạo khổ đau cho người hay vật, 
        những "nghề ác độc" như: đồ tể, bẫy chim, 
        bắt thú, thợ săn, chài lưới, trộm cướp, đao phủ, cai 
        ngục (MN 51), ngài xem là đáng bài bác và không phù hợp 
        với chánh mạng. Ngài chán ngán tránh xa việc tế lễ bằng 
        súc vật và còn cảm thấy thương xót luôn cả loài cây 
        cỏ, như khi ngài phủ nhận việc phá hại hạt giống và 
        cỏ cây (DN 1. 1).
        Từ tâm là đặc điểm 
        chính yếu trong tính cách của đức Phật, y sĩ Jìvaka tuyên 
        bố như vậy với ngài trong một cuộc đàm thoại (MN 55), 
        song chính điểm này đức Phật cũng chế ngự, không cho phép 
        nó vượt quá một giới hạn nào đó: Ngài không để cho mình 
        nhúng sâu vào lòng bi mẫn. Sự 
        thăng bằng trong tâm trí và ổn định mọi tình cảm là điều 
        quan trọng nhất đối với ngài, và đã trở thành một 
        phần bản tánh của ngài do tu tập điều thân.
        
        Vì thế, những cuộc 
        tấn công tới tấp chĩa thẳng vào ngài mà vẫn không làm 
        ngài nao núng. Ngay cả các triết gia đối thủ với ngài cũng 
        công nhận Sa-môn Gotama không thể bị khiêu khích và cũng không 
        dao động. Người cư sĩ Ni-kiền-tử như đã nói ở trên đây, 
        Saccaka Aggivessana, tuyên bố khi cuộc thảo luận được 
        chấm dứt (MN 36), rằng "màu da Tôn giả Gotama vẫn 
        giữ nguyên vẻ trong sáng", nghĩa là ngài không đỏ 
        bừng mặt; còn các đạo sư khác, trong những lúc tranh 
        luận, thường tránh né các câu chất vấn bằng cách nói 
        lạc hướng và nổi giận.
        Tâm bình thản hay xả (upekkhà) 
        phối hợp với trí thông minh lanh lợi biểu hiện trong cách 
        đức Phật đối xử với Bà-la-môn Bhàravadja ở Ràjagaha. 
        Bất mãn vì một người trong gia tộc quy y Phật Pháp, vị này 
        phỉ báng đức Phật với các từ ngữ như "đồ ăn 
        trộm, lạc đà, lừa...". Ðức Phật bình thản để 
        cho vị ấy nguyền rủa, rồi bỗng nhiên ngài hỏi vị ấy 
        thỉnh thoảng có mời bạn bè về nhà ăn cơm không. Khi được 
        trả lời là có, ngài hỏi tiếp vị ấy phải làm sao nếu 
        khách không dùng các món ăn. Vị Bà-la-môn đáp các món ấy 
        sẽ dành cho phần mình. Ðức Phật tuyên bố: "Thế cũng 
        giống hệt như lời phỉ báng kia, ta không nhận nó, vậy nó 
        trở lại với ông!"(SN 7. 1. 2).
        Trong một Pháp thoại 
        với các Tỳ-kheo ở Jetavana tại Sàvatthi, bậc Ðạo Sư 
        diễn tả tính cách an nhiên tự tại của ngài và khích lệ 
        chư Tăng nỗ lực tu tập tâm bình đẳng tương tự:
        
        "Này các Tỳ-kheo, 
        nếu người khác mạ lỵ, phỉ báng, phiền nhiễu Như Lai, 
        trong tâm Như Lai cũng không oán hận, phẫn nộ hay bất mãn... 
        Và nếu người khác kính lễ, tôn trọng, sùng bái Như Lai, 
        trong tâm Như Lai cũng không hoan hỷ, thích thú hay phấn 
        khởi". (MN 22)
        Hằng chục mẫu 
        chuyện ghi lại các sự kiện trong Kinh Tạng Pàli xác nhận 
        cách biểu lộ đặc tính của ngài như trên.
        Tuy nhiên có những trường 
        hợp đức Phật không đơn giản chấp nhận những lời người 
        khác nói, mà ngài bước ra khỏi thành trì kiên cố của tâm 
        xả và chuyển sang thế công. Ðó là trường hợp có vấn 
        đề bảo vệ Giáo Pháp chống lại sự xuyên tạc và diễn 
        dịch sai lạc do các đệ tử ngài đề xướng. Giáo Pháp là 
        một khám phá vĩ đại của ngài, đó là công trình và 
        tặng vật của ngài dành cho thế gian; ngài không chấp 
        nhận sự có mặt của các Tỳ- kheo xuyên tạc Giáo lý do vô 
        tình hoặc ác ý trong Giáo đoàn của ngài, mà phận sự Giáo 
        đoàn là truyền đạt lời giáo huấn của ngài cho các thế 
        hệ sau. Khi Tỳ-kheo Sàti diễn tả Giáo Pháp theo ý nghĩa 
        rằng thức (viñ ñ ana) tồn tại mãi sau khi thân hoại 
        và mang một hình thái sống mới, như vây là tạo nên một 
        linh hồn bất tử, bậc Ðạo Sư cho gọi vị ấy đến và 
        hỏi xem có phải đấy là ý kiến của vị ấy không. Khi 
        Tỳ-kheo Sàti xác nhận là phải, đức Phật cao giọng bảo:
        
        "Này kẻ ngu si kia 
        (moghapurisa), do ai mà ông nghe rằng ta đã thuyết giảng Giáo 
        Pháp như vậy? Này kẻ ngu si kia, ta đã chẳng từng dùng 
        nhiều pháp môn nói rằng thức do duyên khởi (và vì thế không 
        thể tồn tại mãi sau khi chết) hay sao? Này kẻ ngu si kia, ông 
        không chỉ xuyên tạc ta vì chấp thủ sai lạc, mà tự còn làm 
        hại mình và tạo nhiều điều tổn đức đưa đến bất 
        hạnh lâu dài!" (MN 38)
        Sau đó ngài tiếp tục 
        hỏi các Tỳ-kheo hiện diện để chư vị xác nhận rằng 
        Tỳ-kheo Sàti, con người đánh cá, không có một chút ánh sáng 
        kiến thức nào về Giáo Pháp cả. Chúng ta chỉ còn biết thương 
        hại vị Tỳ-kheo tội nghiệp ấy, theo như bài kinh miêu 
        tả, đã ngồi im lặng, hổ thẹn, lo âu, rụt vai lại, không 
        nói nên lời.
        Tỳ-kheo Arittha, trước 
        kia là người huấn luyện chim ưng, cũng không tiến bộ gì 
        hơn. Vị này hiểu Giáo Pháp theo ý nghĩa là các hành động 
        được đức Phật xem là chướng ngại pháp chẳng 
        bao giờ đưa đến khổ ưu cả. Vị này cũng bị bậc Ðạo 
        Sư khiển trách là "kẻ ngu si" (MN 22). Ðiều 
        đáng chú ý là trong cả hai trường hợp này Kinh Ðiển 
        nhắc đến nguồn gốc hèn kém của các Tỳ-kheo bị quở 
        mắng như vậy. Hình như là đức Phật chỉ mong những người 
        thiếu học vấn cố rèn luyện các đức tính theo giới 
        hạnh, chứ không mong có nhiều khả năng trí tuệ.