Tác phẩm:  "CON VỀ
CÒN TRỌN NIỀM TIN". Tác giả: Thích Giác Tâm - Nhà xuất bản Phương Đông -
TP.Hồ Chí Minh, xuất bản tháng 01 năm 2012. Ấn bản giấy 368 trang, cả bìa. Khổ
13x20.5cm
Bản điện tử chia thành hai tập. Tập 1 - 30 truyện. Tập 2 -
34 truyện. 
Tập 1
Chuyện cây bông giấy
Hai
 mươi năm trước, tôi có trồng bốn cây bông giấy sát hàng rào trước chùa.
 Sáu năm xây dựng đến giờ thì ngôi chánh điện đã tạm xong, công việc kế 
tiếp là lát sân bêtôn trước chánh điện, để cho các ngày lễ lớn tổ chức 
lễ được dễ dàng, nhất là tổ chức những đêm hoa đăng.
 Do vậy mà bốn cây 
bông giấy phải đào lên chuyển đi  vị trí khác. Tôi sai biểu mấy sư chú 
đệ tử đào bứng lên rất kỹ, có mướn thêm vài người giúp đào nữa. Tính 
thận trọng sợ cây chết, tôi cho đào thành bồn to như một cái nia, sâu 2 
m,

để
 khi bứng lên đem trồng chỗ khác, cây không chết. Mình tính không bằng 
trời tính, vì công việc chùa tôi phải đi, chỉ hai tiếng đồng hồ thôi, 
khi về thì hỡi ơi ! Sư chú đệ tử đã không kỹ tính làm bể bầu đất và cho 
cưa rễ thật gọn, đưa vô trồng trong bốn chậu kiểng  thật đẹp, bởi chú 
tin rằng trồng trong chậu thì đẹp hơn bên  ngoài. Tôi buồn vô hạn, đau 
tức lồng ngực liền, tôi la rầy người đệ tử một trận, và người đệ tử vô 
trong phòng đóng cửa lại nằm cả ngày.
Đau tức lồng ngực,  là vì cây từ nơi này bứng đi nơi khác nếu không cẩn 
trọng chăm chút  từng ly từng tý thì rất khó sống, mà nếu bỏ tiền ra 
mua, thì không thể nào mua nổi ( 4 chậu bông giấy có gốc lớn dáng đẹp 
100 triệu là chuyện thường) Hiện nay phong trào chơi cây cảnh khá nhộn 
nhịp, cây được bứng từ trên núi về như cây bằng lăng,  cây sung, cây lộc
 vừng, cây da, cây sanh ….. về tới phố thị nếu trồng sống cây giá tới 
một hai trăm triệu. Núi mỗi ngày mỗi trơ trụi, còn đồng bằng nhà nhà 
trồng cây núi. Chúng ta đã làm nhiều chuyện tréo hèo như vậy, hèn chi 
núi chẳng nổi giận, năm nào lũ cũng từ núi tràn về đồng bằng xối xả như 
thác, sau cơn lũ đồng bằng xơ xác, tan hoang như một cuộc hỗn chiến giữa
 sơn tinh và thuỷ tinh.
 ảnh đại thụ về phố
Cây
 mất gốc rễ di dời, bứng qua chỗ khác rất khó sống, nếu đưa vô trồng 
trong chậu lại càng khó sống hơn. Con người cũng vậy, con người vì lý 
do  nào đó, mà rời bỏ quê, ly hương xa xứ, con  người cũng rất khó sống 
nơi vùng đất mới, rất khó hội nhập, có nhiều người đã bệnh hoạn, đã thơ 
thẩn, đã có những triệu chứng bệnh lý về tâm thần. Khi biền biệt xa quê 
 rồi ta mới thấy câu tục ngữ :” cây có cội nước có nguồn” là giá trị. Và
 nếu muốn đỡ nhớ quê hương, chữa bệnh trầm uất thì chỉ cần tái hiện lại 
ngôi chùa, thỉnh đại hồng chung, chuông mõ, trồng đám rau muống, nương 
khoai,  luống cà tím, rau thơm….. nơi vùng đất mới là quê xưa hiển hiện 
lại liền. Do vậy mà trên những vùng đất mới, xứ sở lạ hoắc lạ huơ kia 
mọc lên những ngôi chùa, ngôi tháp, âm thanh của tiếng đại hồng chung 
sáng chiều lại được thỉnh lên và tâm bệnh lần lần được thuyên giảm ( các
 lò đúc chuông tại phường đúc Huế, đúc rất nhiều Đại Hồng Chung cho Phật
 Tử, cho chùa Việt Nam ở hải ngoại là vậy )
Trở lại chuyện sư chú nằm đóng cửa phòng vì bị rầy la, ngày xưa thế hệ 
chúng tôi mỗi lần mắc lầm lỗi bị Sư Phụ quở mắng, thì liền sau đó mắc áo
 tràng vô đảnh lễ sám hối với Sư Phụ liền, nghi lễ tiếp theo là lên nhà 
thờ Tổ sám hối với chư Tổ, lên điện Đại Hùng sám hối với chư Phật. Chính
 vì ý thức lỗi lầm là quan trọng, cần phải từ bỏ, cần phải không được 
lập lại mà huynh đệ chúng tôi hồi đó ít mắc phải lỗi lầm, vì mỗi lần mắc
 lỗi là  tự kiểm điểm qua nhiều thủ tục như vậy nên cũng ngán. Đọc Tiểu 
sử Hoà Thượng Quảng Khâm, một cao Tăng người Trung Quốc, năm 30 mươi 
tuổi mắc một lỗi lầm nhỏ là buổi sáng  đánh thức đại chúng công phu bị 
trễ ( vì Ngài lãnh trách nhiệm này). Trưa hôm đó nơi bàn quá đường Ngài 
đã sám hối với đại chúng, và phát nguyện từ ngay ngày hôm nay cho đến 
khi  Ngài già bệnh chết, Ngài sẽ không đặt lưng xuống chiếu nữa, Ngài 
không muốn lập lại lỗi lầm này một lần nữa. Ngài sống đến năm 95 tuổi 
mới mất, như vậy hơn 60 mươi năm ngài đã không nằm trên giường. Ý thức 
lầm lỗi như vậy là quá đáng, nhưng bậc đại trượng phu, thượng nhân chí 
nguyện xuất trần của các Ngài đều như thế. Khi Ngài mất hoả thiêu xá lợi
 Ngài rất nhiều, được phúc duyên thờ xá lợi của các bậc cao tăng như 
Ngài,  ngài Tuyên Hoá,  Ngài Huyền Trang, Ngài Vạn Hạnh, Ngài Quảng Đức 
thì hạnh phúc cho chúng ta biết chừng nào. Đọc văn truyện của nhà văn 
Lâm Thanh Huyền người Đài Loan  đương đại ta cũng thấy được chí nguyện 
của ông. Ông là một nhà văn nổi tiếng viết văn đời, sau khi nghiên cứu 
đạo Phật, ông mộ đạo, ông đến thưa với Hoà Thượng Tinh Vân, viện chủ 
chùa Phật Quang Sơn cho ông được tá túc ở lại trong chùa để ăn chay, 
tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền cho tâm tư lắng đọng, tĩnh lặng mà viết
 về đạo Phật , bởi ở nhà ( ông giàu lắm) ông sẽ ăn nhậu rượu thịt, gần 
gũi với vợ , tâm chứa nhiều trần lao phiền não khi viết về Phật không ai
 đọc, ông muốn ở chùa chay tịnh, tâm an là vì muốn có Phật trong ngòi 
bút của ông. Ông đóng góp cho Phật giáo Đài Loan rất lớn về phương diện 
truyền bá giáo lý Phật qua ngôn ngữ văn chương truyền cảm thương Phật 
thương đạo hết lòng của ông.
Trong một đời mà tu chứng đạo cũng không khó mấy, nếu ta có được đại nguyện như Hoà Thượng Quảng Khâm.
 Trong một đời mà có những tác phẩm lay động lòng người, đi vào lòng 
người , khiến cho người tín mộ thương Phật cũng không khó lắm nếu như 
chúng ta có được tâm nguyện như nhà văn Lâm Thanh Huyền ( ông là đại gia
 mà vẫn không hưởng thụ, chỉ muốn thành tâm tu học và chia sẻ kiến thức 
Phật học của mình đến với mọi người, với ước mong mọi người cùng tu học 
để vượt thoát khổ đau ).
Tình thầy trò, tình cha con, mẹ con thời nay rất lợt lạt, nhạt nhẽo, 
thiếu tình. Hễ động tới thì làm mình làm mẩy, bỏ nhà ra đi, bỏ chùa ra 
đi, có khi uống thuốc sâu tự tử nữa chứ! Các bậc thầy nuôi nhiều đệ tử 
thấy rất rõ về chuyện này, các bậc làm cha mẹ cũng đã khóc hết nước mắt 
vì những đứa con. Chúng ta phải làm sao về nền giáo dục của Đạo của Đời 
trong thời đại hôm nay? Đây là những vấn nạn lớn, tất cả chúng ta cùng 
quây quần  ngồi lại với nhau thắp lên một nén hương cùng cầu nguyện để  
tìm ra phương cách tháo gỡ, đóng góp cho quê hương đạo giáo mãi mãi an 
bình và sống trong lễ nghĩa.
 
Pleiku, tháng 02 năm Canh Dần
Thích Giác Tâm