Mục lục
1. Sơ lược tiểu sử Ngài Sīvali 
 2. Ngài Sīvali trong bụng mẹ
 3. Ngài Sīvali sanh ra
 4. Công tử Sīvali xuất gia
 5. Quả ác nghiệp Ngài Sīvali
 6. Sadi Sīvali trở thành Tỳ        khưu
 7. Tiền kiếp của Ngài Sīvali
 8. Nghiệp và quả của nghiệp
 9. Câu kệ cầu tài lộc
*
Sơ lược tiểu sử Ngài Đại Đức Sīvali
 
Ngài Đại Đức có tên gọi "Sīvali"        nghĩa là: dập tắt mọi nóng nảy, lo sợ của những người thân yêu,       đem lại sự mát mẻ, an vui cho mọi chúng sanh.
Ngài Đại Đức Sīvali là con của bà công chúa Suppavasa thường       được mọi người đem lễ vật đến dâng nhiều vô        số kể. Để thử biết quả phước thiện của bà công chúa Suppavasa,
        người ta đem hạt giống đến nhờ bà       đụng tay vào. Những hạt 
giống       đó đem về gieo trồng thì kết quả thu        hoạch thật là 
phi thường: gấp trăm ngàn        vạn lần! Khi thu hoạch xong, đem đổ vào
        kho, rồi mời bà công chúa Suppavasa đụng tay vào cửa 
kho, thì lúa dù được        đổ vào ít, nhưng vẫn tràn đầy kho        
ngay. Khi lấy lúa ra khỏi kho, nếu        được công chúa Suppavasa
 đụng        tay vào kho, thì dù lúa lấy ra bao nhiêu       đi nữa, kho 
lúa vẫn không hề giảm bớt.        Khi nấu cơm để phân phát cho mọi 
người, nếu        được bà công chúa Suppavasa đụng tay vào vành
 nồi cơm thì cơm xới ra phân phát cho bao nhiêu        người, cũng vẫn 
đủ, cơm vẫn không vơi trong       nồi, cho đến khi bà công chúa       Suppavasa bỏ tay ra khỏi vành nồi cơm.
Mọi người nhìn thấy quả phước thiện phi thường của bà công chúa  Suppavasa trong thời gian bà mang thai Ngài       Đại Đức Sīvali.        Sự thực bà công chúa Suppavasa chỉ là người chịu ảnh hưởng quả        phước thiện của thai nhi: Ngài Đại Đức       Sīvali đang nằm trong bụng mẹ.
*
Ngài Sīvali ở trong bụng mẹ        7 năm lẻ bảy ngày
Thông thường sau khi thọ thai, khoảng chín hoặc mười tháng, thì người        mẹ sanh con. Nhưng khi công chúa Suppavasa mang thai Ngài       Đại Đức Sīvali
 thì đã qua tháng thứ 10, tháng thứ 11,        rồi tròn một năm mà vẫn 
chưa sanh. Mặc        cho mọi người trong hoàng tộc và dân chúng xứ Koliya nóng lòng        trông chờ sự ra đời của đứa trẻ phi thường.
Ngày tháng cứ trôi qua, trong sự mong chờ        đến nóng nảy của mọi
 người. Ngày này qua ngày khác, tháng này       đến tháng khác của năm  
      thứ hai đã trôi qua, mà đứa con phi        thường trong bụng bà 
công chúa Suppavasa vẫn chưa ra       đời. Cứ như vậy qua năm 
thứ ba, rồi …thứ tư,        thứ năm, thứ sáu, cho đến năm thứ bảy đã 
trôi qua, mà người ta vẫn        chưa thấy bà công chúa Suppavasa
 sanh con. Thật là một       điều lạ thường, chưa từng nghe, chưa từng  
      thấy bao giờ! Đặc biệt thai nhi nằm trong bụng mẹ lâu như vậy, mà 
       vẫn không làm cho bà công chúa Suppavasa thấy khó chịu 
một chút        nào, bà công chúa vẫn sống an vui, tự nhiên và quả phước
 thiện mỗi ngày        vẫn tăng trưởng phi thường.
*
Ngài Sīvali sanh ra       đời
Bà công chúa Suppavasa mang thai tròn       đủ bảy năm vẫn 
bình an, nhưng bước        sang bảy ngày kế tiếp, thì bà phải chịu đựng 
       một sự đau khổ đến cùng cực từ thai nhi. Vốn là người cận sự nữ, 
có       đức tin trong sạch nơi tam bảo, bà        công chúa Suppavasa muốn được chiêm        bái Đức Phật trước khi chết. Với mong muốn        thiết tha đó, bà bày tỏ với hoàng tử Mahāli:
- Thưa phu quân, xin hãy vì thiếp và đứa        con trong bụng thiếp,
 mà đi thỉnh Đức        Phật cùng Chư Đại Đức Tăng về đây cho        
thiếp được chiêm bái và cúng dường.
- Đang nóng lòng vì thời gian mang        thai của ái thiếp quá lâu, 
cùng với những hiện tượng phi thường mà mọi        người đều thấy nơi bà
 công chúa  Suppavasa, nghe lời thỉnh cầu của ái thiếp, hoàng tử Mahali liền đến bạch với Đức Phật theo nguyện vọng       của phu nhân.
Bằng nhãn thông, Đức Thế Tôn thấy rõ        quả báo ác nghiệp của 
thai nhi và người mẹ đã        mãn. Ngài truyền dạy lời chúc lành đến bà
        công chúa Suppavasa và thai nhi rằng:
"Sukhinī vata hotu Suppavasa,
 Koliyadhitā sukhinī arogā
 Arogam puttam vāyatu"
Tạm dịch:
"Công chúa Suppavasa xứ Koliya. 
 Được sự khỏe mạnh và an lành hạ sanh đứa con        khỏe mạnh".
Khi Đức Thế Tôn chúc lành xong, tại        cung điện, công chúa Suppavasa hạ sanh đứa con trai dễ dàng như nước        từ trong bình đỗ ra, trước khi hoàng        tử Mahāli trở về. Bà công chúa       Suppavasa nhìn thấy đứa con trai mặt mày        khôi ngô tuấn tú, quả phước thiện tròn đủ, thì        vô cùng vui mừng sung sướng.
Sự ra đời của hài nhi làm        cho hoàng tộc cũng như dân chúng thành Koliya dập tắt       được mọi sự nóng lòng lo sợ cho công        chúa Suppavasa và công tử, đem lại sự        mát mẻ an vui cho tất cả mọi người, nên       đạt tên là Sīvali"        (Mát mẻ, an vui).
Trên đường trở về cung điện nhìn        thấy mọi người đều vui mừng, hoan hỷ, hoàng        tử Mahāli biết rằng điều tốt lành       đã đến        với công chúa Suppavasa
 phu nhân và       đứa con của mình. Về tới cung       điện, ông lập tức
 vào thăm        phu nhân và thuật lại lời chúc phúc của       Đức Phật 
đến công chúa Suppavasa và đứa con trai., công chúa  Suppavasa
 sẵn có đức tin trong sạch nơi        Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, đồng
        thời vô cùng hoan hỷ nhìn thấy đứa con        đại phước mới ra 
đời, bèn tâu với phu quân:
- Xin cho thiếp được thỉnh Đức Phật cùng        500 chư Tỳ khưu tăng,
 ngày mai       đến cung điện cho thiếp được làm phước        thiện suốt
 7 ngày gọi là "Vayamangala" (hạnh phúc sanh con).
Công tử Sīvali mới sinh ra       đã mau lớn lạ thường, biết 
      đi, đứng, ngồi, nằm…biết ăn uống, nói chuyện        và có trí tuệ 
hiểu biết thật phi thường!
Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến cung điện của công chúa  Suppavasa và hoàng tử Mahāli dự lễ làm phước "Hạnh phúc sanh        con", suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Đức Thế Tôn truyền dạy Ngài Đại Đức Sariputta thuyết pháp. Ngài Đại Đức Sariputta thuyết bài pháp về sự khổ sanh, sự tái sanh là khổ. Công tử Sīvali
 lắng nghe và thấu hiểu một cách rất sâu sắc về sự khổ sanh, vì chính 
công        tử đã phải chịu khổ nằm trong bụng mẹ        suốt 7 năm lẻ 7
 ngày:       đó là những gì mà công tử       đã trải qua.
Khi ấy, Ngài Đại Đức Sariputta bèn hỏi công tử rằng:
- Này con, con nằm trong bụng mẹ lâu đến 7        năm lẻ 7 ngày, con đã cảm thọ        sự khổ nhiều phải không?
- Kính bạch Ngài Đại Đức, con đã        cảm thọ khổ nhiều!
- Như vậy con có muốn xuất gia để giải        thoát khổ sanh hay không?
- Kính bạch Ngài Đại Đức, nếu cha mẹ con        cho phép, con sẽ xuất gia.
Công chúa Suppavasa nhìn thấy con trai của mình       đang nói chuyện với Ngài       Đại Đức Sariputta, trong tâm vô        cùng hoan hỷ, muốn biết con mình đang nói        gì với Ngài Đại Đức Sariputta.        Bà công chúa Suppavasa đến hầu gần chỗ        Ngài Đại Đức, rồi bạch rằng:
- Bạch Ngài Đại Đức, con của đệ tử đang        nói chuyện gì với Ngài?
Ngài Đại Đức Sariputta thuật        lại rằng:
- Công tử Sīvali nói rằng:        Con đã chịu bao nhiêu nỗi 
khổ khi còn       đang nằm trong bụng mẹ, nếu cha mẹ con cho        
phép, con sẽ xuất gia để giải thoát khổ sanh”.
Nghe xong công chúa Suppavasa vô cùng hoan hỷ bạch rằng:
- Kính Bạch Ngài Đại Đức, Sadhu!       Sadhu! Lành thay! Lành thay! Con kính xin Ngài từ bi tế       độ đứa con của       đệ tử được xuất gia.
- Ngài Đại Đức Sariputta dẫn        công tử Sīvali về chùa. Ngài        dạy giới tử Sīvali về       đề mục thiền định căn bản "Năm        thể trược trong thân” (tóc, lông, móng, răng, da). Ngài còn dạy        giới tử Sīvali tiến hành thiền        tuệ thấy rõ, biết rõ khổ sanh, mà Sīvali đã cảm thọ suốt 7 năm        lẻ 7 ngày trong bụng mẹ. Giới tử Sīvali liền thấu hiểu rõ mục đích xuất gia là       để giải thoát khỏi khổ tái sanh.
*
Công tử Sīvali xuất gia Sadi
Công tử Sīvali sau khi thọ        giáo lời dạy của vị thầy tế độ là Ngài       Đại Đức Sariputta, liền       được Ngài        Đại Đức Moggallāna cạo tóc. Trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali
 tiến hành thiền định căn bản, năm thể trược ở        trong thân, và 
tiến hành thiền tuệ biết rõ khổ của sự tái sanh của        danh pháp, 
sắc pháp. Khi Ngài Đại Đức        Moggallana vừa đặt dao cạo tóc, giới        tử Sīvali
 liền chứng ngộ        chân lý tứ thánh đế, chứng đắc nhập lưu thánh    
    đạo, nhập lưu thánh quả. Cạo đường tóc thứ nhất, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Nhất        lai thánh đạo, Nhất lai thánh quả. Cạo đường tóc thứ hai, giới tử        Sīvali
 chứng ngộ chân lý tứ        thánh đế, chứng đắc Bất lai thánh đạo, Bất 
       lai thánh quả. Cạo tóc vừa xong, đồng thời giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc       Arahán thánh đạo,  Arahán thánh quả, trở thành Bậc thánh Arahán tột cùng, cao        thượng trong Phật giáo.
Kể từ ngày Đại Đức Sīvali xuất gia làm Sadi, hằng ngày không
 chỉ có hàng cận sự nam, cận sự nữ       đem 4 món vật dụng: Y phục, vật
 thực, chỗ ở,        thuốc men trị bịnh đến dâng cúng Ngài       Đại Đức
 và Chư Tỳ Khưu Tăng,        ngày càng đầy đủ, dồi dào sung        túc, 
mà trước đây chưa từng có.
*
Quả ác nghiệp của Ngài Sīvali
 
Một hôm nhóm Tỳ khưu đang ngồi bàn        luận về Ngài Đại Đức Sīvali là Bậc Đại Trí. Ngài       đã chứng        đắc từ bậc Thánh nhập lưu đến Bậc Thánh Arahan
 trong khoảng        thời gian cạo tóc xong. Ngài còn là Bậc Đại        
Phước, kể từ khi Ngài xuất gia thành Sadi, 4 món vật dụng       đã phát 
sanh, không chỉ       đến cho Ngài       Đại Đức Sīvali,        mà còn đến tất cả Chư Tỳ Khưu Tăng một cách        đầy đủ, dồi dào sung túc mà trước đây        chưa từng có.
Vậy do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài phải nằm trong bụng mẹ chịu khổ        suốt 7 năm lẻ 7 ngày?
Lúc ấy, Đức Thế Tôn vừa ngự đến bèn        hỏi rằng:
- Này chư Tỳ khưu, các con đang bàn        luận về chuyện gì vậy?
Nhóm Tỳ Khưu bạch Đức Thế Tôn rõ,        họ đang bàn luận về Ngài       Đại Đức Sīvali,       Đức Thế Tôn bèn dạy rằng:
- Này Chư Tỳ Khưu, Sīvali chịu khổ do quả ác nghiệp đã tạo ở        kiếp quá khứ.
Trong quá khứ, tiền kiếp của Sīvali là Thái Tử con của đức vua trị vì ở        kinh thành Baranasi.
 Khi phụ vương băng        hà, thái tử lên ngôi vua. Lúc ấy có vị vua 
của nước láng giềng mưu        toan kéo quân chiếm kinh thành Baranasi. Trên       đường tiến quân, vị vua này lập doanh        trại cho quân lính nghỉ đêm.
Đức vua ở kinh thành Baranasi hay tin bèn bàn tính với Bà 
Hoàng        Thái Hậu, tìm cách ngăn cản đội quân xâm        lược, rồi 
đem quân vây quanh bốn cửa doanh trại suốt 7 ngày       đêm không cho 
một ai ra vào.
Lúc ấy Chư Phật Độc Giác đang ngự ở chùa       Migadayavihara thuyết
 giảng dạy về pháp thiện, pháp ác, khuyên bảo        mọi người không nên
 gây nghiệp ác, mà hãy cố gắng tạo nghiệp thiện.       Đức vua ở kinh 
thành Baranasi,        sau khi nghe pháp hiểu rõ nghiệp thiện, 
nghiệp ác, liền truyền lệnh mở        vòng vây 4 cửa doanh trại quân 
địch, thả cho        vị Vua láng giềng và quân lính trốn thoát chạy về 
nước.
Do quả ác của nghiệp vây hãm doanh trại suốt 7 ngày       đêm ấy,        Đức vua kinh thành Baranasi
 sau khi chết       đọa địa ngục, chịu khổ suốt thời gian lâu dài.      
  Nay đến kiếp hiện tại này,       được tái sanh vào lòng Bà công chúa  Suppavasa,
 là hậu thân của Bà Hoàng Thái Hậu ở tiền kiếp,       đã đồng tình      
  với Vương nhi vây hãm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp ở thời 
quá        khứ còn dư lại, nên khiến cho Ngài Đại Đức       Sīvali và công chúa  Suppavasa cùng chịu khổ trong suốt 7 năm        lẻ 7 ngày.
*
Sadi Sīvali trở thành Tỳ        khưu
Ngài Đại Đức Sīvali tròn 20 tuổi. Ngài thọ Cụ Túc Giới, trở 
thành Tỳ Khưu, bốn món vật dụng        lại càng phát sanh dồi dào hơn 
đến Chư Tỳ        Khưu Tăng. Hễ mỗi khi Chư Tỳ Khưu Tăng        đông đảo
 phải đi châu du trên đường        qua những vùng hẻo lánh, dân cư thưa 
thớt, ít ỏi, nhưng nếu có Ngài       Đại Đức Sīvali đi cùng, 
thì 4 món vật dụng, phát sanh       đầy đủ sung túc dến Chư Tỳ Khưu 
Tăng, do nhờ        oai lực quả phước thiện của Ngài Đại        Đức Sīvali,
 Chư thiên       đã hóa ra xóm làng, thị thành và dân        cư đông đúc
 để dâng cúng y phục, vật thực,        chỗ ở và thuốc men chữa bệnh đến 
đoàn        Chư Tỳ Khưu Tăng. Khi       đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng        đã 
đi qua khỏi nơi ấy, thì xóm        làng, kinh thành đó liền biến mất.
Một thuở nọ, Đức Phật cùng       đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng        đông đảo đến ngự đến khu rừng, nơi ở của Ngài       Đại Đức Revata. Khi       Đức Phật cùng       Đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng        đi đến đoạn đường có lối rẽ. Ngài Đại        Đức Ananda bạch với Đức Phật        rằng:
- Kính Bạch Đức Thế Tôn, có hai con đường,        Đức Thế Tôn nên ngự đi con        đường nào trong hai con đường này:
- Một con đường dài 30 do tuần,       đầy nguy hiểm và có nhiều phi nhân,        không có nơi khất thực và chỗ ở.
- Một con đường dài 60 do tuần,       được an toàn, vì có làng xóm, chỗ ở và        khất thực dễ dàng.
Đức Thế Tôn dạy:
- Này Ananda, Sīvali có đi trong đoàn Tỳ Khưu phải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, có Ngài       Đại Đức Sīvali cùng đi trong đoàn.
Đức Thế Tôn dạy:
- Như vậy, Chư Tỳ Khưu nên đi theo con        đường dài 30 do tuần. Để biết rõ       được quả phước thiện của Sīvali.
Đức Phật cùng đoàn Tỳ Khưu Tăng đông đảo ngự theo con đường dài 30 do
        tuần. Tất cả Chư Thiên hay tin Đức Phật cùng đoàn Tỳ Khưu Tăng 
đông đảo,        trong đó có Ngài Đại Đức Sīvali kính yêu của 
họ, đang ngự dọc theo con đường        này, nên vô cùng hoan hỷ. Cứ mỗi 
do tuần, Chư thiên lại hoá ra một        kinh thành trù phú có dân chúng
 đông đúc,        có những ngôi chùa lớn, trong mỗi ngôi chùa, lại hoá 
ra một cái cốc lớn        dành cho Đức Phật và những cốc nhỏ        dành
 cho những vị Tỳ Khưu. Trong các cốc đó        có đầy đủ những vật dụng 
cần thiết của bậc xuất gia,       để tiếp đón Đức Phật và       đoàn Tỳ 
Khưu Tăng.
Khi Đức Phật cùng chư Tỳ Khưu Tăng        đi đến đâu Chư Thiên lại 
hóa ra các cận sự nam, cận sự nữ có       đức tin trong sạch nơi Tam 
bảo, hộ độ cúng        dường 4 món vật dụng đầy đủ sung túc.
Tất cả Chư Thiên đến hầu đảnh lễ Đức Phật        xong, bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài       Đại Đức Sīvali của chúng con ở đâu?
Khi gặp được Ngài       Đại Đức Sīvali,        tất cả Chư 
Thiên vô cùng hoan hỷ, cho nên các món vật dụng y phục, vật        thực,
 chỗ ở và thuốc men chữa bịnh phát sanh        đến Chư Tỳ Khưu Tăng dồi 
dào, sung túc cho       đến khi Đức Phật và       đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng 
       rời khỏi nơi ấy.
Đức Phật cùng đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng mỗi ngày đi được 1 do tuần, cứ 
mỗi        do tuần Chư Thiên hóa ra các kinh thành trù phú, dân cư      
 đông đúc như vậy để hộ độ Đức Phật và       đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng,     
   trên suốt quảng đường dài 30 do        tuần, cho đến khu rừng, nơi 
trú ngụ của Ngài       Đại Đức Revata.
Ngài Đại Đức Revata hay       được tin Đức Phật cùng       
đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng        đông đảo đến thăm, Ngài dùng thần thông hóa
 ra ngôi chùa lớn       để Đức Phật thuyết pháp và là nơi hội        họp
 của Chư Tỳ Khưu Tăng; hóa ra cốc        Gandhakuti đầy đủ tiện nghi dâng lên Đức Phật, và những cốc nhỏ        khác cho những vị Tỳ Khưu. Cũng bằng thần thông, Ngài Đại Đức Revata
 hóa ra một con đường lớn và xinh       đẹp để đón rước Đức Phật và Chư 
Tỳ        Khưu Tăng. Đức Phật cùng       đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng        
ngự đi trên con đường đó đến ngôi chùa        lớn, rồi Đức Phật ngự tới 
cốc  Gandhakuti, tất cả chư Tỳ Khưu mỗi vị vào nghỉ một cốc nhỏ       đã hóa sẵn.
Chư thiên ở trong rùng vô cùng hoan hỷ đón        rườc Đức Phật và Chư Tỳ Khưu Tăng,        trong đó có Ngài Đại Đức Sīvali
 vô cùng kính yêu của họ. Chư thiên cũng hóa thành những cận sự nam, cận
 sự        nữ biết được đã quá giờ thọ thực nên        họ chỉ làm nước 
trái cây dâng lên Đức Phật cùng        Chư Tỳ Khưu Tăng. Mỗi ngày Chư 
Thiên        hoan hỷ cúng dường 4 món vật dụng đến Đức        Phật và 
Chư Tỳ Khưu Tăng. Rất đầy đủ        sung túc. Do quả phước thiện của 
Ngài        Đại Đức Sīvali, suốt nữa        tháng Đức Phật cùng
       đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng        ngự ở khu rừng luôn được Chư Thiên 
kính yêu và dâng lên các món y        phục, vật thực, chỗ ở và thuốc 
chữa bịnh một cách       đầy đủ, dồi dào sung túc chưa từng có        
bao giờ.
Một hôm Chư Tỳ Khưu hội họp bàn về chuyện Ngài       Đại Đức Sīvali có nhiều quả báu phước thiện đặc biệt nhất,        không chỉ phát sanh 4 món vật dụng đến Ngài       Đại Đức Sīvali
 mà còn đến cả Chư Tỳ Khưu Tăng dù bao        nhiêu cũng vẫn sung túc 
đầy đủ. Thật là       điều phi thường! Không chỉ có các hàng        cận 
sự nam cận sự nữ đem 4 món vật dụng đến        cúng dường Ngài Đại Đức Sīvali và Chư Tỳ Khưu Tăng, mà còn có cả Chư        Thiên, Long Vương… cũng đem 4 món vật dụng lên        dâng cúng Ngài Đại Đức Sīvali và Chư Tỳ Khưu Tăng nữa. Các Tỳ Khưu       đang bàn luận, khi ấy       Đức Thế Tôn ngự đến bèn hỏi:
- Này Chư Tỳ Khưu, các con đang bàn        về chuyện gì thế?
- Chư Tỳ Khưu bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn        về quả phước thiện đặc biệt nhất của Ngài       Đại Đức Sīvali
 đã làm cho phát sanh 4 món vật dụng       đến Ngài        Đại Đức và 
Chư Tỳ Khưu Tăng dù        nhiều bao nhiêu cũng vẫn đầy đủ sung túc.
Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn chủ trì        một buổi hội Chư Đại Đức 
Thánh Tăng. Đức Thế        Tôn tuyên dương cho toàn thể các hàng        
đệ tử biết rằng:
"Etadaggam bhikkhave mama sāvakānam labhinam yadidam Sīvali".
- Này Chư Tỳ Khưu, Sīvali là        bậc Thánh Thanh Văn đại Đệ tử có tài        lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thanh Văn        đệ tử của Như Lai.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này Chư Tỳ Khưu, Sīvali có        tài lộc nhiều là do nhờ quả báo của phước thiện       đã tạo ở những kiếp quá khứ.
*
Tiền kiếp của Ngài Sīvali 
 
Từ kiếp trái đất hiện tại này, lùi        vào quá khứ cách 100 ngàn kiếp trái đất,       có Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian. Khi ấy tiền thân của Ngài       Đại Đức Sīvali
 là con trai của một gia đình giàu có.        Một hôm, cậu con trai ấy 
đi đến chùa,        ngồi sau các hàng thính giả nghe Phật thuyết pháp. 
Khi ấy       Đức Phật tuyên dương một người       đệ tử có danh gọi Sudassana, là        Bậc Thánh Thinh Văn đệ tử có tài lộc        bậc nhất trong hàng thinh văn đệ tử của Đức        Phật. Cậu con trai, là tiền thân của Ngài Sīvali,        vô cùng hoan hỷ với địa vị cao thượng của Ngài       Đại Đức Sudassana,
 nên có        nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh thinh văn        đệ 
tử có tài lộc bậc nhất trong các thinh văn        đệ tử của Đức Phật ở 
vị lai, như Ngài Sudassana này.
Ngay sau đó, cậu con trai ấy đến hầu đãnh        lễ Đức Phật rồi cung
 kính thỉnh Đức Phật cùng        500 Tỳ Khưu Tăng đến nhà       để làm 
phước       đại thí suốt 7 ngày.       Đức Phật làm thinh nhận lời.
Cậu con trai ấy làm phước đại thí dâng        cúng đến Đức Phật cùng 
500 vị Tỳ Khưu bằng những vật thực ngon lành        suốt 7 ngày. Ngày 
thứ 7 còn dâng cúng tam y        đến Đức Phật và 500 vị Tỳ Khưu Tăng    
    mỗi vị một bộ tam y. Sau khi dâng tam y, cậu con trai ấy đến hầu 
đảnh lễ        Đức Phật, ngồi xuống một nơi hợp lễ, rồi bạch với       
Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, phước thiện       đại thí mà con       đã 
tạo suốt 7 ngày qua, con không mong        gì khác hơn là muốn trở thành
 Bậc Thánh Thinh Văn        Đại đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng
 Thánh Thinh Văn        Đại Đệ Tử của Đức Phật ở vị lai, như ngôi vị 
Ngài       Đại Đức Sudassana, bậc Thánh        Thinh Văn Đại Đệ
 Tử có tài lộc bậc        nhất trong các hàng Thánh Thinh Văn Đệ Tử của 
       Đức Thế Tôn bây giờ.
Đức Phật Padumuttara dùng trí tuệ Anagatamsanāna: 
trí tuệ        thấy rõ kiếp vị lai của chúng sanh - Đức Phật        thấy
 rõ nguyện vọng của cậu con trai này sẽ thành tựu trong kiếp vị        
lai, nên Ngài thọ ký rằng:
- Này Chư Tỳ Khưu, kể từ kiếp trái đất này,        trong vị lai sẽ 
trải qua 100 ngàn đại kiếp        trái đất, đến kiếp trái đất Bhađakappa có Đức Phật Gotama
 xuất hiện        trên thế gian, khi ấy cậu con trai nầy sẽ trở thành 
Bậc Thánh Thinh Văn        Đại Đệ Tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng 
Thánh Thinh Văn        Đại Đệ Tử của Đức Phật Gotama: như Sadussana bậc        Thánh Thinh Văn Đại Đệ Tử Như Lai bây giờ.
Cậu con trai vô cùng hoan hỷ thỉnh thoảng làm phước thiện dâng cúng 4
        món vật dụng đến Đức Phật và Chư Tăng        cho đến trọn đời. 
Bắt đầu từ kiếp ấy cho đến kiếp cuối cùng, tái        sanh làm người, 
làm Chư Thiên trong cõi trời dục giới, làm phạm thiên ở        cõi trời 
sắc giới, không hề bị sa đọa vào        4 đường ác đạo. Kiếp nào tâm 
cũng hoan        hỷ trong việc làm phước bố thí cúng dường.
Thời kỳ Đức Phật Vipassi xuất hiện trên thế gian, thời gian 
cách kiếp trái       đất này 91       đại kiếp trái đất, khi ấy tiền 
thân Ngài       Đại Đức Sīvali sanh làm con trai trong một gia đình        nghèo gần thành Badhumati.
Một hôm, dân chúng trong thành Bandhumati làm phước bố thí vật        thực dâng cúng đến Đức Phật Vipassi cùng Chư Tỳ Khưu Tăng, tranh đua với Đức vua        ở kinh thành Bandhumati.
 Tất cả        đồ ăn uống rất nhiều và ngon lành, nhưng xét thấy còn 
thiếu hai        món: sữa chua và mật ong. Người nhóm trưởng cho người  
     đi đón các ngã       đường vào thành, xem xét có ai mang        hai
 món sữa chua và mật ong vào thành bán, thì bằng giá nào cũng phải mua  
      cho được. Khi ấy, cậu thanh niên con        nhà nghèo (Tiền thân 
của Ngài Sīvali)        mang sữa chua và mật ong vào thành bán, khi gặp người dân thành  Bandhumati đón mua.       Được trả ngay món tiền 1 Kahapana cho món mật ong và sữa chua, cậu thanh niên chủ hai món hàng       đó vô cùng ngạc nhiên. Cậu        thanh niên đó nghĩ là hai       đồ ăn này không       đáng giá bao nhiêu, tại sao người dân        thành Bandhumati lại trả một giá cao như vậy? Ta hãy thử xem sự cần        thiết của họ như thế nào, với suy nghĩ như vậy, cậu thanh niên nói:
- Tôi không chịu bán món sữa chua và mật ong này vói giá 1 Kahapana.
Người dân thành Bandhumati năn nỉ        mua hai món đồ ăn đó với giá gấp đôi, là 2 Kahapana. Người        chủ hàng vẫn không chịu bán. Người dân thành Bandhumati lại tăng        số tiền lên gấp đôi, gấp đôi, 4        Kahapana, 8 Kahapana…cứ thế đến        1000 Kahapana,
 để mua cho được        hai món sữa chua và mật ong. Cậu thanh niên chủ 
hai món       đồ ăn trên muốn biết, tại sao người        dân thành Bandhumati cần đến hai món        sữa chua và mật ong, mà chịu trả một số tiền quá cao như vậy, nên        hỏi người mua rằng:
- Thưa ông, sự thật hai món đồ ăn này       đâu có giá là bao, tại 
sao các ông cần       đến hai món này, phải trả số tiền 1000       Kahapana như vậy, ông có thể cho tôi biết lý do       được không?
- Người dân thành Bandhumati giải thích rằng:
- Thưa anh, dân chúng trong thành Bandhumati tranh       đua với Đức vua trong việc làm phước        dâng cúng lên Đức Phật Vipassi
 cùng toàn thể Chư Tỳ Khưu Tăng, khi kiểm điểm        lại những món đồ 
ăn dâng cúng, thì thấy còn thiếu hai món sữa chua        và mật ong, mới
 cho tôi đón đường tìm        hai món đồ ăn đó. Nếu chúng tôi  
      không mua dược hai món đồ ăn này, thì        sẽ thua đức vua mất, 
vì vậy, với giá        nào chúng tôi cũng cố mua cho được.
Nghe vậy cậu thanh niên chủ hai món đồ ăn        hỏi:
- Thưa ông, việc làm phước bố thí các món        ăn sữa chua và mật ong này đến Đức        Phật Vipassi và Chư Tỳ Khưu Tăng        chỉ dành riêng cho dân thành Bandhumati, hay người khác cũng        có thể làm phước bố thí được hay không ?
Người mua sữa chua và mật ong thưa rằng:
- Thưa anh, việc làm phước dâng sữa chua và mật ong cũng như thức       ăn và đồ        dùng khác đến Đức Phật  Vipassi và Chư Tỳ Khưu Tăng không phải là        việc dành riêng cho người dân thành Bandhumati, mà bất cứ ai cũng        có thể làm được,       đó là việc chung của tất cả mọi người.
Cậu thanh niên nghèo liền thưa rằng:
- Thưa ông, tôi không bán hai món sữa chua và mật ong này với giá 1000       Kahapana mà tôi muốn dâng cúng hai món        đó, để cùng làm phước bố thí        với dân chúng thành Bandhumati có được        không?
Người dân thành Bandhumati vô cùng hoan hỷ, ông liền trở về 
báo        tin cho người nhóm trưởng hay, có cậu thanh niên xin cùng 
chung cúng dường        bố thí các món sữa chua và mật ong đến Đức      
  Phật và Chư Tỳ Khưu Tăng.
Cậu thanh niên tự tay làm những món sữa chua và mật ong       đem đến, rồi ngồi chờ       đến phiên mình dâng cúng. Khi        dâng cúng, cậu thanh niên bạch với Đức Phật       Vipassi rằng:
- Kính bậc Đức Thái Tôn, món vật        thực nhỏ mọn này của con, xin
 kính dâng đến        Đức Phật, kính xin Đức Thái Tôn từ bi        thọ 
lãnh.
Đức Phật Vipassi thọ nhận món đồ ăn        làm bằng sữa chua và mật ong của cậu thanh niên nghèo.
 Đức Thế Tôn chú nguyện xong,       Đức Phật đem món đồ ăn làm bằng sữa 
       chua và mật ong phân chia cho 6 triệu 8 trăm        ngàn 
(6800000) Tỳ Khưu Tăng độ vẫn        không hết
Khi Đức Phật cùng Chư Tỳ Khưu Tăng        độ vật thức xong, cậu thanh niên nghèo là tiền thân của Ngài       Đại Đức Sīvali đến đãnh lễ       Đức Thế Tôn ngồi xuống một nơi hợp lẽ,        bạch rằng:
- Kính xin Đức Thế Tôn, con có        duyên lành gặp dược Đức Thế Tôn, con        lại có cơ hội tốt cùng dân chúng thành Bandhumati
 làm phước thiện        cúng dường đến Đức Phật cùng Chư Tỳ        Khưu 
Tăng, con vô cùng hoan hỷ, với        phước thiện thanh cao này, xin cho
 con được        trở thành bậc thánh Thinh văn đại đệ tử có tài        
lộc nhiều nhất trong các hàng Thánh Thinh văn        đệ tử của Đức Phật ở
 vị lai.
Lúc đó Đức Phật Vipassi truyền dạy rằng:
- Nguyện vọng của con chắc chắn sẽ được thành        tựu như ý.
Đức Phật thuyết pháp và chúc phước toàn thể dân chúng thành  Bandhumati, trước khi Đức Phật cùng       đoàn Chư Tỳ Khưu Tăng       đi nơi khác.
 
Cậu thanh niên, tiền thân của Đại Đức       Sīvali tinh tấn tạo mọi        phước thiện, nhất là bố thí đến trọn đời.
 Trong vòng sanh tử luân hồi, cậu chỉ tái sanh làm người, làm Chư Thiên 
       hưởng sự an lạc, không hề sa vào 4 đường ác        đạo.
 
Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất        hiện trên thế gian.. Ngài Đại Đức Sīvali là bậc đại phước tái sanh vào lòng bà        công chúa Suppavasa xứ Koliya như       đã nói ở        đoạn đầu.
*
Nghiệp và quả của nghiệp
Thiện nghiệp, ác nghiệp là của riêng của mỗi chúng sanh. Quả của 
thiện        nghiệp, quả của ác nghiệp không chỉ riêng cho mình, mà còn 
ảnh hưởng       đến người khác, chúng sanh khác nữa.
Trong kinh, Đức Phật dạy về thiện nghiệp,        ác nghiệp và quả của thiện nghiệp, ác nghiệp có câu kệ rằng:
"Yadisam vāpte bijam,
 Tādisam harate phalam
 Kalyanakari kalyanam,
 Papakari ca papakam"
 
Tạm dịch:
"Người nào gieo hạt giống nào,
 Người ấy gặt quả nấy.
 Người hành thiện thì được quả thiện
 Người hành ác thì được quả ác.”
Tiểu sử của Ngài Đại Đức Sīvali ở kiếp hiện tại là kết quả 
của ác nghiệp và thiện nghiệp mà chính Ngài       đã tạo ở tiền kiếp quá
 khứ và ngay        trong hiện tại.
Ngài Đại Đức Sīvali đã trở thành Bậc Thánh Thinh văn        đại đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng       đệ tử của Đức Phật Gotama, hợp        theo nguyện vọng, mà sự thành tựu do thiện nghiệp       đã tạo từ những tiền kiếp của Ngài       Đại Đức Sīvali ở quá khứ.
Nay kiếp hiện tại này, Ngài Đại Đức        Sīvali là Bậc Thánh Alahán,
        cũng là kiếp chót của Ngài. Tất cả quả của thiện nghiệp và quả 
của ác        nghiệp sẽ trở thành vô hiệu, khi Ngài Đại Đức       Sīvali nhập diệt Niết        bàn, chấm dứt sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài.
*
Câu kệ "CẦU TÀI LỘC"
1.
 
"Sīvali ca mahanamam,
 Sabbalabhaṃ bhavissati
 Therassa anubhavena,
 Sabbe hontu piyam mama"
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại danh
 Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh
 Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
 Tất cả chúng sanh, Chư thiên, nhân loại,
 Đều có tâm từ thương mến con.
2.
"Sīvali ca mahalabham,
 Sabbalabham bhavissati
 Therassa anubhavena
 Sada hontu piyaṃ mama"
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại tài lộc
 Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,
 Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
 Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.
3.
"Sīvali ca mahathero,         
 mama sise thapetvana,
 Mantitena jāyomantam, 
 aham vandami Sabbada"
Ngài Đại Đức Sīvali bậc cao thượng,
 Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.
 Con xin tán dương ca tụng ân đức của Ngài
 Con luôn luôn kính đãnh lễ Ngài.
*
Giống nào người đã gieo trồng
 Quả ấy sẽ trỗ cho ông bội phần
 Như người làm thiện ân cần 
 Quả lành sẽ trỗ, đặc ân lạ gì
 Còn người hành ác khác chi
 Khổ đau là quả tránh         đi đường nào
 
 Đức Sīvali danh cao
 Cầu xin tài lộc sanh vào cho con
 Do nhờ oai lực vẹn toàn
 Ngài Sīvali mãi còn thế gian
 Cầu mong thiên chúng các hàng
 Cùng chung nhân loại vô vàn mến con
 
 Đức Sīvali tợ non
 Lộc tài Đại Đức hoàn toàn cao thanh
 Cầu xin tài lộc phát sanh
 Cho con hưởng quả an lành Ngài ban
 Cầu mong thiên chúng các hàng
 Cùng chung nhân loại vô vàn mến con.
 
 Ân Sīvali mãi còn
 Bậc Thầy cao thượng cho con đội đầu
 Kính Ngài là bậc nhiệm mầu
 Con luôn đảnh lễ, mong cầu lạc an.