Ni trưởng Trí Hải – Một đóa sen ngát hương
 Lật
 trang sử 2000 năm Phật giáo Việt Nam, thì hình ảnh Ni trưởng Trí Hải 
(1938 – 2003) rực sáng như một ngôi sao trên bầu trời văn học Phật giáo 
Việt Nam.
 Ni
 trưởng là một bậc thông tuệ tài hoa mà phẩm cách lại thanh cao như một 
đóa sen vi diệu, tinh khiết và thông thái như  một nhà “hiền triết”. Tài
 năng của Ni trưởng đã làm cho Ni trưởng trở thành một trong những vị tu
 sĩ xuất sắc của nữ giới Phật giáo.
 Một đời hiếu học ham tu  
 Xuất
 thân từ một gia đình danh gia vọng tộc nhiều đời thâm tín Phật giáo. Ni
 trưởng sinh ngày 9 tháng 3 năm 1938, tại Vĩ Dạ, Tỉnh Thừa Thiên, Huế, 
miền Trung Việt Nam trong một gia đình có sáu anh em. Thân phụ của Ni 
trưởng là cụ Nguyễn Phước Ưng Thiều thuộc dòng dõi vua chúa thời nhà 
Nguyễn, và thân mẫu  là Đặng thị Quê, một người mẹ quá đỗi tuyệt vời mà 
theo lời tự sự của một nhà văn Việt Nam khi nhắc đến mẹ của Ni trưởng đã
 viết: “Mệ ơi! Mệ hiền như Phật và chu đáo nhất trên đời”[1].
 Khi
 Ni trưởng tượng hình trong bào thai mẹ  mới 3 tháng, thì bà mẹ đã lên 
chùa Tường Vân, Huế,  xin  Hòa thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết ban 
cho thai nhi pháp danh Tâm Hỷ.[2]
 Người thiếu nữ lớn lên xinh  đẹp, dịu dàng với cái tên Công Tằng Tôn Nữ
 Phùng Khánh đã làm rung động bao trái tim của những chàng trai thuở ấy…
 Nhưng vượt thoát ra khỏi tất cả những cám dỗ và dục vọng tầm thường,  
Phùng Khánh đã chọn cho mình một con đường thanh cao nhất. Với thiên tư 
thông tuệ, tài hoa, phẩm cách thanh cao, người đã nuôi chí xuất trần vào
 giữa tuổi hoa niên tươi đẹp.
 Năm
 1960, Ni trưởng Trí Hải tốt nghiệp cử nhân Anh văn tại Đại học Sư phạm 
Huế. Sau vài tháng giảng dạy tại Trường Trung học Phan Chu Trinh, Đà 
Nẵng, người xuất dương du học. Năm 1964, Ni trưởng tốt nghiệp Thạc sỹ 
Văn chương tại Đại học Princeton, Hoa Kỳ. Cũng trong năm này, Ni trưởng 
phát tâm xuất gia với sư bà Diệu Không, một bậc trưởng lão Ni rất nổi 
tiếng và giới hạnh  tại chùa Hồng Ân và đến năm 1970. Ni trưởng thọ Cụ 
túc giới tại Đại giới đàn Vĩnh Gia, Đà Nẵng.
 
 Mái chùa Hồng Ân đã nuôi dưỡng chí lớn xuất trần của một bậc ni lưu tài
 đức mà cho đến nay tất cả pháp lữ vẫn không thể nào quên:“Chúng tôi 
vẫn còn nhớ bước đầu sơ cơ học đạo, Pháp muội tỏ ra là một người xuất 
chúng, giỏi giang mọi mặt. Pháp muội được Bổn sư thương yêu hết mực và 
huynh đệ trân trọng vô cùng…Khi Pháp muội vào miền Nam giành nhiều thời 
gian cho việc nghiên cứu và giáo dục. Chư tôn đức và mọi người thương 
mến, danh tiếng ngày càng cao làm cho chị em chúng tôi cũng được thơm 
lây.”[3]
  Ni
 trưởng Trí Hải là một trong những giảng viên đầu tiên giảng dạy tại 
Thiền viện Vạn Hạnh và Trường Cao cấp Phật học Việt Nam  được thành lập 
năm 1984, ( nay là Học viện Phật giáo Việt Nam) tại thành phố Hồ Chí 
Minh. (cần lưu ý rằng đây là nhân vật nữ đầu tiên và duy nhất giảng dạy 
tại một Học viện Phật giáo trong thời kỳ đó). Tại ngôi trường này, ni 
trưởng giảng dạy giới luật (Pratimoksa) và đã có nhiều bài thuyết giảng 
sâu sắc về Trung Bộ Kinh bằng tiếng Anh cho Tăng Ni sinh. Trụ trì 3 ngôi
 chùa Tuệ Uyển, Diệu Không, Liên Hoa Ni tự, Ni trưởng từng được cung 
thỉnh làm Giáo thọ A-xà-lê và trưởng ban Giám khảo trong nhiều đại giới 
đàn tổ chức tại Việt Nam. Đầu tháng 12 năm 2003 với khả năng và tài đức 
của một vị Ni khiêm cung, đạo hạnh người chính thức được cử làm Phó viện
 trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
  Tháng
 12 năm 2003, người đã vĩnh viễn ra đi. Thế hệ Ni giới chúng tôi mất đi 
một bậc thầy tài đức tuyệt vời, bầu trời văn học Phật giáo Việt Nam vụt 
tắt một vì sao sáng đẹp; nhưng đúng với nhận định của Hòa thượng Hiển 
Pháp – một vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam: “Hiện tượng độc đáo Trí 
Hải tuy hôm nay đã trở thành quá khứ, nhưng quá khứ tốt đẹp luôn là động
 lực, là sức mạnh để hàng hậu học ni giới phấn đấu học tập, nêu cao đức 
tính cao quý của người phụ nữ Việt Nam trên bước đường hoằng pháp độ 
sinh, phục vụ Giáo hội và dân tộc, đem lại an lạc hạnh phúc cho chúng 
sinh”[4].
 Dấn thân cho sự nghiệp giáo dục và hoạt động xã hội
 Với
 kiến thức Phật học và thế học uyên thâm, Ni trưởng đặc biệt có uy tín 
trong lĩnh vực văn học Phật giáo với nhiều công trình nghiên cứu, trước 
tác và dịch thuật có giá trị.  Với tài hoa sẵn có, cộng với sự tinh tế 
trong việc chọn lựa tác phẩm, Ni trưởng đã biến việc dịch thuật thành 
nguồn vui và niềm hạnh phúc lớn lao  cho cuộc đời.  Tarthang Tulku 
Rinponche, tác giả của Làm việc – Một nguồn vui, tập sách được Ni trưởng
 phiên dịch và xuất bản năm 2000 đã viết: “Nhờ tập sử dụng phương tiện 
khéo trong mọi việc ta làm, chúng ta có thể chuyển cuộc sống hàng ngày 
thành một nguồn vui, một thành tích còn hơn cả mọi giấc mơ đẹp nhất của 
mình”.[5] Ni trưởng đã sống như thế, Người đã để lại trên 100 tác phẩm và dịch phẩm[6].
 Đó là một  công trình to lớn phản ánh một quá trình làm việc miệt mài, 
không mệt mỏi bao gồm cả những tác phẩm dịch thuật và trước tác, Ni 
trưởng đã trở thành một nhân vật nổi bậc của lịch sử văn học Việt nam, 
đặc biệt là văn học Phật giáo. Đúng với nhận định của Hòa thượng Thiện 
Nhơn – một cao tăng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam: “Ni trưởng là một
 nhà dịch thuật lỗi lạc, một nhà nghiên cứu uyên thâm, am hiểu cả hai hệ
 thống giáo lý Nam truyền và Bắc truyền của Phật giáo…cống hiến rất 
nhiều cho sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu Phật học”.[7]
  Năm 1964, Ni trưởng tốt nghiệp Thạc sỹ Văn chương 
  tại Đại học Princeton, Hoa Kỳ 
  Ni
 trưởng Trí Hải với sự tinh tế và trí thông minh xuất chúng, các tác 
phẩm của Ni trưởng  được tuyển dịch từ những tác phẩm Hán cổ, tiếng Anh,
 tiếng Pháp, tiếng Đức và cả Hán hiện đại. Nhiều học giả cho rằng, từ 
xưa đến nay ở Việt Nam chưa có một vị Ni nào am tường kiến thức Đông Tây
 kim cổ, giỏi chữ Hán, cổ ngữ Pali và Sankrit, thông thạo cả tiếng Anh, 
tiếng Pháp và tiếng  Đức như Ni Trưởng Trí Hải. Người đã vận dụng ngòi 
bút sáng tạo, linh động, tao nhã và súc tích…thổi vào bản dịch một sức 
sống mới, khiến cho dịch phẩm trở nên độc đáo, điển hình như của J.D. 
Salinger, Gandhi , H.Hesse, Will Durant và của Erich Fromm, …đặc biệt 
phải kể đến “Câu chuyện dòng sông”[8]
 một tuyệt phẩm rất thâm sâu của nhà văn thi sĩ Hermann Hesse mà Ni 
trưởng đã dịch từ nguyên văn tiếng Đức khi vừa rời ghế nhà trường. Dưới 
ngòi bút dịch thuật điêu luyện của Ni trưởng, tác phẩm đã biến thành một
 kiệt tác văn chương với nội dung khác hẳn với các tác phẩm  nhuốm màu 
triết học hiện sinh (existentialism) của phương Tây đang chiếm lĩnh văn 
đàn miền Nam Việt Nam lúc đó. “Bản dịch của cô đẹp và chân đến nỗi 
người đọc có thể đọc đi đọc lại mà vẫn thấy như là một nguyên bản tiếng 
Việt với lời văn chải chuốt tự nhiên, đầy thơ mộng.”[9] Ngay trong lời tựa dịch phẩm này Ni trưởng đã thể hiện nhận thức về cuộc đời ngay khi còn là một tỳ kheo ni trẻ tuổi:  “Trọn
 tác phẩm của Hermann Hesse là lời Thánh ca bay vút lên nỗi đau đớn vô 
cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người, dù bơ vơ 
bất lực mà vẫn luôn luôn tha thiết đi tìm sự giải thoát ra ngoài mọi 
giới hạn tầm thường của đời sống tẻ nhạt”[10].
  Ni trưởng một đời chăm lo công tác xã hội và phiên dịch kinh điển
  Với
 sự hiểu biết sâu sắc và là tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng
 Ni trưởng vẫn luôn cần mẫn thực hiện hạnh nguyện của mình như hiện thân
 của vị bồ tát Quán Âm, lòng từ bi của người đã xoa dịu được nỗi đau của
 nhân loại.
 Ni trưởng tâm sự: "Làm từ thiện không chỉ là ủng hộ về tài chính mà còn có nghĩa là làm giảm thiểu nỗi đau về tinh thần cho họ”.
 Trước những năm 1975, khi còn tham gia công tác tại học viện, Ni trưởng
 đã từng làm từ thiện, và cho đến những năm sau 1975 cũng thế. Với trái 
tim yêu thương và lòng nhân ái vô biên, Ni trưởng vẫn tiếp tục làm nhiều
 việc cho người nghèo như, những người già, người tàn tật, những bệnh 
nhân tâm thần và những người dân tộc thiểu số, Ni trưởng đến với họ bằng
 bức thông điệp ngàn đời của đạo Phật đó chính là lòng từ bi và chất 
liệu của trí tuệ. Không một ai có thể quên được những giọt nước mắt của 
Ni trưởng đã lăn xuống khi người nói đến những hoàn cảnh cơ nhỡ của 
những người cùng khó. Đặc biệt là Ni trưởng còn chăm sóc cho bệnh nhân 
nhiễm  HIV trước những ngày mà họ mất, người luôn nói về những nỗi cô 
đơn của họ và tìm mọi cách để có thể giúp họ có được nội tâm bình an 
trước khi chết. Trái tim bồ tát của người luôn đau với nỗi đau của nhân 
loại, đau lòng khi nhìn thấy cả chó hay mèo bị bỏ rơi. Lòng từ chính là 
một liều thuốc hữu hiệu để có thể cứu khổ cho nhân loại. Lòng từ lớn 
cũng chính là một trong những năng lực kỳ diệu để người đạt được sự giác
 ngộ như Ni trưởng đã viết:
 Tâm đại bi như hoa,
 Nở từ chân không Tuệ,
 Đại bi như ánh sáng,
 Tỏa từ ngọn đèn Thiền
  Ni
 giới Việt nam luôn tự hào về ni trưởng Trí Hải, nơi người thấp thoáng 
hồn nghệ sĩ, phóng khoáng trên gương mặt sáng ngời, nụ cười rộng lượng 
bao dung, một nụ cười có muôn nẻo đi vào giác ngộ.Ni trưởng quả là một 
ngôi sao sáng, một đóa sen ngát hương của từ bi và trí tuệ giữa chốn 
hồng trần, lòng từ bi và hạnh nguyện vị tha của người đang chiếu soi 
từng bước chân.
 
Nguon: http://hoibongsen.com/diendan/showthread.php?t=8387