NĂM PHÁP 
        
		
        
        
        
        có thể đưa đến
		KHỔ ĐAU hay HẠNH PHÚC
		
 
		
Khổ 
		đau hay hạnh phúc đều là những hậu quả tất yếu mà những hành động trước 
		đó chúng ta đã tạo ra; dù là đồng thời hay dị thời đi nữa, thì chúng 
		cũng bị lệ thuộc vào sự chi phối của luật tắt Nhân quả đứng về mặt hiện 
		tượng. Do đó vấn đề Nhân quả ở mặt nào đó, chúng được coi như là nhân tố 
		quyết định cho mọi giá trị đánh giá về cuộc sống, mà đức Đạo sư khi còn 
		tại thế thường dạy cho đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Ngài, theo đó 
		cuộc sống được thể hiện qua khổ đau hay hạnh phúc đều do hành động của 
		chính chúng ta mang lại ngay trong hiện tại hay trong tương lai. Cũng vì 
		vậy cho nên Tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên, khi còn ở đời Ngài đã lấy những 
		lời dạy về năm pháp này của đức Phật để triển khai rộng ra trong 
		A-tỳ-đạt-ma pháp uẩn túc luận. 
		Theo đó năm pháp này được Tôn giả liên hệ duyên khởi với ba độc tham, 
		sân, si qua sự thể hiện nhân quả của ba nghiệp thân, khẩu, và ý, trong 
		việc tự mình đem lại đau khổ cho chính mình, nếu phạm vào năm pháp này, 
		và khuyên người khác phạm vào năm pháp này. Ngược lại tự mình muốn đem 
		lại hạnh phúc cho chính mình thì bằng cách xa lìa năm pháp này, và 
		khuyên kẻ khác cũng xa lìa năm pháp này nếu họ muốn có hạnh phúc. Theo 
		Tôn giả, thì đức Phật đã dạy năm pháp này như sau:
		
- “Khi đức 
		Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, trong rừng Thệ-đa, 
		tại Thất-la-phiệt, 
		thì bấy giờ Thế Tôn bảo các Bí-sô:
		
- “Nếu những 
		ai chưa dứt bặt hết được năm điều tội oán đáng sợ này, thì đối với đời 
		sống hiện tại họ sẽ bị các vị Hiền thánh cùng quở trách, chán ghét; được 
		gọi là những kẻ phạm giới, tự làm tổn thương mình, mắc tội, nên bị chê 
		cười, phát sinh nhiều điều phi phước; 
		khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào đường hiểm ác, sinh vào trong địa 
		ngục. 
		
“Những gì là 
		năm? Đó là:
		
- “Sát sinh; 
		do nhân duyên sát sinh nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa sát 
		sinh, đó gọi là (tội oán) thứ nhất. 
		
- “Lấy của 
		không được cho; do nhân duyên trộm cắp nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không 
		tránh xa trộm cắp, đó gọi là (tội oán) thứ hai. 
		
- “Dục tà 
		hạnh; do nhân duyên tà hạnh nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa 
		tà hạnh, đó gọi là (tội oán) thứ ba. 
		
- “Lời nói hư 
		dối, do nhân duyên lời nói hư dối nên sanh ra tội oán sợ hãi; không 
		tránh xa lời nói hư dối, đó gọi là (tội oán) thứ bốn. 
		
- “Uống nếm 
		các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật; do nhân duyên uống, 
		nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật 
		nên sanh ra tội oán sợ hãi; không tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, 
		các trường hợp say sưa, phóng dật, đó gọi là (tội oán) thứ năm.
		
		
- “Ai chưa 
		dứt hết được năm điều tội oán đáng sợ hãi như vậy, thì đối với đời sống 
		hiện tại, họ sẽ bị các vị Hiền thánh cùng quở trách, chán ghét; được gọi 
		là những kẻ phạm giới, tự làm tổn thương mình, mắc tội, nên bị chê cười, 
		phát sinh nhiều điều phi phước; khi thân hoại mạng chung sẽ rơi vào 
		đường hiểm ác, sinh vào trong địa ngục.
		
- “Những ai 
		có khả năng dứt bặt hết năm điều tội oán đáng sợ hãi này, thì đối với 
		đời sống hiện tại, họ sẽ được các vị Hiền thánh cùng khâm phục khen 
		ngợi; được gọi là những người trì giới, tự phòng hộ chính mình, không có 
		tội, không bị chê cười; phát sinh nhiều điều phước thù thắng, khi thân 
		hoại mạng chung được lên cõi an lành, sanh về cõi Thiên trung. 
		Những gì là năm? Đó là: 
		
- “Tránh sát 
		sinh, do nhân duyên tránh sát sinh nên diệt được tội oán sợ hãi; tránh 
		được sát sinh, đó gọi là (trường hợp) thứ nhất. 
		
- “Tránh 
		không cho mà lấy, do nhân duyên tránh được trộm cắp, nên diệt được tội 
		oán sợ hãi; có khả năng diệt được trộm cắp, đó gọi là thứ hai. 
		
		
- “Tránh xa 
		dục tà hạnh, do nhân duyên tránh xa được dục tà hạnh nên diệt được tội 
		oán sợ hãi; vì có khả năng tránh xa tà hạnh, đó gọi là thứ ba. 
		
		
- “Tránh xa 
		lời nói hư dối, do nhân duyên tránh xa lời nói hư dối nên diệt được tội 
		oán sợ hãi; có khả năng diệt được lời nói hư dối, đó gọi là thứ bốn.
		
		
- “Tránh xa 
		sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, vì tránh 
		xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật nên 
		diệt được tội oán sợ hãi; vì có khả năng tránh xa sự uống, nếm các loại 
		rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, đó gọi là thứ năm. 
		
- “Ai có khả 
		năng dứt hết năm điều tội oán sợ hãi như vậy, thì người đó đối với đời 
		sống hiện tại được các vị Hiền thánh  đồng khâm phục khen ngợi, được gọi 
		là những người trì giới, tự phòng hộ chính mình, không có tội, không bị 
		chê cười; phát sinh nhiều điều phước thù thắng, khi thân hoại mạng chung 
		được lên cõi an lành, sanh về cõi Thiên trung. Sau đó Thế Tôn liền nói 
		kệ để tóm lại nghĩa trên rằng:
		
		Các hành sát, đạo, dâm, 
		
		
		Nói dối, ham các rượu; 
		
		
		Bị năm tội oán trói, 
		
		Bị Thánh hiền chê trách. 
		
		
		Là phạm giới tự hại, 
		
		Có tội, chiêu phi phước; 
		
		
		Chết rơi đường hiểm ác, 
		
		
		Sinh vào các địa ngục. 
		
		
		Tránh các sát, đạo, dâm, 
		
		
		Hư dối, các thứ rượu; 
		
		
		Thoát năm oán đáng sợ, 
		
		
		Thánh hiền đều khen phục. 
		
		
		Là trì giới, tự giữ, 
		
		Không tội, cảm nhiều phước; 
		
		
		Chết về đường an lành, 
		
		
		Sanh vào trong Thiên giới.” 
		
		
- Đó là năm 
		pháp được đức Phật thuyết giảng cho các hàng cư sĩ tại gia vào lúc bấy 
		giờ, và được tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên lập lại trong: ‘A-tỳ-đạt-ma 
		pháp uẩn túc luận.’ của ngài. Trong năm pháp này, đứng về mặt muốn đạt 
		đến hạnh phúc mà nói, thì bốn cấm giới đầu thuộc về tánh giới, 
		còn giới thứ năm chỉ là giá giới, 
		được đức Phật thiết lập, làm nền tảng cơ bản cho cả hai hàng xuất gia và 
		tại gia trong việc thanh tịnh hóa cuộc sống qua sự thể hiện thân và tâm, 
		để từ đó làm nhân cho cuộc sống hạnh phúc ngay trong hiện tại, hay trong 
		tương lai cho cõi Nhân-Thiên sau này. Cũng chính vì điều này mà ngũ giới 
		cũng còn được gọi là ngũ đại thí. 
		Ngược lại nếu không thực hành năm điều cấm giới này mà phạm vào chúng 
		thì coi như hậu quả theo sau đó sẽ đưa đến cuộc sống khổ đau trong hiện 
		tại, hay sẽ rơi vào cuộc sống khổ đau trong đường hiểm ác nơi địa ngục 
		trong tương lai. Trong năm giới này tuy bốn giới đầu chúng thuộc về tánh 
		giới, nhưng đối với hàng tại gia thì có khác với hàng xuất gia trong 
		việc khai-giá-trì-phạm, 
		và cũng có thể tùy theo hoàn cảnh sống, và duyên nghiệp của mọi người 
		tại gia mà theo đó có thể gia giảm trong việc trì phạm, hay theo khả 
		năng của mỗi người mà áp dụng theo giới mà mình đã nguyện thọ trì trong 
		khi truyền giới và nhận giới của họ, chứ không bắt buộc phải giữ hết năm 
		giới; 
		trường hợp nếu nguyện thọ trì hết năm giới thì tốt. Trong năm giới đối 
		vời hàng cư sĩ tại gia chỉ có một giới thứ ba là khác một chút đối với 
		năm giới của các hàng xuất gia là, chỉ khi nào vượt qua giới hạn chức 
		năng làm chồng hay làm vợ mà thôi, vì giới này chỉ cấm tuyệt hẳn dành 
		cho hàng xuất gia, còn tại gia thì vì chức năng làm vợ làm chồng, và 
		chức năng kế tục giữ gìn nòi giống, nên chỉ cấm việc tà dâm mà thôi. Do 
		đó, người nam hay người nữ thuộc hàng tại gia chỉ bị giới hạn trong tà 
		dâm (tà hạnh). Đây là năm cấm giới đối với hàng cư sĩ tại gia, 
		nếu người nào áp dụng và thực hành trọn vẹn thành tựu năm pháp này thì 
		mới đưa đến hạnh phúc một cách trọn vẹn, và thật sự sẽ được sinh về cõi 
		trời sau khi qua đời, còn nếu không thì phải tùy theo giới mà mình đã 
		trì giữ nhiều hay ít, có trọn vẹn giới ấy hay không mà có kết quả theo 
		việc làm của mình là có hạnh phúc ít hay nhiều trong hiện tại hay trong 
		tương lai nơi cõi người, hay cõi trời.
		
- Ở đây, vấn 
		đề khổ đau, hay hạnh phúc có được đều bắt nguồn từ hành động gây nhân 
		trước đó để đưa đến hậu quả tất yếu phải nhận lãnh do thân-khẩu-ý đã gây 
		ra từ năm pháp mà ra. Đối với năm pháp Giết sanh mạng, Trộm cắp, Tà 
		hạnh, Nói dối, Uống rượu này mà chúng ta tạo tác hay hành động theo động 
		cơ thúc đẩy của Ý qua ý hành, thân hành, và khẩu hành, thì đó là nguyên 
		nhân dẫn đến hậu quả thiện hay ác, tùy đó mà có kết quả hạnh phúc hay 
		đau khổ có được của chúng ta theo sau chúng. Vậy sự hợp tác giữa năm 
		pháp này và ba hành thân-khẩu-ý chúng đẻ ra ba nghiệp thân-khẩu-ý dẫn 
		dắt chúng ta đi đến nơi khổ đau hay hạnh phúc đều tùy thuộc vào hành 
		động hay sự tạo tác của chúng ta. Từ đây chúng ta thấy sự liện hệ duyên 
		khởi thuận-nghịch rất rõ ràng bắt đầu từ hành động giết hại sanh mạng 
		hay không giết hại sanh mạng; trộm cắp hay không trôm cắp, tà dâm hay 
		không tà dâm; nói dối hay không nói dối; uống rượu hay không uống rượu. 
		Và cũng từ đây chúng ta thấy sự liên hệ bắt đầu từ năm pháp này đối với 
		tất cả những pháp khác qua duyên khởi chúng trở thành trùng điệp không 
		đầu không mối. Chỉ mới trong năm pháp này mà chúng ta đã nhận ra được sự 
		liên hệ của chúng đến Duyên khởi, đến Nhân duyên, đến Nhân quả, đến 
		Nghiệp báo, đến ba cõi, sáu đường, đến luân hồi v.v... nói chung là liên 
		hệ đến các pháp. Chính vì sự liên hệ nhân quả duyên khởi này mà Năm pháp 
		đã trở thành pháp căn bản mấu chốt của mọi vấn đề giải quyết khổ đau và 
		hạnh phúc của con người, cho dù là xuất gia hay tại gia. 
		
- Chúng ta 
		mỗi người bất đầu tu từ đây, và cũng kết thúc từ đây, nghĩa là đối với 
		năm pháp này cần phải bắt đầu áp dụng vào thực hành, thì chúng ta mới 
		thấy được cái giá trị của chúng sẽ đưa đến tốt hay là xấu, khổ đau hay 
		là hạnh phúc. Cũng cùng áp dụng và thực hành một pháp, nhưng chúng sẽ 
		cho chúng ta hai kết quả trái ngược nhau; nếu chúng ta biết cách áp dụng 
		và thực hành đúng thì chúng sẽ dẫn đến kết quả tốt, hạnh phúc; ngược lại 
		nếu áp dụng sai thì chúng sẽ dẫn đến kết quả xấu, khổ đau. Đức Phật đã 
		đứng trên lập trường Nhân quả mà nói về nguyên nhân tạo tác năm pháp có 
		thể đưa đến đau khổ, hay hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương 
		lai. 
		
		 
		
		NĂM PHÁP CÓ THỂ ĐƯA ĐẾN
		ĐAU KHỔ HAY HẠNH PHÚC
		
		 
		
1- Sát sinh 
		hay tránh xa sát sinh: 
		
- Trong giới 
		hạn của bài này, thì sinh ở đây chỉ cho các loài chúng sanh có tình 
		thức, biết ham sống, sợ chết như loài người là tội chính, còn các loài 
		sinh vật nhỏ bé nhất như vi trùng đã có mạng sống thì thuộc tội nhẹ. Ở 
		đây chúng tôi chỉ nói đến giết hại mạng sống của con người, nên những 
		chúng sanh này mà ta vô cớ giết hại chúng, thì sẽ đưa đến tội oán đối 
		đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy 
		nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác 
		địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi. 
		
Có năm điều 
		kiện 
		hội đủ để trở thành tội sát sinh:
		
a/ Đối tượng 
		phải là người.
		
b/ Tưởng là 
		người.
		
c/ Cố ý giết.
		
d/ Phương 
		tiện.
		
e/ Người 
		chết.
		
- Sau khi 
		chúng ta hoàn thành việc giết người, thì hành động đã tạo tác xong trở 
		thành nghiệp nhân. Tùy theo ý hợp tác với lời nói để đưa đối tượng đến 
		chỗ chết, hay bằng đồ vật do chân tay mang lại cái chết cho đối tượng, 
		thì theo đó trở thành ý nghiệp, thân nghiệp, hay khẩu nghiệp. Từ nghiệp 
		nhân này đưa đến nghiệp quả phải nhận lãnh ngay trong hiện tại, hay ở 
		đời sau còn tùy thuộc vào sự đầu thú hay không đầu thú của thủ phạm, đã 
		bị phát hiện hay không bị phát hiện, mà nhận lãnh quả báo. 
		
- Trường hợp 
		nếu đầu thú sớm, thì sẽ có kết quả sau đó do tòa án phán quyết, hoặc bị 
		tội tử hình, hoặc tội chung thân khổ sai; nếu không đầu thú hay không bị 
		phát hiện, thì trong hiện tại tuy trên hình thức chưa chịu quả báo tù 
		tội khổ đau, nhưng trên thực tế có thể tâm thần không được an ổn, luôn 
		lo sợ bị phát hiện, và đây cũng là một hình thức chịu quả tuy là chưa 
		chính thức, nhưng cuối cùng kiếp sau cũng phải nhận quả mà thôi. Như vậy 
		sự khổ đau trong hiện tại đang chịu là nghiệp quả được sinh ra từ những 
		hành động tạo tác trước đó trong quá khứ đời trước, chúng di hại di 
		truyền cho đến ngày nay, chúng ta gọi là nghiệp nhân. Từ nghiệp quả 
		chủng tử di truyền hiện hữu này, cọng với chủng tử nghiệp nhân tạo ra 
		trong hiện tại, chúng ta có một thứ Nhân-quả mới trong hiện tại, và từ 
		cái nhân được tạo ra trong hiện tại chúng sẽ dẫn đến cái quả sau đó ở 
		ngay trong cuộc sống này hay kiếp sau, và cứ như thế chúng ta cứ tạo 
		nhân, nhận quả trôi dạt mãi trong ba nẻo ác luân hồi khổ đau. Đây là 
		chúng tôi mới chỉ đề cập đến nhân quả thuộc phân đoạn sinh tử, chứ chưa 
		nói đến nhân quả trong biến dịch sinh tử, thay đổi trong từng sát na 
		một. Nhân quả mà chúng tôi đang đề cập ở đây cũng mới chỉ là thứ nhân 
		quả do Chánh báo cá nhân tạo ra chứ chưa nói đến nhân quả do Y báo tập 
		thể cộng đồng xã hội tạo ra nhân và hưởng quả tương tác với nhau. Vì một 
		người nhận lãnh kết quả của chính mình trong hiện tại mang cả hai đặc 
		tánh vừa mang nhãn hiệu Chánh báo cá nhân mình, và vừa mang nhãn hiệu Y 
		báo cộng đồng xã hội, từ cha mẹ anh em gia đình cho đến xã hội mà mình 
		xuất hiện ra đời. Sự hổ tương duyên khởi này đã tạo ra chính cuộc sống 
		mà nạn nhân đang hiện hữu theo đó chúng có những đặc thù riêng biệt mà 
		chỉ nơi đó có mà thôi, thí dụ như cõi người, cõi trời, địa ngục, ngạ 
		quỷ, súc sanh. v.v... chúng có những đặc tính riêng của từng nơi thuộc Y 
		báo mà Chánh báo chúng khế hợp duyên đủ đối với nơi họ đến mà không có 
		nơi nào khác lẫn lộn đối với họ. Sự liên hệ Duyên khởi nơi dây chính là 
		sự liên hệ huyết thống, màu da, xứ sở, giàu nghèo, tốt xấu, khổ đau, 
		hạnh phúc. v.v... và đó cũng chính là kết quả của sự hình thành liên đới 
		giữa Biệt nghiệp và Cộng nghiệp của cá nhân và xã hội chúng thể hiện ra 
		trong cõi đó.
		
- Tại sao 
		chúng ta giết hại sanh mạng lại đưa đến khổ đau? Như đức Phật đã dạy ở 
		trên sát sinh sẽ đưa đến tội oán đối lẫn nhau. Vậy từ sự sát hại sinh 
		mạng này sẽ đưa đến sự liên hệ liên kết lẫn nhau giữa nhân và quả trong 
		hiện tại cũng như trong tương lai qua định luật duyên khởi. Sự liên hệ 
		hổ tương duyên khởi này nói lên đặc tính thành tựu và hủy diệt của các 
		pháp trong duyên đủ; về một mặt nào đó chúng có thể thành tựu đồng thời 
		khổ đau hay hạnh phúc, và ngược lại chúng có thể hủy diệt đi cũng đồng 
		thời khổ đau hay hạnh phúc. Do đó, khi mà có sự hiện diện của sát hại 
		thì đồng thời cũng nảy sanh ra hai thái cực trong cái thành tựu của khổ 
		đau cho người này, thì sẽ nảy sanh cái hủy diệt dành cho hạnh phúc người 
		khác, vì vậy mà oán đối phát sinh, và khi oán đối đã phát sinh thì khổ 
		đau sẽ hiện hữu. Giữa chủ thể giết hại và đối tượng bị giết hại, cả hai 
		đều bình đẳng trên tánh giác, cho dù có thể sai biệt hay khác nhau trên 
		hình tướng, giai cấp, giàu nghèo, sắc màu, tôn giáo v.v... đi nữa, chúng 
		cũng có đủ mọi thứ quyền như tất cả mọi người, có đủ mọi thứ tình cảm, 
		mọi thứ bản năng, mọi thứ lý trí như mọi người, và những thứ này được 
		hướng đạo bỡi một chủ thể tạm cho là ngã, là tôi, hay là ta. Từ cái ngã, 
		tôi, ta này phát sinh ra đủ thứ chuyện nhằm củng cố, và nuôi dưỡng chúng 
		lớn mạnh thêm qua sự thúc đẩy vô hình của tham, sân, và si từ bên trong, 
		mà đức Phật gọi là ba độc. Chúng sử dụng thân-khẩu-ý như là một thứ công 
		cụ để tạo ra mọi việc có lợi cho mình trong việc nuôi lớn cái chấp ngã 
		vô minh, và hủy diệt, san bằng bất cứ chướng ngại nào cản bước đường 
		tiến tới. Chính vì cái vô minh tà kiến chấp ngã này đẻ ra cái vô minh tà 
		kiến chấp pháp, và từ đây có của ta, và có những cái liên hệ đến ta, có 
		những sở hữu của ta: có đất nước ta, có dân tộc ta, có dòng họ huyết 
		thống của ta, có tổ tiên ta, có ông bà cha mẹ ta, có vợ chồng con cái 
		ta, có sắc tộc ta, có tôn giáo ta, có châu lục ta, có ngôn ngữ ta, có đủ 
		thứ trên đời của ta. Cũng từ đó sanh ra chiếm hữu, và mọi cuộc chiến 
		tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành đủ thứ xảy ra, an ninh 
		trật tự bắt đầu mất an ninh, cuộc sống của mọi người mọi sinh vật cũng 
		từ đây bất an, chuyện giết hại lẫn nhau không tránh khỏi và đau khổ lầm 
		than bắt đầu hiện hữu. Suốt hai thiên niên kỷ qua, lớn thì qua hai cuộc 
		thế chiến; nhỏ thì không biết bao nhiêu mà kể, nào là chiến tranh giữa 
		các tôn giáo với nhau, nào là thánh chiến, nào là thập tự chinh, nào 
		chiến tranh giữa các sắc tộc với nhau, chiến tranh ý thức hệ với nhau, 
		chiến tranh xâm lược chiếm thuộc địa, chiến tranh vì chủ nghĩa bá quyền, 
		chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc cũ, chủ nghĩa đế quốc mới v.v... 
		Những cuộc chiến tranh như vậy, trước hết chúng bắt nguồn từ những xung 
		đột vô thức giữa các cộng nghiệp với nhau, giữa các biệt nghiệp với nhau 
		trong một cái cộng nghiệp chung của kiếp người trên mặt đất này, mà mấu 
		chốt chúng cũng bắt nguồn từ vô minh hoặc nghiệp tà kiến của những thứ 
		cộng nghiệp, hay các biệt nghiệp đã di truyền từ chủng tử kiếp trước di 
		hại lại cho đến cái quả đời hiện tại, cọng với cái nhân của các hành 
		động vô minh tà kiến trong hiện tại do chính chúng ta và hoàn cảnh luân 
		lý xã hội tạo ra, đã tạo thành một thứ bản ngã cá nhân và tập thể khó bề 
		thay đổi được. Chúng luôn luôn thúc đẩy mọi người lo bảo vệ và nuôi lớn 
		vô minh tà kiến chấp ngã chấp pháp càng nhiều càng tốt, nên việc xung 
		đột càng ngày càng trở nên gay gắt và nghiêm trọng hơn. Những sự kiện 
		đấu tranh để sinh tồn càng trở nên sâu sắc và thủ đoạn hơn, với mục đích 
		là triệt hạ những gì không thuộc về của ta và tóm thâu những gì nếu mình 
		muốn thuộc về mình. Vì vậy những cuộc chiến tranh về sau này, càng trở 
		nên khốc liệt và bạo tàn hơn, dưới mọi hình thức và bất kể thủ đoạn, con 
		người giết hại tàn sát lẫn nhau, không những chỉ có con người giết hại 
		con người mà con người còn giết hại bao nhiêu sinh vật khác, triệt hạ cả 
		những môi trường sống chung quanh, miễn sao thõa mãn được lòng tham, 
		lòng thù hận trả thù, lòng ích kỷ, có lợi cho cá nhân mình, tập thể 
		mình, đất nước mình, tôn giáo mình, sắc tộc mình thì họ làm chứ họ không 
		cần đến hậu quả di hại chung cho cả thế giới. Trong khi họ thõa mãn được 
		lòng tham, lòng thù hận qua hành động si mê của mình như vậy là tạo ra 
		tội oán đối, nhưng họ đâu có biết rằng chính hành động của họ là nguyên 
		nhân đẩy người khác vào chỗ đấu đầu thù hận ngay trong hiện tại cũng như 
		mai sau. Nếu họ chỉ cần biết nhìn ra cái đau khổ oán hận nơi người khác 
		qua chính mình, thì có lẽ họ không bao giờ có hành động sát hại để di 
		hại đến khổ đau oán hờn đối với những người khác, và cũng không bao giờ 
		nhân danh mình hay nhân danh bất cứ ai, hay bất cứ chủ nghĩa nào, tôn 
		giáo nào, hay bất cứ khuynh hướng chính trị nào để khuấy động chiến 
		tranh chén giết lẫn nhau mà thu lợi về mình. Vì tất cả những nhân danh 
		đó đều là trá hình của chấp ngã chấp pháp mà thôi, rốt cuộc tự chính ta 
		tạo ra tội oán đối với những hoàn cảnh liên hệ duyên khởi chung quanh, 
		đáng lý ra chúng phải được nuôi dưỡng và trân trọng để tạo ra hạnh phúc 
		an vui cho chính con người và xã hội; đằng này chúng ta tạo ra sự xung 
		đột sát hại lẫn nhau, khiến cho xã hội bất an, mà khi xã hội bất an là 
		chính chúng ta những người tạo ra chiến tranh sát hại cũng bất an; vì 
		giữa ta và xã hội có sự liện hệ duyên khởi mật thiết (cái này có thì 
		cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh; cái này không thì cái kia 
		không, 
		cái này diệt thì cái kia diệt) 
		đó là một định luật tất yếu của cuộc sống, không thể thiếu được. Một 
		người nếu sát hại mạng sống kẻ khác thì sẽ dẫn đến những hậu quả sau 
		đây: Trước hết đối với bản thân họ hai trong ba hành này sẽ liên quan 
		trực tiếp đến cái chết đó là ý hành cùng với thân hành hay khẩu hành, 
		điều này tùy thuộc vào hành nào đi chung với ý hành để đưa đến cái chết 
		cho đối tượng. Ý hành lúc nào cũng có trước và điều động hai hành kia 
		thi hành theo nó, như khi ý phát khởi lên ý giết hại người để cướp đoạt 
		tài sản của kẻ khác chẳng hạng, hay do lòng thù hận trả thù, hoặc do lừa 
		đảo lường gạt để kiếm lợi về mình, thì thân hành theo sự điều động của ý 
		đi đến chỗ muốn cướp, bằng đủ mọi cách thân hành động khiến cho khổ chủ 
		chết đi, thì người này mang hai nghiệp sát sinh của ý và của thân. 
		Trường hợp muốn giết người cướp của qua ý sai khiến miệng nói khiến cho 
		kẻ khác không chịu được ôm hận hay nhục mà chết, hay nói để lừa gạt được 
		người, đưa thân chủ đến chỗ chết, thì người này mang hai nghiệp thuộc ý 
		và khẩu. Khi họ hoàn thành việc sát hại kẻ khác như vậy thì nghiệp sát 
		cũng theo đó mà hình thành, và tạo thành nhân sát hại sinh mạng, và từ 
		đây sẽ đưa đến hậu quả của nó theo sau đó, trong hiện tại hay trong 
		tương lai. Trường hợp nếu án mạng này bị phát hiện và tìm ra được thủ 
		phạm ngay trong hiện tại, thì hậu quả của nó sẽ tùy theo pháp luật hiện 
		hành của nhà nước vào lúc đó mà bị phạt tử hình hay tù chung thân gì đó. 
		Trường hợp nếu không bị phát hiện và được bỏ qua, thì nghiệp quả sẽ trả 
		vào kiếp sau đối với chính mình trong đường hiểm địa ngục như Phật đã 
		dạy ở trên. Đó là nói về bản thân của người sát hại kẻ khác, còn bản 
		thân của những kẻ bị giết hại thì ôm lòng thù hận, quyết định phải trả 
		thù; từ đây oán đối hình thành, tạo nghiệp sân hận, và si mê thuộc ý, và 
		cứ như thế theo nghiệp duyên tạo thân, thân tạo nghiệp trôi lăn mãi 
		trong sáu đường luân hồi vay trả, trả vay không bao giờ thoát khỏi khổ 
		đau. Đó là chúng ta mới đề cập đến cá nhân người sát hại, và người bị 
		sát hại, nhưng mỗi cá nhân như vậy chúng hiện hữu và có giá trị được là 
		nhờ sự hiện hữu của đồng loại, và mọi sự vật chung quanh, vì chúng liên 
		hệ theo định luật duyên khởi. Vậy khi một người giết hại người khác thì 
		chính cả đồng loại và mọi sự vật cũng chịu liên hệ liên đới với nhau 
		trong tội sát này, và đối với sự oán đối thù hận của kẻ bị giết, cũng 
		can hệ mật thiết đối với đồng loại và mọi sự vật chung quanh. Thật là 
		thú vị với tư tưởng này chúng ta có thể liên hệ về một khía cạnh nào đó, 
		với nếp sống của dân tộc Việt nam trong phong dao tục ngữ thì cũng có 
		những câu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng này như : ‘Con dại cái mang’ 
		hay ‘Mũi dại lái chịu đòn.’ Tuy ở đây chỉ nói lên được cái liên hệ huyết 
		thống, hay liên hệ tập thể trong một chừng mực nào đó, nhưng chúng cũng 
		nói lên được tính đặc thù của tư tưởng này, nếu chúng ta biết tư duy và 
		liên hệ sâu xa một tí nữa về nhiều mặt như: chánh trị, xã hội, kinh tế, 
		quân sự, y tế, giáo dục, văn hoá, vân vân và vân vân, thì chính tư tưởng 
		này nó bao trùm tất cả mọi liên hệ trong cuộc sống của chúng ta. 
		
		
- Do đó mỗi 
		hành động của chúng ta được hình thành thì theo đó di truyền lại cho kết 
		quả trước hết là cá nhân và sau nữa là tập thể xã hội. Một người bị giết 
		hại ngoài sự mất đi một thành viên trong một gia đình, trong một cộng 
		đồng xã hội thôi, mà nó còn di hại đến hiệu quả sản xuất, hay tiêu dùng 
		cho một gia đình hay một xã hội nào đó trong việc cung cầu nữa, như trên 
		chúng tôi đã trình bày. Cho nên một hành động xấu như sát hại sinh mạng 
		chẳng hạn chúng sẽ di hại xấu cho cả một xã hội. Như hiện tại vấn đề môi 
		trường sinh thái đã đang và sẽ được cả toàn thể các quốc gia trên thế 
		giới ra sức tuyên truyền về việc tác hại của chiến tranh giết người và, 
		ra sức bảo vệ các loài động thực vật một cách nghiêm ngặt, từ trên rừng 
		cho đến dưới biển; không cho con người sát hại một cách bừa bãi và tùy 
		tiện, là nhằm bảo vệ môi trường sống cho nhân loại, nếu không có chúng 
		thì nhân loại và vạn vật trên trái đất này sẽ đi đến chỗ diệt vong không 
		xa. 
		
- Như vậy, 
		qua pháp giết hại sinh mạng, nó có những tai hại đối cá nhân và xã hội 
		cho hiện tại như đức Phật đã dạy ở trên, và mặc khác nó còn di hại trong 
		tương lai qua biệt nghiệp và cọng nghiệp nơi quốc độ mình phải đến như 
		địa ngục. Đức Phật hoàn toàn chính xác trong việc khuyên con người không 
		nên sát hại các sinh vật khác trong đó con người là chính, trước hết nếu 
		tránh không giết hại sinh mạng thì sẽ không tạo ra tội oán đối với người 
		với vật. Như vậy nghiệp thân-khẩu-ý không thành, thì ba độc tham, sân, 
		si không hiện hữu trong sát hại. Ở đây vì nhân sát hại của thân-khẩu-ý 
		không tạo ra, nên không có hậu quả tù tội, giam cầm, hay bị người ghét 
		bỏ, sống an lành không bị xáo trộn lo toan, và sau khi thân hoại mạng 
		chung vì không tạo nghiệp sát hại thân-khẩu-ý nên không sanh về đường 
		hiểm ác địa ngục chịu đau khổ, mà được sanh về cõi trời hưởng nhiều hạnh 
		phúc. Trong pháp này nếu người nào tránh khỏi không sát hại thì theo tôn 
		giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc 
		đạt được học xứ thứ nhất trong năm học xứ trên.
		
2- Không cho 
		mà lấy hay tránh xa không cho mà lấy: 
		
- Đây là pháp 
		thứ hai còn gọi trộm cướp, hay tránh xa không trộm cướp. Ở đây, chỉ 
		chung cho những vật không thuộc sở hữu của mình mà muốn thành của mình, 
		chủ vật sở hữu không cho mà chúng ta đem tâm trộm cướp lấy cho mình, dù 
		là vật đó để ở nơi đâu mà có chủ thì không được không cho mà lấy. Hành 
		vi hủy phạm vào giới không cho mà lấy thứ hai này, cũng tùy thuộc vào 
		những vật mà chúng ta đã lấy nhiều hay ít, có giá trị nhiều hay giá trị 
		ít, theo đó tội cũng tùy thuộc vào chúng là nặng hay nhẹ, và như vậy sẽ 
		đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau 
		như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiên tại, và tạo ra khổ 
		đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi.
		
		
- Nếu là nặng 
		thì thành tội bất khả hối và, chúng phải hội đủ sáu điều kiện 
		sau đây:
		
1/ Tài vật 
		của người khác.
		
2/ Biết rõ 
		tài vật đó là của người chứ không phải của mình.
		
3/ Khởi lên 
		tâm trộm cướp, hay có tâm dự mưu trộm cướp trước.
		
4/ Tìm cách 
		lấy và hoàn thành mục đích trộm cướp.
		
5/ Tài vật 
		được trị giá là năm tiền. (giá trị của tài vật này còn tùy thuộc vào 
		quốc độ sở tại của nó về việc người trộm bị lên án tử hình nếu như trộm 
		cướp vật trị giá như vậy).
		
6/ Dời khỏi 
		chỗ cũ.
		
- Đó là sáu 
		điều kiện đủ để kết án, khi nào hành động của chúng ta đã hoàn thành 
		việc trộm cướp vật của người khác không cho mà lấy. Giới này cũng như 
		giới thứ nhất, sự hoàn thành một kết quả hành động phải từ tâm có ý nghĩ 
		trộm cướp vật của người kinh qua lời nói của miệng hay hành động của 
		thân, được thể hiện qua kết quả làm hại kẻ khác, mà kết quả ấy được xã 
		hội hay quốc gia đó chấp nhận là một bản án tử hình, hay khi hành động 
		đó có hại cho vật người khác với giá trị từ năm tiền vàng trở lên, hay 
		bao nhiêu tùy thuộc vào quốc gia, xã hội đó ấn định, thì người phạm vào 
		giới này mắc vào tội trọng không cho sám hối để trừ tội và, trong tương 
		lai sẽ đọa vào trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sanh chịu 
		báo khổ đau, tùy theo nơi họ bị đọa vào. 
		
- Cũng như 
		giới thứ nhất sự tác hại hỗ tương của nó trong hiện tại cũng như những 
		di hại hỗ tương trong tương lai không khác gì với giới thứ nhất, chúng 
		chỉ khác nhau trên mặt hiện tượng về tội danh thôi, nhưng về kết quả 
		phải chịu nặng nhẹ đồng nhau. Do đó mỗi hành động của chúng ta được hình 
		thành thì theo đó di truyền lại cho kết quả trước hết là cá nhân và sau 
		nữa là tập thể xã hội. Một người cướp của giết người, ngoài sự mất đi an 
		ninh trật tự của một xã hội, nó làm mất đi một thành viên trong một gia 
		đình, trong một cộng đồng xã hội, trong việc di hại đến hiệu quả sản 
		xuất, hay tiêu dùng cho một gia đình hay một xã hội nào đó trong việc 
		cung cầu nữa, như trên chúng tôi đã trình bày. Cho nên một hành động xấu 
		như cướp của giết người chẳng hạn chúng sẽ di hại xấu cho cả một xã hội, 
		như trong vấn đề an ninh trật tự xã hội, vấn đề kinh tế của một quốc 
		gia. Nếu tất cả mọi người không lo làm ăn mà ai cũng ngồi đó, chờ cho kẻ 
		khác làm sẵn ra tiền bạc của cải, rồi mình ra tay cướp lấy để mình tiêu 
		xài, thì gia đình đó, xã hội đó sẽ đi đến đâu? chắc chắn là sẽ đưa tất 
		cả mọi người đến chỗ mất an ninh trật tự, nghèo nàn, lạc hậu khổ đau và, 
		cuối cùng là chết đói, gia đình xã hội tan rã. 
		
- Do đó vấn 
		đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc luôn tùy thuộc vào 
		hành động của chúng ta, ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất. Trong pháp 
		này nếu người nào tránh khỏi không trộm cướp thì theo tôn giả 
		Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ hai trong 
		năm học xứ trên.
		
3. Dục tà 
		hạnh hay tránh xa dục tà hạnh:
		
- Đây là pháp 
		thứ ba, còn gọi là dục tà hạnh, hay tránh xa dục tà hạnh. Ở đây trừ qua 
		hệ nam nữ giữa vợ chồng có hôn thú, ngoài ra tất cả những quan hệ với 
		nam nữ mà luật pháp quốc gia, hay đạo đức của một xã hội nơi chúng ta cư 
		trú không cho phép, thì đều là những quan hệ bất chính còn gọi là tà 
		hạnh hay tà dâm. Như kinh Viên Giác nói: ‘Tất cả các loài chúng sanh 
		trong các thế giới, dù sinh bằng trứng, sinh bằng thai, sinh nơi ẩm 
		thấp, hay hoá sinh, mà hiện hữu được thì cũng đều phát xuất từ dâm dục 
		mà có tánh mạng.’ Đủ để nói lên sự tồn tại của chúng ta trên hành tinh 
		này chính là sự tồn tại của dâm dục. Do đó nếu muốn chúng sinh phàm phu 
		dứt hẳn dâm dục, thì đó là một điều khó khăn khó thực hiện được trong 
		một sớm một chiều. Do đó đức Đạo sư đã phương tiện cho những chúng sinh 
		tại gia ở cõi dục chỉ được giới hạn trong sinh hoạt vợ chồng mới tạm gọi 
		là chính đáng. Chúng sanh ở cõi này muốn dứt hết dâm dục thì phải tu 
		chứng đến tam quả A-na-hàm, 
		và như vậy chỉ dành cho hàng xuất gia, trong việc toàn đoạn dâm dục.
		
- Sự an lập 
		của chúng sanh trong cõi thế gian này, chủ yếu do sự hoà hợp giữa nam và 
		nữ khi được gọi là vợ chồng. Sự hoà hợp trong sinh hoạt vợ chồng này nếu 
		là bình thường thì sẽ không mang đến cho xã hội những bi kịch xáo trộn, 
		mang lại mọi hạnh phúc cho mọi cá nhơn, mọi gia đình trong một xã hội. 
		Ngược lại chúng mang lại cho mọi người, mọi gia đình những đổ vỡ trong 
		quan hệ vợ chồng, cha con, mẹ con, người thân trong gia đình, ra đến bạn 
		bè trong xã hội; mang đến cho mọi người một cuộc sống bất an xáo trộn do 
		sự liên hệ bất bình thường, vượt qua khỏi giới hạn của vợ chồng. Từ đây 
		cũng sẽ dẫn đến những cái chết mà nói ra thì không ai muốn, nhưng trên 
		thực tế hằng ngày thường xảy ra luôn: bị giết vì giam dâm, vì tình, vì 
		hiếp dâm, dụ dỗ, vì thông dâm, đồng lòng thông dâm phá hoại gia đình 
		v.v… Và cũng sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán 
		đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, 
		và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh 
		trong luân hồi. 
		
- Vì muốn tạo 
		hạnh phúc an lạc cho nhân gian nên đức Phật đã chế định dục tà hạnh cho 
		nam nữ cư sĩ tại gia.
		
- Dục tà hạnh 
		phải hội đủ bốn điều kiện 
		thì phạm tội nặng bất khả hối:
		
1/ Đúng đối 
		tượng.
		
2/ Có tâm 
		dâm.
		
3/ Đúng ba 
		nơi là đường miệng, đường tiểu tiện và, đường đại tiện mà hành dâm.
		
4/ Tác thành 
		sự thật hành dâm, cho dù hai căn của nam và nữ chỉ vào một chút như hạt 
		mè, cũng thành tội bất khả hối.
		
- Giới này vì 
		dành cho chúng sanh tại gia cho nên chỉ giới hạn trong phạm vi vợ chồng, 
		mục đích là mang đến hạnh phúc an lạc cho chúng sanh cõi dục này, chứ 
		chưa nhằm đến mục đích giải thoát, nên trong kinh Ưu-bà-tắc ngũ giới 
		tướng 
		đức Phật có Khai cho người tại gia nam là: ‘Nếu Ưu-bà-tắc nào cùng dâm 
		nữ hành dâm, không trả tiền, thì phạm tà dâm bất khả hối, còn trả tiền 
		thì không phạm’. 
		Nhưng: “Trong Đại thừa Bồ-tát giới, nếu không phải là Bồ-tát địa thượng
		(bậc sơ địa trở lên), vì nhân duyên nhiếp hoá, chẳng được có hành 
		vi này”. 
		Thật sự, ở đây có sự khác biệt như vậy là vì một đằng đức Phật muốn 
		chúng sanh tại gia có cuộc sống hạnh phúc đứng về mặc luân lý xã hội, và 
		mặc khác là đứng về phương diện đạo đức giải thoát, nên có sự mâu thuẫn 
		giữa kinh Ưu-bà-tắc và Đại thừa Bồ-tát giới kinh. Đây chính là Giới được 
		đức Phật Khai (trong khai-giá-trì-phạm) cho các cư sĩ tại gia; và 
		cũng là cư sĩ tại gia nhưng đã thọ giới Bồ-tát rồi thì dứt khoát không 
		được phạm (giá) vào hành vi này. Đây là một vấn đề tế nhị và phức 
		tạp, cho nên ngay trong giới này đức Phật cũng giới hạn và mở cho những 
		đối tượng nào, tuỳ theo căn cơ mà các chúng sanh đó nguyện thọ trì, thì 
		theo đó mà khai hay giá. Và giới này đức Phật cũng căn cứ vào xã hội Ấn 
		độ vào lúc bấy giờ, do đó việc chế giới cũng tuỳ thuộc vào xã hội đó. 
		Hiện tượng trên là hiện tượng phổ biến tại xã hội Ấn độ vào lúc đó, nên 
		đức Phật cũng phải căn cứ vào xã hội đó mà chế giới. Nhưng hiện tượng 
		này đối với Việt nam, hay nhiều xã hội khác trên hành tinh này cho là 
		một hiện tượng không lành mạnh, không phải là tấm gương tốt của người 
		thiện, thì chúng ta cũng căn cứ vào những lời dạy của đức Phật về việc 
		Khai-Giá-Trì-Phạm đối với giới luật như thế nào để chúng ta cũng theo đó 
		mà hoàn thành một cuộc sống hạnh phúc an lành ngay trên trái đất này. Vì 
		theo đức Phật, việc chế giới Ngài luôn luôn căn cứ vào tướng phạm để mà 
		chế. Nhưng tướng phạm thì luôn tuỳ thuộc vào sinh hoạt luân lý thói quen 
		tập quán của xã hội đó chúng hình thành. Vì vậy đối với hiện tượng này, 
		khi chúng ta đã quy y tam bảo, thọ trì năm pháp rồi thì chúng ta cũng 
		nên coi đây là một hành vi tà dâm, vì một mặc chúng nuôi lớn dục tham 
		của con người. 
		
- Giới này 
		cũng như giới thư nhất, thứ hai, sự hoàn thành một kết quả hành động 
		phải từ tâm có ý nghĩ dục tà hạnh kinh qua lời nói của miệng hay hành 
		động của thân, được thể hiện qua kết quả làm hại kẻ khác, mà kết quả ấy 
		được xã hội hay quốc gia đó chấp nhận là một bản án tử hình, khi hành 
		động đó có hại cho người khác, thì người phạm vào giới này mắc vào tội 
		trọng không cho sám hối để trừ tội, và trong tương lai sẽ đọa vào trong 
		ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sanh chịu báo khổ đau, tùy theo 
		nơi họ bị đọa vào. 
		
- Sự tác hại 
		liên đới hỗ tương lẫn nhau, nó cũng giống như hai giới trên: có thể đưa 
		đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất 
		ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người 
		trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh 
		phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành 
		động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai trên mặt 
		tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong 
		pháp này nếu người nào tránh xa dục tà hạnh thì theo tôn giả 
		Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ ba trong năm 
		học xứ trên.
		
4. Lời nói hư 
		dối, hay tránh xa lời nói hư dối:
		
- Đây là pháp 
		thứ tư, còn gọi là lời nói hư dối, hay tránh xa lời nói hư dối. Ở đây, 
		lời nói hư dối mang phong cách lường gạt lừa đảo người khác để thủ lợi 
		về mình dưới mọi hình thức, mà người bị mình lừa gạt bị thiệt hại mà họ 
		không biết, hay có biết ra cũng đã muộn rồi. Có một định nghĩa chung cho 
		việc vọng ngữ là: không biết nói biết, biết nói không biết; không thấy 
		nói thấy, thấy nói không thấy; không hay nói hay, hay nói không hay; 
		không nghe nói nghe, nghe nói không nghe. Và trong vọng ngữ còn gồm có 
		cả nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói thiêu dệt không đúng nghĩa, tuy không 
		thuộc tội bất khả hối, nhưng chúng cũng thuộc gây ra bất hoà xáo trộn 
		trong cuộc sống, đem đến khổ đau cho nhau trong hiện tại, nên chúng 
		thuộc vào tội khả hối.
		
- Lời nói hư 
		dối cũng như định nghĩa trên, nhưng trong Phật giáo chia ra làm ba loại: 
		Đại vọng ngữ, 
		tiểu vọng ngữ, và phương tiện vọng ngữ. Đại vọng ngữ là lời những nói hư 
		dối không thật trên thực tế, như hiện tại mình chưa chứng Thánh mà nói 
		với mọi người là mình đã chứng Thánh v. v…; tiểu vọng ngữ là ngoại trừ 
		những lời đại vọng ngữ ra, còn những lời nói không thật dùng để dối gạt 
		mọi người, nói chung tất cả mọi sự nói dối đều là tiểu vọng ngữ; phương 
		tiện vọng ngữ là những lời nói nhằm vì cứu độ chúng sanh, Bồ-tát xuất 
		gia tại gia có thể phương tiện vọng ngữ như: Có kẻ say muốn giết người 
		đến hỏi có thấy người kia không, nếu có thật thấy người kia đi nữa, 
		nhưng vì muốn cứu người kia nên nói không thấy thì không có tội.
		
- Riêng đại 
		vọng ngữ ở đây phải hội đủ chín điều kiện, 
		mới thành tội trọng bất khả hối, và cũng vì bất khả hối cho nên sẽ đưa 
		đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như 
		hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau 
		suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi:
		
1/ Nói với 
		người.
		
2/ Tưởng là 
		người.
		
3/ Không thực 
		có chứng.
		
4/ Tự biết 
		không thực có chứng.
		
5/ Có tâm dối 
		gạt.
		
6/ Nói ra 
		pháp thượng nhơn.
		
7/ Tự nói 
		mình chứng pháp ấy.
		
8/ Nói rõ 
		ràng.
		
9/ Nói người 
		đối diện hiểu. 
		
- Đó là chín 
		điều kiện đủ để hoàn thành tội danh trong giới nói lời hư dối này, nếu 
		không hội đủ chín điều kiện này thì chưa đủ cơ sở để kết án là mắc tội 
		bất khả hối, và như vậy chúng thuộc về tội khả hối. Ở đây, đối với giới 
		đại vọng ngữ này mới nghe ra trên mặt biểu tượng ngôn ngữ chúng có vẻ vô 
		thưởng vô phạt, không có hại cho ai cả, nếu có hại đi chăng nữa thì cũng 
		do đối tượng tự nguyện. Còn đối với người nói, nếu ai đó phát hiện ra 
		được thì họ bị thiên hạ coi như là một kẻ ngông cuồng tự cao tự đại thế 
		thôi. Nhưng nếu chúng ta nhìn sâu và kỹ một tí nữa, thì vấn đề này chúng 
		không đơn giản như chúng ta nghĩ, mà chúng là nhân đưa đến ba đường khổ 
		địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vì sao? Vì theo những lời Phật dạy trong 
		luật Tứ phần thì đây là một trong hai loại giặc, 
		lớn nhất không gì bằng. Vì chúng ăn trộm đồ ăn thức uống của người. Ở 
		đây tuy đức Phật dạy cho các Tỳ-kheo xuất gia, nhưng giới này thuộc Tánh 
		giới dành cho cả xuất gia và tại gia, nên những người nam nữ tại gia 
		cũng không được phạm vào, nếu ai đã thọ trì năm pháp. Tại sao phạm đại 
		vọng ngữ mà ở đây đức Phật gọi là giặc trộm? Vì như chúng ta biết, khi 
		chúng ta mở miệng ra để nói những điều đó thì đương nhiên người nói luôn 
		có mục đích, ngoại trừ những kẻ điên cuồng loạn tâm, thì hầu hết người 
		nói ra việc đó đều muốn mang về cho mình một mối lợi lớn từ người nghe, 
		có tín tâm đối với tam bảo. Đây là một cách lừa đảo có hiệu quả nhất, mà 
		chính người nghe khó đủ trình độ trí tuệ để phát hiện, vì chúng đem bậc 
		Thánh ra để đánh động lòng tin của người nghe, và như vậy là chính họ đã 
		lừa đảo chính họ mà họ không biết. Đây quả thật là một việc làm buôn 
		thần bán thánh để nuôi dưỡng cái ngã vô minh. 
		
- Thật ra 
		trong giới đại vọng ngữ này, chỉ ngoại trừ những ai vô liêm sỉ, không 
		hiểu biết nhân quả mới phạm vào đại vọng ngữa, chứ thông thường thì 
		chúng ta dễ mắt phải tiểu vọng ngữ trong cuộc sống. Do đó chúng ta là 
		những người nam nữ Phật tử tại gia đã quy y tam bảo, thọ trì năm pháp 
		này thì dứt khoát phải lánh xa chúng. Cho dù việc nói dối đó mang lợi 
		lại cho chính chúng ta hay người khác đi nữa, thì việc làm đó cũng mang 
		một hậu ý xấu là lừa đảo lường gạt kẻ khác, chúng mang cái hại đến cho 
		họ, thì chúng ta không nên làm. Vì như trên chúng tôi đã nói, một việc 
		làm của chúng ta, nó tác động hổ tương liên quan tới người vật khác 
		chung quanh, gần cũng như xa qua liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
		
- Sự tác hại 
		liên đới hỗ tương lẫn nhau, nó cũng giống như ba giới trên: có thể đưa 
		đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất 
		ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người 
		trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh 
		phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành 
		động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba 
		trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác 
		nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa lời nói hư dối thì theo tôn 
		giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ tư trong 
		năm học xứ trên.
		
5. Uống các 
		loại rượu hay xa lánh uống các loại rượu:
		
- Đây là pháp 
		thứ năm, còn gọi là pháp uống các loại rượi nơi phóng dật hay tránh xa 
		uống các loại rượư nơi phóng dật. Ở đây, Bản thân của rượu vốn không tội 
		ác, vì vậy giới uống rượu trong năm giới nó thuộc về Giá giới. Nhưng vì 
		sau khi uống rượu vào, tất cả chúng ta không ai có thể làm chủ được 
		chính mình, nên có khả năng tạo thành tội ác lớn. Do đó đức Phật căn cứ 
		vào những hiện tượng và những hậu quả đã xảy ra do chất men rượu làm cho 
		hệ thống thần kinh hưng phấn, mật to xung động, làm mờ mắt, không còn tự 
		mình khống chế lấy mình được, có thể mắng người, đánh người, giết người, 
		hiếp dâm, phóng hoả, làm mất anh ninh trật tự chòm xóm láng giềng và, 
		bất cứ hành động nào cũng có thể làm được hết, mà Ngài đã chế giới uống 
		rượu. 
		
- Cũng như 
		bốn giới trên, giới uống các loại rượu cũng phải hội đủ ba điều kiện 
		sau đây mới thành tội khả hối:
		
1/ Là rượu.
		
2/ Không vì 
		bệnh nặng.
		
3/ Uống vào 
		khỏi cổ.
		
- Đó là ba 
		điều kiện đủ để hoàn thành tội danh của giới uống các loại rượu khả hối 
		này. Cho dù tội này không phải là Tánh tội bất khả hối mà là giá tội khả 
		hối, nhưng vì tính liên đới sau khi hoàn thành tội danh thì theo sau đó 
		những tội khác xuất hiện như cướp của, giết người, cưỡng dâm, và tất cả 
		những tội khác có thể xảy ra, mà bản thân người đó không tự chủ được. Do 
		đó việc tạo ra oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau 
		như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ 
		đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi. 
		Dưới đây, chúng tôi sẽ trích dẫn hai mẫu chuyện về việc uống rượu say, 
		và đưa đến việc phạm những trọng tội khác:
		
- “Vào thời 
		kỳ đức Phật Ca-diếp-ba 
		xa xưa, có một người thọ trì năm pháp, luôn luôn giữ giới thanh tịnh. 
		Một hôm, từ bên ngoài trở về nhà, vì quá khát nước, nên thấy trên bàn có 
		một chén rượu màu trong như nước, vội vàng uống một hơi vào bụng. Nào 
		ngờ sau đó rượu ngấm, tính men rượu kích thích phát tác, khiến ông ta 
		phạm giới một cách liên tục. Thấy gà hàng xóm chạy vào nhà, ông ta bèn 
		bắt trộm làm thịt, vợ người hàng xóm mất gà sang tìm, thấy vợ người hàng 
		xóm đẹp, ông liền cưỡng dâm. Sau việc này, bị bắt đến công đường, ông ta 
		chối cãi không nhận tội. Chỉ vì uống nhầm một chén rượu mà ông ta liên 
		tục phạm đủ năm pháp cấm giới. Tội ác của rượu rất lớn như vậy.”
		
- “Vào thời 
		đức Phật còn tại thế, có Tôn giả Sa-già-đà, 
		thần lực của ngài có thể hàng phục được độc long. Sau khi khất thực ngài 
		uống rượu do Phạm chí cúng dường. Uống xong ngài đi về bị say ói mửa, té 
		ngã dọc đường. Đức Phật nói với A-nan: ‘Sa-già-đà này là người si, trước 
		kia có thể hàng phục được độc long lớn, bây giờ, thì không thể hàng phục 
		được con rồng nhỏ!’”
		
- Qua hai mẫu 
		chuyện này cho chúng ta thấy, cái hại của việc uống rượu là như thế nào 
		rồi. Chúng làm mờ đi trí não của con người, không còn biết gì nữa một 
		khi đã say, và cũng vì cái nhân gây ra tai hại đáng sợ ngay trong hiện 
		tại, và trong tương lai sau khi chết sẽ đoạ vào ba đường ác. Theo Tứ 
		phần luật thì người uống rượu có mười điều mất mát:
		
1-   Nhan sắc 
		xấu xí.
		
2-   Kém sức 
		khỏe.
		
3-   Con mắt 
		không sáng.
		
4-   Hiện 
		tướng hung dữ.
		
5-   Phá hỏng 
		sự sống của gia nghiệp.
		
6-   Đưa đến 
		bệnh hoạn.
		
7-   Thích 
		đấu tranh kiện tụng.
		
8-   Không ai 
		khen, tiếng xấu truyền khắp.
		
9- Trí tuệ 
		giảm thiểu.
		
10- Thân hoại 
		mạng chung đọa vào ba đường ác.
		
- Đó là mười 
		điều mất mát của chúng ta khi uống rượu say ngay trong hiện tại. Đó là 
		cái hậu quả không thể tránh được của người uống rượu: nhân cách không 
		còn, trí tuệ biến mất, tác hại đến sức khẻo, tạo ra các thứ tội mà đáng 
		ra nếu chúng ta không uống rượu vào thì sẽ không xảy ra! Từ đây tác động 
		hỗ tương kéo rộng ra chung quanh mà gần nhất là những người thân trong 
		gia đình và rộng hơn là xã hội. 
		
- Cũng giống 
		như bốn giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc 
		mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh 
		nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có 
		hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương 
		lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như 
		pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng 
		trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào 
		tránh xa uống các loại rượu thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là 
		vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ năm trong năm học xứ trên.
		
		
		Tóm lại, qua năm pháp trên: Thứ nhất cho chúng ta một cái nhìn về nhân 
		quả, theo đó nếu người thiện nam kẻ tín nữ nào phạm vào, có nghĩa là 
		chúng ta giết hại sinh mạng con người cho đến uống các thứ rượu, thì 
		hiện tại sẽ bị khổ đau vì tù tội, và oán đối trả vay theo sau, khiến 
		cuộc sống trở nên bất an, xã hội trở thành bất ổn, và sau khi thân hoại 
		mạng chung sẽ đoạ vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh oán đối 
		theo mãi. Còn nếu lánh xa giết hại sinh mạng người cho đến xa lìa uống 
		các thứ rượu, thì chắc chắn hiện tại sẽ hạnh phúc tự do, cuộc sống trở 
		nên an lạc, xã hội trở thành cực lạc, và sau khi thân hoại mạng chung sẽ 
		sinh về cõi trời. Đó là một thứ nhân quả tất yếu không thể không xảy ra. 
		Thứ hai ngoài giới thứ nhất sát hại sinh mạng ra, bốn giới sau giới nào 
		cũng có khả năng sau khi hoàn thành việc vi phạm chính giới có thể đưa 
		đến giết người, và những tội danh nặng nhẹ khác nhau có sau đó. Thứ ba 
		trong năm giới, giới nào khi hoàn thành nghiệp nhân của nó cũng bắt đầu 
		từ tâm ý tham lam, sân hận, ngu si phát động, và kéo theo đó thân và 
		khẩu hành động theo, và tuỳ thuộc vào kết quả đã thực hiện xong, tội 
		danh bắt dầu hiện hữu, sau đó sẽ bắt đầu nhận lãnh nghiệp quả ngay trong 
		hiện tại, hay trong tương lai, thì chúng còn tuỳ thuộc vào duyên đủ hay 
		chưa đủ của chúng. Thứ tư từ những hiện tượng duyên đủ trên đủ để phát 
		động những liên hệ duyên khởi tiếp sau đó, và cứ như thế trái đất vẫn 
		quay, mặt trời vẫn chiếu sáng, các hành tinh vẫn hoạt động bình thường, 
		theo sự sinh diệt phải có của chính chúng. Con người cũng không vượt 
		khỏi qui luật này, và như vậy họ cũng phải sinh diệt theo qui luật 
		thành, trụ, hoại, không, trong chu trình biến dịch sinh tử. Trong chu 
		trình biến dịch sinh tử này, chúng luôn mang theo những chất liệu đủ đề 
		hoàn thành biến dịch của sinh và tử, đó chính là những nghiệp nhân của 
		nghiệp quả trước đó hình thành những chuỗi liên hệ khác trong chính nó, 
		và như vậy khổ đau hay hạnh phúc cũng tuỳ thuộc vào những chất liệu 
		nghiệp nhân mà chúng ta đã tạo ra trong quan hệ y báo và chánh báo.