Tác giả, thời trung niên tuy 
thường gia tâm học hỏi Phật Pháp, nhưng đối với vấn đề sống chết có 
phần lơ là, mãi đến khi tuổi đã gần bảy mươi mới tìm hiểu cẩn thận 
và khám phá những sơ sót thời trẻ, nên tạm ghi sơ lược vài nét chánh 
cho thân hữu bận rộn tạm có chút khái niệm để sẵn sàng ứng phó khi 
cần thiết.
Con người từ cõi sống 
về cõi chết (Phật Giáo chủ trương không thực sự có cõi chết theo 
nghĩa là chấm dứt mọi sự sống, vì sự sống vẫn tiếp tục dưới dạng 
khác, cõi khác) có thể phải trải qua một giai đoạn trung gian gọi là 
thân trung ấm, trước khi bị cuốn hút theo nghiệp lực mà luân hồi trôi 
nổi trong sáu nẻo (tức lục đạo hay lục thú) là: các cõi Trời, 
Người, A tu La, Quỷ thần, Địa Ngục và Súc sanh. 
Theo tín ngưỡng dân gian, 
thì đối lập với cõi người sống còn có cõi âm, ám chỉ cho cõi người 
chết, một thế giới vô hình mà nhục nhãn con người không thấy được. 
Phật giáo không có một cõi nào dành riêng cho người chết tương đương 
với danh từ cõi âm của tín ngưỡng dân gian, nên dưới lăng kính Phật 
giáo, ta có thể nhận định cõi âm của dân gian có thể gồm các giai 
đoạn thân trung ấm và các nẻo luân hồi về cõi Quỷ Thần và Địa ngục. 
Cõi Địa Ngục dành cho chúng sanh địa ngục nghiệp nặng chiêu cảm về, 
cũng là chánh trú sở của loài Ngạ quỷ, ngoài hai hạng nầy, chỉ có 
chư Bồ Tát do nguyện lực cứu độ mới vãng lai. Cõi Quỷ Thần là một 
cõi có chủng loại vô cùng đa dạng, từ phước báu đến trú xứ. Có thể 
nói, hầu như khắp các cõi khác: Thiên, A tu La, Địa Ngục, Súc Sanh (1) 
và dĩ nhiên là cõi nhân gian chúng ta, đều có sự hiện hữu của chúng 
quỷ thần. Do đó, trong phạm vi bài nầy nhân khi đề cập đến việc cứu 
độ vong linh qua các giai đoạn cận tử, giai đoạn thân trung ấm, và giai 
đoạn sau 49 ngày (tức giai đoạn đã đầu thai), tác giả cũng sơ lược về 
cõi Quỷ thần có liên hệ gần gũi với cõi người sống.
 
I. Giai đoạn chuẩn bị 
khi sắp lìa đời:
A. Chuẩn bị cho Nghiệp & 
Cận tử nghiệp: 
1. 
Chuẩn bị cho cái chết là một chuẩn bị trường kỳ từ lúc còn 
khỏe mạnh, với ý thức minh bạch rằng tâm niệm và hành động của kiếp 
nầy là nhân tố quyết định cho kiếp tái sinh. Kiếp nầy tạo nghiệp 
lành tức là đã chuẩn bị xây dựng sẵn sàng cho mình một kiếp sau tốt 
đẹp. Hạt giống nghiệp theo nguyên tắc lưu trữ thứ lớp trong tàng thức 
(tức A lại da thức), theo đó nghiệp mới gieo vẫn còn bén nhạy nên dễ 
hiện hành hơn nghiệp đã lưu trữ lâu xa về trước. Chính vì vậy mà cận 
tử nghiệp (nghiệp kề cận khi chết) đóng một vai trò tối quan trọng 
cho nẻo tái sanh: kẻ ác trước khi chết chợt phát sanh niệm lành có 
thể sanh về chốn an vui còn người có đời sống tương đối hiền lành, 
giờ cuối cùng bỗng sanh niệm ác mà bị đọa lạc vào cảnh khổ.
2.
Cận tử nghiệp là mối ưu tư hàng đầu trong việc lo lắng 
cho người chết:
- khi cận tử mà sanh tâm 
độc ác, giận hờn, tham lam... sẽ có những hậu quả vô cùng tai hại. 
Chăm sóc cho người sắp chết, vì vậy  phải thận trọng và tế nhị, và 
phải quan sát theo dõi họ để tùy cơ ứng biến đưa ra những “chiêu thức” 
cấp thời tạo điều kiện cho họ cảm thấy an vui, thoải mái... tránh cho 
họ những chuyện lo lắng phiền toái vô ích. Thầy Nhất Hạnh khuyên nên 
nhắc lại những hành động cao đẹp của người bệnh giúp họ sanh tâm hoan 
hỷ, vơi nỗi đớn đau, phiền não, giận hờn...
- nếu bệnh nhân bị ám 
ảnh bởi nỗi ân hận về hành động xa xưa nào hoặc có mối giận hờn 
nào không nguôi, nên cố gắng tìm cách an ủi xoa dịu cho tâm họ yên ổn. 
Nếu cần có thể vì họ tụng sám hối cho họ yên lòng, nếu họ là Phật 
tử thì nên nhờ các vị tu sĩ an ủi cho thêm phần hiệu nghiệm. 
- nhân khi người bệnh vui 
nên gợi ý họ phát tâm lành thí dụ như bố thí kẻ nghèo khó và cô 
nhi, ấn tống kinh sách... cúng dường trai tăng... (nhưng nếu thấy họ không 
vui phải ngưng tức khắc)
- nếu bệnh nhân là Phật 
tử nên tạo điều kiện cho họ tự niệm hay cùng Niệm Phật với họ, hoặc 
cho họ nghe băng thuyết pháp, băng Niệm Phật. (lưu ý khi thấy bệnh nhân 
lộ vẻ mệt, không vui thì nên ngưng liền) 
- lắng nghe tìm hiểu và 
khéo léo chiều ý người bệnh sao cho họ không sanh tâm khó chịu, tức 
giận. Thí dụ như họ thích ăn uống thứ gì nên cung phụng thứ đó, thứ 
không thể đáp ứng được thì lựa lời năn nỉ, giải thích để họ khỏi 
sanh lòng bất mãn.
- dọ hỏi họ muốn tổ 
chức hậu sự theo nghi thức tôn giáo nào? Thích chọn vị chủ lễ nào 
đặc biệt không? nghi tống táng ra sao? chôn cất hay thiêu?... nhất nhất 
nên tuân theo ý họ. (những việc không chiều ý được, nên cố gắng giải 
thích để họ không sanh tâm bất mãn)
- chỉ những thân hữu gây 
niềm an vui cho người bệnh mới cho thăm viếng, nhưng thời gian không nên 
kéo dài quá có hại cho sức khỏe người bệnh; những kẻ dễ xúc động, 
khóc than, hoặc kể lể nhắc nhở những chuyện bực mình xa xưa phải ngăn 
chận kỹ, ngoài ra, những ai mà người bệnh không ưa thích cũng tuyệt 
đối không cho tiếp xúc.
 
B. Chuẩn bị pháp lý cần 
thiết:
1. Di chúc (Will) và 
Bản Tuyên Ngôn Chết Tự Nhiên (California Natural Death Act Declaration, tức 
Living Wills): 
- Ngay khi còn sống nên 
có di chúc hay lời dặn dò rành rẽ (nếu như việc phân chia tài sản 
không thành vấn đề) về những điều mà người bệnh muốn thực hiện sau 
khi chết như: Tang ma, tống táng, nghi lễ như thế nào? Tiền bạc và vật 
dụng kỹ niệm riêng tư giải quyết ra sao? Nhận phúng điếu không? Bố thí 
cúng dường ra sao, nếu có. Đối với các vị Phật tử thuần thành, xin 
đề nghị tìm đọc bài viết đầy đạo vị: “Nói rõ những việc khi lâm 
chung” do T.N. Chơn Minh dịch:  
http://old.thuvienhoasen.org/khilamchung.htm  (Nên 
nhớ rằng việc thiếu di chúc minh bạch thường nảy sanh lắm tranh chấp 
khó hàn gắn trong gia đình, ngay như tại các tự viện, khi bậc tu hành 
đạo cao đức trọng lìa đời thình lình cũng lâm vào cảnh tương tợ)
-  Tuyên ngôn chết tự 
nhiên tại Hoa Kỳ rất cần thực hiện, để tránh cảnh người bệnh khỏi 
phải kéo dài nỗi đớn đau khổ sở vô ích, trong khi con cháu vì sợ tai 
tiếng cứ theo nguyên tắc “còn nước còn tát” không dám quyết định chấm 
dứt  trị liệu bằng trợ sinh (withdraw life support) cho họ.
2. Dịch vụ liên hệ 
với Nhà Quàng (Funeral Home) cần 
phải được nghiên cứu khảo giá cẩn thận và ký kết minh bạch trước khi 
thân nhân qua đời, nếu không sẽ bị bóc lột nặng vì khi “tang gia bối 
rối”, thì giá nào họ đề nghị mình cũng phải bấm bụng chịu: Chọn 
hỏa táng hay địa táng; giá cả lô đất huyệt (mua trực tiếp của 
Cemetery giá cao, còn nếu chịu khó tìm các Cemetery Property Resales, 
trung gian rao bán các lô huyệt khách hàng không xử dụng, đôi khi giá 
rẻ gấp đôi), tẩm liệm, áo quan, phòng tang lễ và số ngày xử dụng... 
giá cả phải ghi rõ trong hợp đồng. Lưu ý là giá cả dịch vụ rất 
khác biệt, có những việc không cần thiết, những dịch vụ họ lập lờ 
để đòi trả hai lần nếu không hỏi cẩn thận: Thí dụ như áo quan có 
thể vài trăm cho đến vài mươi ngàn Mỹ kim, nên chọn lựa thứ đúng nhu 
cầu, như thiêu xác thì chỉ cần loại áo quan đơn giản là quí rồi; thí 
dụ khác là dịch vụ ướp xác(embalming) đã đủ tiêu chuẩn để chưng bày 
thi thể trong mấy ngày tiếp tân rồi, nhưng họ vẫn đề nghị thêm dịch 
vụ ướp lạnh (refrigeration) đắt giá mà không cần thiết, các dịch vụ 
dressing, casketing và cosmetology giá tương đối thấp tùy theo nhu cầu mà 
hợp đồng. 
(Về hai mục nầy xin bạn 
đọc nên tìm đọc thêm bài viết rất đầy đủ của đạo hữu Tâm Diệu: “Tôi 
nay trọ ở Trần gian. Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời...” 
http://old.thuvienhoasen.org/chet-chetvataisinh.htm#toinay 
)  
 
C. Chuẩn bị linh tinh:
1. Nhờ vị tăng ni hay 
chùa nào phụ trách nghi lễ; nhóm Phật tử nào tiếp giúp hộ niệm... 
nên mở lời thỉnh cầu trước. (Cũng nên có dự phòng, vì khi thình lình 
xảy đến thì chưa chắc vị tăng ni mình thích có thời dụng biểu thuận 
tiện không?).
2. Phân chia trách vụ cho 
thân thích hiểu biết và có kinh nghiệm phụ giúp: Ai lo tiếp tân? Ai 
đón rước tăng ni? Ai liên lạc với bệnh viện, nhà dưỡng lão, nhà 
quàng...? Ai lo sắp xếp bàn thờ và tượng Phật, bàn thờ hương linh, 
nhang đèn, bình bông, chuông mõ...? (Tại các city đông Việt kiều thường 
có dịch vụ cho thuê Phật cụ và trang trí cho tang ma, kể cả việc may 
tang phục, với giá phải chăng. Nên dọ hỏi, thuê họ cung cấp những dịch 
vụ cần thiết thì rất tiện lợi; tại Việt Nam nghe nói cũng có dịch 
vụ trọn gói đảm trách việc nầy) 
3. Cáo phó nên thảo sẵn, 
đăng báo nào? gởi cho ai? nên lập danh sách ghi cả điện thoại, địa 
chỉ... để sẵn sàng liên lạc khi lâm sự, không phải mất nhiều thời giờ 
tìm kiếm. Lời cảm tạ tăng ni, thân hữu tham dự tang sự nếu phát họa 
trước vài nét càng tốt...
 4. Cụ bị sẵn tượng 
Phật nhỏ, máy Niệm Phật, soạn lời khai thị tạm vắn gọn hợp với 
hoàn cảnh và niềm tin của thân nhân để thân thương nhắc nhở họ, dự 
phòng cho trường hợp thân nhân tắt thở mà tăng ni chưa đến kịp thời. 
(Thí dụ đối với một bà cụ từng Niệm Phật mình có thể khai thị: 
“Giờ nầy Bà đã lìa đời, bà thấy khỏe nhẹ phải không? bà không còn 
bị cái thân bệnh hoạn già nua làm đau đớn khó chịu nữa rồi. Bà đã 
hiểu rõ thế gian nầy là giả tạm, xấu xa, đầy khổ đau, chẳng có gì 
đáng luyến tiếc nên Bà đã dứt khoát tu Niệm Phật cầu vãng sanh về 
cõi Phật A Di Đà, nơi mình có thể vĩnh viễn sống an vui, hoàn toàn 
không có chuyện khổ. Vậy thì xin bà tiếp tục thành tâm tu pháp môn 
Niệm Phật, để chỉ về cõi Phật mà thôi. Bây giờ, xin Bà bắt đầu Niệm 
Phật với chúng con bà nhé!  Bà nhớ một lòng một dạ Niệm Phật không 
xao lãng, không bận tâm chuyện đời, chuyện con cháu, không tiếc thương, 
bịn rịn chuyện gì, Bà nhé!”)
 
II. Giai đoạn lâm chung:
1. Trường hợp tắt thở 
tại địa phương không có tăng ni hoặc tăng ni chưa hiện diện kịp thời để 
chủ trì:
- Điều đình với ban quản 
lý bệnh viện hoặc viện dưỡng lão cho người từ trần tiếp tục nằm yên 
trong 8 giờ để làm nghi lễ tôn giáo. (Thông thường thì họ chấp nhận 
lý do tôn giáo nầy). 
- Người thân nhất trong 
nhà, thiết trí tượng Phật nhỏ trong tầm nhìn người bệnh rồi nghiêm 
chỉnh đứng bên giường thành tâm tạm khai thị theo như văn bản đã dự 
phòng ghi ở mục C.4 ghi trên. Sau đó, người nầy nhắc nhở vong linh 
hướng về tượng Phật cùng niệm với mình. Nếu cần thì ta có thể mở 
máy Niệm Phật để nương theo mà niệm cho gia tăng phần công lực. (Lưu ý 
là nên có người đứng Niệm Phật cạnh người chết liên tục trong 8 giờ, 
hoặc cho đến khi có tăng ni hiện diện đến chủ trì).
- Thông báo cho thân hữu 
đã hứa hộ niệm đến ngay để hỗ trợ, nên chia nhóm luân phiên hộ niệm, 
để âm thanh hùng hậu và được liên tục 
- (Đặc biệt lưu ý thân 
hữu tránh đụng chạm đến thi thể, cũng không ai được khóc than bi luỵ, 
và xin giữ tâm thanh tịnh, một lòng Niệm Phật với nguyện cầu cho 
người chết được vãng sanh tịnh độ)
- Cử người đón rước tăng 
ni. Xin vị chủ lễ chọn cho ngày giờ phát tang, hạ huyệt càng sớm 
càng tốt, hầu sớm nắm vững mọi chi tiết cần thiết thông báo thân 
hữu, đăng cáo phó... cùng liên lạc Nhà quàng về việc đón nhận di 
chuyển thi thể, chọn phòng tang lễ, lập thời khóa  tang lễ, tiếp đón 
thân hữu thăm viếng...  
2. Tăng ni hiện diện:
- Nếu rước tăng ni kịp 
thời lúc hấp hối để khai thị, thuyết pháp khuyên nhủ và hướng dẫn 
người bệnh Niệm Phật thì lợi lạc vô cùng, vì người bệnh dễ sanh tâm 
hoan hỷ hơn. 
- Khi tăng ni hiện diện, 
dù đến trễ bao lâu cũng cung thỉnh tăng ni chủ trì mọi việc, nhất là 
việc khai thị, ngoài ra, nếu người chết chưa quy y thì rất nên xin được 
quy y, và ban pháp danh.
- Sau khi hoàn tất Phật 
sự, dù vị chủ lễ có lưu lại hay không, gia quyến nên tiếp tục ở cạnh 
người chết liên tục Niệm Phật, cho đến khi Nhà quàng đưa xe đến đón 
nhận xác ra đi.
 
III. Cứu độ vong linh 
trong giai đoạn thân trung ấm: 
Việc cứu độ trong giai 
đoạn nầy muốn đạt hiệu quả, thiết nghĩ chúng ta cần nghiên cứu đặc 
điểm căn bản của thân trung ấm để có thể ứng dụng hợp tình lý:
A. Vài đặc điểm của thân 
trung ấm:
1. Sau khi chết người cực 
thiện vãng sanh ngay về cõi lành, kẻ cực ác thì nghiệp lực lôi kéo 
về cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức thời, phần đông còn lại phải 
trải qua giai đoạn thân trung ấm, là giai đoạn tạm thời chờ đợi để 
chiêu cảm thêm nghiệp lực quyết định cho nẻo tái sanh cho cuộc sống kế 
tiếp.
2. Thân trung ấm nầy chỉ 
kéo dài được bảy ngày, nếu chưa tái sinh thần thức phải trải qua một  
kinh nghiệm chết rồi sống trở lại với thân trung ấm mới trong bảy ngày 
nữa, diễn tiến sống chết tiếp nối nầy có thể kéo dài  thân trung ấm 
trong thời gian tối đa là 7 tuần tức 49 ngày. 
3. Mỗi lần thân trung ấm 
lập lại cái kinh nghiệm chết, nó phải tái diễn trọn vẹn tình tiết của 
lần chết chánh thức: người chết an lành trải nghiệm lại cái chết an 
lành; người chết vật vã, đau đớn kinh hoàng... trải qua kinh nghiệm đau 
khổ đó mãnh liệt gấp 7 lần khi chết (nguyên nhân vì thân trung ấm 
thuần tâm linh, không có thân xác thịt ngăn trở nên ý thức khổ đau hay 
an lạc đều mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống). Điểm cần lưu ý khác là trong 
giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước đều 
chiếu hiện trở lại, một cách cô đọng cường liệt, làm cho thần thức bối rối 
tột cùng.
Đây là lý do tại sao 
Phật Giáo có lệ tụng niệm cho người chết liên tiếp “bảy thất”,  mỗi 
thất nếu sắp xếp tổ chức kịp thời vừa trước phút thân trung ấm phải 
trải nghiệm lập lại cái chết thì quí giá vô cùng, sự kiện đó giúp 
thân trung ấm cảm nhận niềm bình an, một nhân tố lợi lạc cho việc tái 
sinh. 
4. Có thể nói Thân Trung 
ấm có thần thông, một trạng thái tinh tế thấy, nghe, hay biết tâm ý người 
sống, cũng có thể đi khắp nơi trong chớp mắt, xuyên qua tất cả chướng ngại 
vật, tóm lại tâm người chết ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, nhưng cũng 
rất phân tán và thường bất an. (Do đó, tang quyến nên luôn luôn sanh tâm 
thương yêu quí kính với người chết, nên nhớ là dầu chỉ móng niệm 
trong lòng ý khinh bạc, bất hiếu, cũng bị người chết khám phá được 
mà sanh tức giận đọa vào ác đạo; nếu thân quyến cãi vã tranh chấp nhau 
thì tình trạng càng tệ hại) 
5. Thời gian 49 ngày là 
giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết, giúp họ tạo cận 
tử nghiệp lành, tức là giúp họ chuyển vọng về chơn, chuyển phàm thành 
Thánh một cách dễ dàng. Theo Dudjom Rinpoche giải thích thì trong 21 ngày đầu 
của thời gian Trung Ấm, người chết vẫn còn một số ấn tượng mạnh về đời sống 
vừa qua, vì vậy đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người 
chết. Sau đó, kiếp tái sinh dần dần tượng hình và trở thành ảnh hưởng chính, 
nên cơ hội chuyển nghiệp cho họ khó khăn hơn 21 ngày đầu.
6. Sau 49 ngày nếu chưa 
đầu thai, thì thần thức sẽ không còn dưới dạng thân trung ấm nên cũng 
không còn chịu tái diễn kinh nghiệm sống chết sau mỗi bảy ngày nữa, 
vì đã chuyển sang kiếp quỷ thần rồi. Từ thời điểm nầy thì việc cứu 
độ vong linh trở nên khó khăn bội phần. (Xin xem tiếp phần Cứu độ sau 
49 ngày và phần Cõi Quỷ Thần)
 
B. Vai trò và phương pháp 
cứu độ: 
1. Vai trò tự tu tự 
độ của hương linh:
 - Phải ý thức rõ rệt 
rằng tự thân hương linh phải thức tỉnh và chuyển hóa thì sự vãng sinh, siêu 
thoát mới có cơ thành tựu, nếu hương linh cố chấp, bám chặt vào si mê, 
tham đắm danh lợi, giận hờn chất ngất thì tất cả nổ lực hỗ trợ của 
thân nhân và chư tu sĩ đều vô ích.
-  Vì vậy, nếu hương linh 
đã có nếp sống đạo đức, đã từng quy ngưỡng Phật pháp thì chỉ cần 
nghe lời khai thị, nghe tụng niệm, nghe nhắc nhở... cũng có thể tức 
thời chuyển hóa được.
- Hương linh dẫu chưa từng 
Niệm Phật nhưng nhờ có căn lành, nương vào thành tâm của thân quyến, 
mà quy ngưỡng Phật, một lòng Niệm Phật không loạn động, cũng có thể 
được Thánh chúng tiếp dẫn về cõi Tây Phương. 
2. Vai trò của thân 
quyến (đặc biệt là lòng thành tâm, hiếu đạo):
- Gia quyến cũng đóng vai 
trò tối quan trọng trong việc cứu độ người chết, vì chỉ có thân 
quyến do những cộng nghiệp ràng buộc, những dính mắc sâu xa với 
người chết mới có đủ nhân duyên giao cảm khiến người chết  hoan hỷ 
đón nhận mà phát thiện tâm, chuyển biến nghiệp dữ thành nghiệp lành.
- Do đó thân quyến phải 
nên thường trực giữ lòng chân thành hiếu thảo đối với người chết, nên 
ghi nhớ là trong thời gian 49 ngày, thần thức người chết rất bén 
nhạy hiểu biết rõ rệt tâm tư người sống, vì vậy điều kiện tiên 
quyết khi làm bất cứ Phật sự gì thân quyến cũng nên hướng thành tâm 
về người chết, thương yêu cầu nguyện thì thần thức họ sẽ cảm ứng mà 
an vui, nhờ vậy niệm lành sanh khởi mà được siêu sanh. (Ngược lại, 
trong thời gian nầy nếu con cháu sanh tâm ngỗ nghịch, phát ngôn bừa 
bãi, sanh sự bất hòa thì thần thức người chết biết rõ nảy lòng khổ 
sở, giận hờn mà bị đọa lạc)
- Thân quyến cũng có thể 
trợ duyên cho hương linh chuyển hóa bằng phương pháp ăn chay, tụng niệm, 
làm các việc phước thiện... hồi hướng cho hương linh. (Theo kinh Địa 
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, phẩm thứ 7 thì trong bảy phần công đức, hương 
linh cũng hưởng một phần) 
- Thân quyến cũng nên 
tránh sát sanh hại vật nhân danh tang lễ để tổ chức đãi đằng khiến 
hương linh phải liên đới trách nhiệm về nghiệp sát mới nữa. 
3. Vai trò tăng ni chủ 
lễ:
- Theo Hoà Thượng Thánh 
Nghiêm thì “không nhất thiết phải mời Tăng Ni đến tụng kinh.  Tăng Ni khi được 
cúng dường thì chỉ chú nguyện cho thí chủ mà thôi”, có thể hiểu là trong các 
lễ cầu siêu nếu mời được chư Tăng Ni thì tốt, nếu không thuận duyên hay vì một 
lý do nào đó không thể mời được thì chính gia quyến chí thành tụng 
niệm cũng có giá trị. Dù sao, khi tang gia bối rối, nếu được vị 
thầy kinh nghiệm hướng dẫn thì người sống cảm thấy an lòng, mà hương 
linh cũng có điều kiện chuyển hóa hơn.
- Nếu vị chủ lễ là bậc 
thầy đạo đức từng được hương linh kính trọng thì pháp nhủ của thầy 
sẽ giúp hương linh chuyển hóa rất mạnh. (Cũng nên lưu ý là thần thức 
hương linh tinh tế, nên một vị thầy dầu lễ tụng nhuần nhuyễn mà bụng 
dạ kém đoan chính, lại có thể khiến hương linh thấu rõ mà sanh tâm 
phiền não)
 - Được chư tăng ni chủ 
lễ thì tang lễ có thể hoàn mãn đầy đủ mọi nghi thức: Lễ Nhập Quan, 
Lễ Phục Tang, Lễ cầu siêu và cúng cơm, Lễ Di Quan, Lễ An Táng. 
4. Linh Tinh:
- Chương trình kết 
thúc tang lễ, gồm các tiếc mục: Cung thỉnh chư tăng ni, cảm niệm 
người quá cố, quan khách phát biểu, lời cảm tạ của gia quyến... nên 
sắp xếp tổ chức ngay trước lễ di quan, vì nếu chờ đến khi hoàn mãn - 
an táng xong - thì trật tự không còn nữa...   
- Trường hợp cư trú 
tại địa phương không có điều kiện mời tăng ni chủ lễ: Trong hoàn 
cảnh nầy, theo lời dạy của chư hòa thượng, gia chủ nên mạnh dạn tự 
mình hay nhờ cư sĩ hiểu biết, tuỳ tiện nương theo kinh Phật mà đọc 
tụng kinh và Niệm Phật cầu siêu, thì cũng có kết quả tốt đẹp. Thật 
ra, Pháp Phật là pháp để tu học, lắng nghe tìm hiểu mà chuyển hóa, 
chớ không phải là một pháp mầu cần phải tụng theo âm điệu, chuông mõ 
“rình rang” mới hiệu nghiệm. Vấn đề là gia chủ cần phải có tâm 
thành, hết lòng hết sức vì hương linh mà tha thiết thưa thốt nhắc 
nhở, thì mặc dầu tang lễ đơn sơ mộc mạc mà giá trị tinh thần vẫn có 
thể rất sâu xa. Thí dụ như khi thọ tang gia chủ có thể thân thương cất 
tiếng: “Thưa Mẹ (hoặc Ông, bà. Cha...) Mẹ ơi! Mẹ đã suốt đời tận tụy 
hi sinh gánh chịu bao điều gian khổ để chăm sóc chúng con. Ơn mẹ bao la 
như trời biển, chúng con chỉ gây khổ đau cho mẹ chớ chưa báo đền chút 
ân tình sâu dầy thì nay mẹ đã ra đi rồi. Giờ đây, quỳ trước linh đài 
mẹ, chúng con xin chính thức thọ tang, chúng con chỉ biết thành 
tâm sám hối, thành tâm tụng niệm cầu cho mẹ được an vui nơi tịnh thổ. 
Chúng con xin tụng đọc lời Phật dạy về cõi Phật A di Đà và niệm 
Phật hồi hướng cho mẹ. Xin mẹ lắng lòng nghe, xin mẹ cùng niệm Phật 
với chúng con. Xin mẹ lắng lòng tưởng nhớ đến Phật và xin buông bỏ 
đừng bận tâm gì chuyện đời nữa!..” Đây chỉ là một gợi ý đơn giản, 
gia chủ nên tuỳ nghi theo tình tiết riêng của gia đình mà bộc bạch.
5. Lo lắng sau đám 
tang:
- Tổ chức lễ cúng thất, 
mỗi 7 ngày, nhất là lễ chung thất tức thất cuối cùng thứ bảy tại 
chùa. 
- Ngoài nghi lễ chinh 
thức nầy, hằng ngày hằng giờ nếu tưởng nhớ đến người quá cố, 
thân quyến nên tiếp tục niệm Phật hồi hướng, với niềm tin tưởng vững 
chắc rằng lòng thành của mình sẽ được hương linh cảm ứng mà phát tâm 
lành.
- Về tiền phúng điếu, 
nếu có phương tiện, đề nghị nên xử dụng vào các công tác phước 
thiện, tạo duyên phước cho hương linh lẫn người gởi phúng điếu.
- Thời gian tốt nhất để tu 
tập cho người chết khi còn giữ dạng thân trung ấm thì 3 tuần đầu là quan 
trọng nhất vì trong thời điểm nầy người chết còn liên hệ mạnh mẽ với 
cuộc đời, nên họ dễ dàng nhận sự giúp đỡ của thân quyến, tóm lại sự tu tập 
của thân quyến ảnh hưởng đến tương lai của người chết rất nhiều, có thể giúp 
họ giải thoát, hoặc tái sanh tốt đẹp. Thời gian kế tiếp - khoảng từ ngày thứ 
21 đến ngày thứ 49 - thì hình dạng vật lý của họ bắt đầu quyết định, nên cơ hội 
giúp họ chuyển nghiệp trở nên khó khăn và bị hạn chế. (Tạng thư sống chết 
Thích nữ Trí Hải dịch)
 
6. Vài nhận xét ngắn 
gọn về các tệ trang liên hệ đến tang ma tại Việt Nam:
- Về tệ trạng lăng mộ 
hoành tráng cạnh tranh nhau: Mộ không phải là nhà ở của người 
chết mà xây dựng kiên cố để trú ngụ dài lâu. Phần lớn, người chết 
sẽ tái sinh sang kiếp khác trong thời hạn 49 ngày, ngôi mộ chẳng có 
giá trị thực sự gì cho hương linh, nó chỉ là phương tiện để người 
sống cạnh tranh khoe hiếu đạo, khoe giàu mà thôi. Ngược lại, tâm lý 
quá tham luyến ngôi mộ, có thể là một nguyên nhân khiến người chết 
không siêu thoát, phải lâm cảnh đầu thai sang loài quỷ giữ mồ mả chịu 
khổ sở lâu dài... Tại các nước có tục lệ thiêu xác như Ấn độ, Tây 
Tạng... không xuất hiện nhiều chủng loại ma quỷ giữ mồ như Trung quốc, 
Việt Nam... là nước quá quan tâm đến mồ yên mả đẹp. Thiêu xác quả là 
một tập tục hay đáng để cho chúng ta noi theo. 
- Về tệ trạng chọn 
huyệt theo thuyết phong thủy: Theo giáo lý “nghiệp quả” của Phật 
giáo thì ai gieo nhân nào phải gặt quả nấy, nên không có việc chỉ cần 
sở hữu một huyệt tốt thì luật nhân quả không còn hiệu nghiệm, mặc 
tình sống bất chấp đạo đức lẽ phải cũng giàu sang thành đạt.
- Về tệ trạng gào 
khóc, thậm chí thuê mướn người khóc cho rậm đám, chỉ nhằm mục 
đích phô trương hiếu đạo... vừa lố bịch với người, vừa có thể khiến 
hương linh bất an, não loạn mà đọa lạc...
- Về tệ trạng sát 
sanh tổ chức tiệc tùng: chủ khách tưng bừng thù tạc rượu thịt... 
trong ngày đưa tiển mất mát người thân là hành vi bất hiếu kính, 
huống chi việc sát sanh hại vật trong tang lễ vô tình tạo thêm nghiệp 
nặng cho người chết, khiến họ càng khó siêu thoát. Chính vì vậy mà 
Đức Huỳnh Giáo chủ mới dạy: “Giỗ lớn tội lớn, giỗ nhỏ tội nhỏ.” 
(2). Nếu trong hoàn cảnh phải lo ẩm thực cho khách đường xa, nên tránh 
tối đa việc sát sanh, và gia chủ nên yêu cầu thực khách lặng lẽ ăn 
uống để giữ lòng tưởng nhớ đến người vừa qua đời.
- Về tệ trạng thuê 
phường nhạc bát âm kèn trống rầm rộ gây náo loạn, tạo không khí ồn 
ào náo nhiệt trong thời điểm cần trang trọng tưởng niệm người thân ra 
đi quả là điều trái đạo lý. 
- Về tệ trạng đốt và 
rải giấy tiền vàng bạc: Việc bày vẽ ra các loại tiền âm phủ, giấy 
vàng bạc, lầu kho... cùng các nghi thức như cúng tam sên, mở cửa mả... 
đều là hủ tục mê tín nên loại bỏ.
 
IV. Giai đoạn sau khi 
đã đầu thai: 
A. Cõi và Thời gian đầu 
thai tức tái sanh: 
1. Diễn biến thông 
thường: 
Như đã trình bày phần 
III.A.1 về Thân trung ấm, thì sau khi chết người cực thiện vãng sanh 
ngay về cõi lành, kẻ cực ác thì nghiệp lực lôi kéo về cõi địa 
ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức thời, phần đông còn lại vì nghiệp báo 
chưa rõ rệt, nên còn chần chờ và có thể kéo dài thêm 49 ngày để 
chiêu cảm thêm nghiệp lực mới làm yếu tố quyết định để vãng sanh về 
cõi Phật hoặc tái sanh vào một trong sáu cõi (cũng gọi là lục đạo 
hay lục thú): Trời, Người, A tu La, Quỷ thần, Địa Ngục và Súc sanh...
2. Trường hợp đặc 
biệt:
- Theo Sogyal Rinpoche (Tạng 
thư sống chết Thích nữ Trí Hải dịch) thì có một số kẹt lại trong thế giới 
trung gian (tức thân trung ấm) để thành ma quỷ. Ðại sư Dilgo Khyentse 
Rinpoche(Chết &Tái sinh, Nguyên Tạng soạn dịch) cũng cho rằng có một số 
người cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến
bảy năm mới đi tái sinh, trường hợp bị kẹt lại này thì họ sẽ trở thành 
ma quỷ. 
- Những người đã có cái chết 
kinh khủng hay đột ngột như trường hợp bị ám sát, tự sát, tai nạn, chiến 
tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng 
khiếp về cái chết của họ, do đó tuy đã chết rất lâu vẫn không thể tiến đến giai 
đoạn tái sanh. (Tạng thư sống chết Thích nữ Trí Hải dịch)
- Thiết nghĩ:  Sau 49 
ngày người chết không còn giữ nguyên dạng thân trung ấm và cũng không 
còn chịu tái diễn kinh nghiệm sống chết sau mỗi bảy ngày nữa, vì họ
đã chuyển kiếp thành quỷ thần một cách đương nhiên, một loại quỷ 
thần hiện hữu lẫn lộn trong cõi người. (Quỷ thần thuộc loại hóa 
sanh, từ thân trung ấm hóa sanh thành quỷ thần nhanh chóng, không gì 
thay đổi nên ngay chính đương sự cũng cảm giác như tiếp tục thân cũ. 
Vì vậy, hồn ma vất vưởng dài lâu ở cõi Ta Bà chính thật là đã đầu 
thai vào chủng loại quỷ thần, chớ không còn là thân trung ấm nữa). 
Cứu độ những chúng sanh nầy do đó khó khăn hơn những người chết còn 
ở dạng thân trung ấm rất nhiều. 
 
B. Thời gian và thể thức 
cứu độ sau khi đã đầu thai: 
1. Tính chất không 
giới hạn về thời gian và cõi: 
Dầu người chết đã đầu 
thai bao lâu và ở cõi nào, sự giúp đỡ cho người chết vẫn có thể 
tiếp tục, tuy khó khăn hơn, nhưng vẫn có kết quả : 
- Theo Dudjom Rinpoche thì 
người đã chết 100 năm về trước, nhưng nếu ta tu tập cho họ, họ vẫn còn được 
lợi lạc. (Tạng thư sống chết Thích nữ Trí Hải dịch)
- Kinh Tirokudda sutta 
(Khudaka Patha) có dạy rằng ngay các chủng loại quỉ tức đã chuyển kiếp 
lâu xa rồi, vẫn có thể hưởng được phước báu mà thân quyến họ đã tạo nên và hồi 
hướng đến họ. (Đức Phật và Phật Pháp, ĐĐ Narada Maha Thera)
- Kinh Ưu-bà-tắc có nói: 
"Nếu người cha chết rồi bị đọa vào kiếp Ngạ quỉ, mà người con vì cha làm những 
phúc đức, nên biết người cha liền được thọ hưởng” (Theo Phương pháp Liễu sanh 
thoát tử).
- Theo Ngài Hư Vân (pháp 
ngữ trai đàn Thủy Lục tại Quảng Châu Trung Quốc vào ngày 18-8-1946) thì 
nhờ thiền sư Anh Công đời Đường kiến lập đàn tràng Thủy Lục cầu siêu độ, mà 
vua Tần Trang Nhượng, Phạm Tuy, Bá Khởi, Vương Long Vũ, Trương Nghị, Chẩn Muội, 
v.v... tuy đã bị trầm luân cả ngàn năm, vẫn được siêu thăng về cõi trời. (Hư 
Vân niên phổ, Hạnh Đoan dịch)
- Theo H.T. Thánh Nghiêm 
thì “Dù cho người chết có bị đọa vào ba đường ác thì công dụng của Phật sự là 
làm giảm bớt nỗi thống khổ của người chết, cải thiện hoàn cảnh của ba cõi. Nếu 
được sinh lên cõi trời thì sẽ làm cho hạnh phúc của họ trên cõi trời thêm an 
lạc. Nếu được sinh ở cõi tịnh độ thì có thể nâng cao thêm thứ bậc ở đấy”. (Phật 
học Quần Nghi)
 
2. Thể thức cứu độ:
- Trường hợp bình 
thường:
+ Gia quyến nên tiếp tục 
tu tập không ngừng: bái sám tụng niệm (đặc biệt là tụng kinh Địa 
Tạng và niệm Phật A Di Đà) và thực hành thiện nghiệp (cúng dường 
trai tăng, bố thí, phóng sanh, cứu giúp: cô nhi, kẻ tật nguyền, già 
yếu neo đơn...), rồi tâm thành hồi hướng cho thân nhân từ trần. 
Vào những ngày đại lễ Phật giáo, nhất là lễ Vu Lan thì việc tu tập 
hồi hướng cho người chết càng được khuyến khích.
+ Ký tự hương linh vào 
một ngôi chùa có nếp sống tu tập chân chính là một việc rất lợi 
lạc, vì sự kiện nầy tạo duyên cho hương linh nghe kinh kệ và gần gũi 
nếp sống đạo đức tu tập mà chuyển hóa, nhờ vậy họ sớm giải thoát 
khỏi kiếp quỷ long đong. 
- Trường hợp đặc 
biệt: 
+ Người bị chết thảm 
như: bị ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào trạng 
thái đau đớn, sợ hãi khủng khiếp dày đặc như bị “đông cứng”. Có thể hiểu 
là trong kinh nghiệm nầy... cái tâm sợ hãi bao trùm, che lấp a lại da 
thức không cho các hạt giống khác sanh trưởng thành thử người chết bị 
u mê ám chướng chẳng biết mình là ai, chẳng biết đường về nhà? rồi 
cứ kẹt cứng ở nơi đó mãi mãi. Trường hợp nầy tâm thành của thân nhân 
không đến với họ được. Vì vậy người nhà nên thỉnh tăng ni đến tận 
địa điểm tử nạn, tổ chức lễ cầu siêu, khai thị cứu gỡ họ ra 
khỏi tâm u mê, rồi rước hương linh về ký tự tại chùa. Nhờ thế, hương 
linh đỡ tối tăm, chủng tử lành phục hồi, mới mong sớm thoát khỏi 
 nghiệp quỷ.
+ Tổ chức trai đàn thủy 
lục: là tập tục nghi lễ Phật giáo có qui mô lớn cho cả nước hay một 
địa phương nhằm chẩn tế cô hồn, vừa khai thị để giải oan cứu độ 
người chết. Trai đàn thủy lục thường được tổ chức để cầu siêu độ cho 
chiến sĩ trận vong và nạn nhân chiến cuộc, nhưng bình thường, người 
thiện tâm cũng có thể cung thỉnh tăng ni lập đàn tràng, trước là siêu 
độ thân nhân, sau là từ bi hướng về các oan hồn uổng từ phổ độ họ. 
+ Ngoài ra, tùy nguyên 
nhân của mỗi trường hợp, thân nhân nên tìm riêng cách tháo gỡ cái chấp 
thủ khiến họ bị kẹt cứng khổ sở và không đầu thai được. Thí dụ như 
hoàn cảnh cậu Jo con trai của bác sĩ Otto Kunz tại Annecy, Thụy sĩ 
chết đuối khổ sở tại hồ nước không siêu thoát. Qua một đồng tử trung 
gian, bác sĩ Kunz cầu hồn con, lần đầu người chết ú ớ không nói được 
rồi bỏ đi; tiếp tục sau khi cầu nguyện chân thành thì lần nầy cô đồng 
giẫy giụa như kẻ đang chết đuối rồi đi. Buổi lên đồng thứ hai, cũng ú 
ớ không nói được, người mẹ bỗng khóc oà lên, thì cô đồng bỗng  thốt 
lên “Khổ quá! Khổ quá!...”, đúng là giọng nói của Jo, bà mẹ xác 
nhận. Sau nhiều buổi cầu hồn không mấy khích lệ, đến khi bác sĩ Kunz 
lên tiếng nhắc nhở: “Ba biết con bị sặc nước chết nhưng hiện nay 
xác thân con không còn nữa. Nay con đâu bị ngạt thở nữa! Hãy can đảm 
lên tiếng đi con!” Sau khi được khai thị rằng cái thân xác đã 
hoại, tình trạng ngạt thở không còn nữa, Jo bắt đầu bập bẹ rồi lần 
lần tự tin thuật chuyện rành rọt. Cũng từ đó, Joe giải thoát khỏi 
cái u mê giẫy chết khủng khiếp dưới đáy hồ. (Lược trích từ “Trở về 
cõi sáng”, chương “Áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần” 
của Nguyên Phong)
 
V. Sơ lược về cõi Quỷ 
thần và quỷ thần biên trụ:
Trong thời hạn 49 ngày, 
nếu không ở vào trường hợp đặc biệt vãng sanh về cõi Phật, thì tuỳ 
theo nghiệp lực dẫn dắt mà thân trung ấm sẽ tái sinh vào một trong 
sáu cõi (cũng gọi là lục đạo hay lục thú). Chúng ta thường tìm thấy 
trong các tài liệu giáo lý căn bản Phật Giáo thì lục thú là Thiên, 
Nhân, A tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc sanh. Theo nhiều vị đạo 
sư thì Ngạ Quỷ thú phải được gọi chính xác hơn là Quỷ Thần thú, vì 
loại chúng sanh nầy rất đa dạng mà Ngạ Quỷ chỉ là một dạng của Quỷ 
Thần thú mà thôi.
A. Vài đặc điểm của Quỷ 
Thần Thú:
1.Ý nghĩa các danh từ 
Quỷ, Thần và Ma: 
- Theo kinh sách Phật 
giáo: 
+ Quỷ Thần: Tách rời 
từng chữ thì "Quỷ" có nghĩa là "úy", là hay khiếp sợ; "Thần" có nghĩa linh 
thông biến hóa. Quỷ Thần chỉ chung cho một cõi bao gồm cả bậc thần 
thông biến hóa đầy uy đức (Thần) lẫn hạng chúng sanh cùng khổ kinh sợ 
(Quỷ).
+ Ma: là những lực xấu 
làm nhiễu loạn kẻ tu hành. Luận Du-già-sư-địa nêu ra bốn loại ma: 
Thiên ma, ma ngũ uẩn, ma phiền não, và ma chết. Thiên ma chỉ chúng sinh ở Tha 
Hóa Tự Tại Thiên tức cõi Trời thứ sáu của Dục giới. Chính Ma Vương La Tuần 
của cõi nầy cùng đám ma nữ giở mọi trò biến hóa mong phá hoại Đức 
Bổn sư Thích Ca khi Ngài sắp thành Phật. Còn ba thứ ma kia không phải 
là một loài chúng sanh mà chỉ là thứ mãnh lực tiêu cực phát xuất từ 
sinh lý và tâm lý của con người, cũng gây nhiễu loạn và phá hoại công đức 
kẻ tu hành. (3)
- Theo tín ngưỡng dân 
gian:
+ Thần: bậc siêu phàm 
khuất mặt, linh thiêng có thể gây phúc họa được người tôn thờ.
+ Ma: người đã chết nói 
chung (nên thây người chết gọi là thây ma) và cũng chỉ riêng cho hình 
bóng người chết hiện hình. 
+ Quỷ: là loại ma hung 
dữ gây tác hại và nguy hiểm cho người sống.
- Tóm lược: Chữ Quỷ 
trong Phật giáo bao gồm cả hai loại  Ma và Quỷ theo dân gian, riêng chữ 
Ma theo Phật giáo có ý nghĩa khác biệt như đã ghi trên. 
 2. 
Chủng loại Quỷ Thần:  
Quỷ thần có vô số chủng 
loại và hiện hữu ở khắp cõi khác, từ cõi thiên cho đến địa ngục, 
súc sanh. Ta chỉ có thể tạm chia thành hai loại là: quỷ có uy đức (hay  
uy phước) và quỷ không có uy đức.
a.
loại uy đức có cung điện, thân tướng trang nghiêm, có nhiều kẻ 
thuộc hạ tùy tùng, được thọ dụng những trân vị cam lồ, hoặc được người thờ 
cúng. 
- Thiện quỷ thần đại uy 
đức như chư vị: Đại Phạm Thiên Vương, Tam thập thiên vương, Tứ thiên 
vương, Diêm Ma vương, Nan đà long vương, Bạt đà long vương... 
- Uy đức bậc trung như 
quỷ Dạ Xoa, quỷ La Sát, quỷ Cưu bàn Trà (Quỷ nầy có thể biến làm cảnh 
giới ngũ trần vui sướng để hưởng thọ), quỷ Địa hành dạ-xoa (địa hành: đi đất) 
luôn luôn được nghe những âm nhạc vui vẻ và được ăn uống (theo kinh Chánh Pháp 
niệm xứ), quỷ Đa tài Đại phúc hưởng phước đức như cõi Trời(theo P.G. Chánh 
Tín, HT Thánh Nghiêm)   
(Ngài Hư Vân cũng lời 
dạy tương tợ với vài hàng vắn tắt như sau: Các quỷ vương như Diêm Vương 
và Thành Hoàng đều hưởng lạc nhiều mà thọ khổ ít hơn những loài quỷ cô hồn vô 
chủ. Khổ nhất là loài ngạ quỷ, là loại chúng sanh trong địa ngục thường thọ 
vô biên khổ cực, chẳng hề được sung sướng)  
Trong loại quỷ thần uy 
đức cũng có thể tùy theo tâm địa mà phân thành:
- thiện quỷ thần (tức 
chánh thần) là bậc chân chánh hộ trì chánh pháp, hộ trì nhân gian như 
các bậc Thiên vương đã ghi trên. 
- ác quỷ thần như Quỷ La 
Sát 
- vừa thiện vừa ác: như 
Quỷ Dạ Xoa.   
b. loại không uy đức 
lâm cảnh vất vả, sống âm u tăm tối, thường đói khát hoặc ăn uống bất 
tịnh:
- Loại ít đói như quỷ hy 
vọng (mong cầu người ta thờ cúng tế mới ấm no), quỷ hy khí (mong cầu đồ vật 
người ta vất bỏ để mà ăn).
- Loại đói nhiều, như quỷ 
châm mao (lông như kim), quỷ xú mao (lông hôi thối), quỷ đại anh (thân đầy lở 
lói).
- Loại đói thường trực 
kinh khủng như các loài ngạ quỷ: quỷ cự khẩu, quỷ châm yết, quỷ xú khẩu 
(cự khẩu: miệng như lửa; châm yết: cổ như kim; xú khẩu: miệng rất hôi thối).
c. loại tạm gọi uy 
đức trung bình:  là loại có uy 
phước chút ít, khó xếp hẳn vào một trong hai loại trên, như: 
- quỷ  Hy Tự, hành 
động được tự do, có thể đi hết các phương dễ dàng cũng như chim bay giữa trời, 
qua lại không ngăn ngại (luật Thuận Chánh Lý, quyển ba)
- quỷ Tự do: những 
kẻ trong lúc bình sanh không làm lành, cũng không làm dữ; thì sau khi chết rồi 
không có quả báo gì xuất hiện, cho nên sẽ làm loài quỷ và được tự do. Loài quỷ 
này thường hay nương náu nơi mồ mả của mình hoặc mồ mả của kẻ khác; dựa 
theo cái dư khí của cốt tủy mà được hiển linh. Cho nên nếu ai có cúng tế, thì 
cũng được hưởng thụ. Đến khi xương tủy đã mục nát, thì mất chỗ nương tựa, liền 
tìm đến chỗ nào xương tủy chưa mục nát và vô chủ để nương tựa (theo Kinh Quán 
Đảnh)
3. Xứ sở của Quỷ 
Thần: 
Quỷ Thần có nhiều chủng 
loại, vì vậy trụ xứ của Quỷ Thần cũng hoàn toàn khác biệt, như chư 
Thiên Vương thỉ dĩ nhiên xứ sở phải là cõi Thiên. Tuy nhiên, riêng đối 
với chư Quỷ thần thiếu uy đức thì xứ sở của quỷ thần có hai nơi gọi 
là chánh trụ và biên trụ: Theo kinh Chánh Pháp Niệm thì:
- Chánh trụ 
là xứ sở riêng của loài quỷ nghiệp nặng, thuộc về thế giới ngạ quỷ, nằm 
trong  thành Diêm La, nơi ở chánh thức của vô số ngạ quỷ do Diêm La Vương thống 
lãnh.
- Biên trụ 
là xứ sở của các quỷ thần nghiệp nhẹ hoặc có phước nghiệp, thuộc về hạng ở 
lẫn lộn trong loài người. Biên trụ là những chỗ như mé biển, triền núi, rừng 
bụi, đình miếu, hang hố, đồng trống, mồ mả, cho đến vườn nhà cùng các nơi thanh 
tịnh lẫn bất tịnh. 
4. Hình thức tái sanh 
vào Quỷ Thần thú:
- loại thai sanh rất hiếm 
như Quỷ La Sát, Quỷ Tử Mẫu...
- loại hóa sanh gần như 
hầu hết  (có thể coi như 99.99%)  
 
B. Vài nhận định về các 
loại Quỷ Thần Biên Trụ tức loại sống lẫn lộn trong loài người:
1. Nguyên do hóa sanh 
của Quỷ Thần Biên Trụ: 
Chư Quỷ thần nầy vốn đã 
có nhiều duyên nghiệp với loài người, nên bằng nguyện lực hay nghiệp 
lực đã hóa sanh về biên trụ sống lẫn lộn với người:
- chư Bồ Tát do nguyện 
lực hóa hiện về cõi Ta Bà để hộ trì Phật Pháp, phổ độ chúng sanh. 
Thí dụ như nhị vị Dạ Thần: Bà San Bà Diễn và Phổ Đức Tịnh Quang mà 
Ngài Thiện Tài đồng tử đã tầm cầu học đạo. (kinh Hoa Nghiêm, phẩm 
Nhập Pháp Giới) 
- những người thương dân 
yêu nước, thậm chí quyến luyến một địa phương, một giòng sông, một 
ngọn núi... cái thâm tình đó đã thúc đẩy họ ở lại thế gian mà phò 
trợ. Đó là những vị thần bản địa, thần hoàng, thần núi, thần 
sông... (Kinh Địa Tạng Bồ Tát bản nguyên có nhắc đến danh sách rất 
dài danh tính các vị thần nầy. Ngài Hư Vân cũng kể có vị thần núi, 
thần cây đã thọ giới quy y với Ngài)
- những người có nghiệp 
thiện ác trung hòa không có cõi nào thu hút mãnh liệt, trong thời gian 
49 ngày của thân trung ấm lập lờ chờ đợi quyết định cõi đầu thai 
bỗng bị tình quyến thuộc, lòng tham luyến mồ mả, mong cầu giỗ 
cúng... mà kẹt lại.
-  trong số người chết 
thảm khốc như: bị ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, có người bị rơi 
vào trạng thái đau đớn, sợ hãi khủng khiếp dày đặc, khiến thần thức bị 
kẹt cứng vào thảm trạng đó không tạo cơ hội cho các chủng tử khác 
đang lưu trữ sâu trong tàng thức hiện hành được, và cứ thế mà họ 
chìm đắm trong trạng thái u mê đó mãi mãi. Có thể hiểu là họ đã 
hóa sanh thành Quỷ thần ngay lúc thảm tử, không trải qua giai đoạn thân 
trung ấm, nên không có giây phút thấy lại quãng thời quá khứ để chiêu 
cảm nghiệp lực nào khác. 
2. Tương quan giữa Phật 
tử và quỷ thần:
 - Phật tử chân chính đã 
quy y Phật thì tuyệt đối không quy y Thiên Thần Quỷ Vật, dù là bậc 
Thiên Thần đầy phước báu. (Lời phát nguyện khi thọ Tam quy)   
- Nếu chưa là Phật tử 
cũng nên ý thức rằng Thiên Thần cũng là chúng sanh trong lục đạo, khi 
hưởng hết phước báu lại tiếp tục quay cuồng trong sáu nẻo luân hồi. 
Vua Trời Phạm Thiên, Tứ Đại Thiên Vương... cũng quy y Phật và trở thành 
những bậc hộ pháp đắc lực, thường gia hộ những Phật tử tu hành chân 
chính. Do đó, chẳng những ta phải từ bỏ tệ trạng sùng bái quỷ thần, 
mà dứt khoát không bao giờ cầu cạnh họ ban cho ân huệ hay quyền lợi 
gì cả. Khi đã nhận được quyền lợi của ai thì phải thiếu nợ, để rồi 
cuối cùng phải trả nợ cả vốn lẫn lời, mà không phải trong một kiếp. 
Đã dây dưa với họ thì khó mà vuột thoát. (H.T. Thiện Tâm có kể đến 
trường hợp một tín nữ cha ông theo phái Ngũ Hành của Quỷ thần, riêng 
cô hết lòng muốn tu theo Phật giáo nhưng cuối cùng cũng bị lôi trở 
lại với họ. Xem NPTY, chương 7)
3. Thái độ nên có của 
người Phật tử đối với Quỷ Thần:
- Kính trọng: Là 
Phật tử ta nên tỏ lòng kính trọng chư Thiện Thần uy đức thường ủng 
hộ thế gian, ngay như hạng Quỷ thần thấp kém đói khổ cũng nên tỏ 
lòng từ bi lân mẫn thương yêu họ. 
- nhưng thận trọng: 
Ta cũng nên thận trọng đối với chư Quỷ thần, nếu tự hào là Phật tử 
mà có thái độ khinh bạc, không may gặp loại Quỷ thần có uy lực nóng 
tánh cố chấp thì có thể bị trừng phạt.
- và không nể sợ: 
Chư cổ đức thường dạy “đức trọng quỷ thần kinh”, người Phật tử đức độ 
luôn luôn được chư Quỷ thần nể trọng. Ta không gây sự với Quỷ thần thì 
Quỷ thần chẳng đụng chạm đến ta.
4. Những điều cần lưu 
ý trong việc cứu độ thân nhân bạc phước lạc vào cõi Quỷ thần:
Vê việc cứu độ tổng 
quát: Xin xem lại tiết mục “Thể thức cứu độ thân nhân đã đầu thai 
IV.B. 2”. Ngoài ra, xin bổ túc vài nhận xét sau đây: 
- Quỷ thần từ cõi người 
hóa sanh nên vẫn giữ nguyên ký ức kiếp người cũ, tình cảm hay thù 
hận vẫn còn ấp ủ trong tâm(4), do đó họ rất mong mỏi được thân nhân 
nhớ tưởng và cứu giúp họ. Nói chung là phần lớn quen cách sống của 
kiếp người, luôn luôn tưởng mình còn thân xác thịt nên thường bị ám 
ảnh bởi cái khổ đói lạnh. Do đó, nếu được khai thị nhắc nhở cho họ 
ý thức rằng đói lạnh là do tâm tưởng không thực có thì nỗi khổ bức 
bách nầy sẽ biến mất, họ có thể nhận được phần nào an lạc. (5)
- Quỷ thần hạng kém uy 
phước hóa sanh về biên địa, nói chung, dù sao cũng xếp vào hạng 
nghiệp lưng chừng hay nghiệp nhẹ. Do đó, ngay như những cô hồn đói khổ 
vất vưởng nếu được khai thị, được quy y, thậm chí chỉ cần nghe tụng 
nửa câu kệ trong kinh Hoa Nghiêm(5) thì vẫn có thể phát tâm lành tu tập 
mà chuyển nghiệp. 
- Chư quỷ thần có uy 
phước trung bình hộ trì dân gian như thần bản địa, thần núi, thần 
sông... khi nghe Phật Pháp rất hoan hỷ nên thường hay phù hộ kẻ tu hành 
chân chính, có vị còn hiện hình xin thọ giới quy y hoặc thọ pháp với 
chư đạo đức tăng. Trong “Cảnh đức truyền đăng lục” có kể chuyện thiền 
sư Nguyên Khuê truyền giới cho thần núi Ngũ Nhạc, trong “Bá Trượng ngữ 
lục” cũng ghi lại câu chuyện của một ông lão, vốn là tỳ kheo thời 
Phật quá khứ, vì dạy pháp sai lầm nên bị đọa thành chồn tinh (súc 
thần) đã 500 kiếp, nhờ được thiền sư Bá Trượng thuyết pháp giải đáp 
khối nghi mà đại ngộ và được giải thoát kiếp chồn(6)
 
Phần kết: 
Thói thường tang lễ là 
một cơ hội hiếm có cho một số người có dịp phô trương lòng hiếu 
thảo, khoe giàu sang qua đám tang vĩ đại, kèn trống tưng bừng đưa tiển 
người chết, chủ khách huyên náo tiệc tùng thù tạc, cùng xây dựng khu 
lăng mộ hoành tráng... Theo quan điểm Phật giáo thì những hành vi phô 
trương nầy chẳng những khiến hương linh rối loạn bứt rứt, mà còn tạo 
thêm nghiệp nặng cho họ nữa.  
Thật ra, trong lúc tâm 
thần bất an hoảng hốt, người chết chỉ biết quay về với thân quyến để 
mong được tiếp cứu. Lúc đó, nếu họ thấy thân quyến chân thành thương 
tưởng thì hương linh đã cảm nhận được niềm an ủi sâu xa rồi. Nếu thân 
quyến lại còn biết thành tâm tổ chức theo nghi lễ Phật giáo: khai 
thị, tụng niệm, bố thí... hồi hướng cho người chết thì hương linh lại 
càng cảm thấy an lạc, sẵn sàng đón nhận ánh sáng đạo mầu để chuyển 
hóa mà siêu thoát. Tóm lại, một nghi lễ tưởng niệm giản dị, nhưng 
với lòng chân thành tu tập có thể gặt hái những thành quả khó ước 
lường: Người còn ở dạng thân trung ấm có điều kiện chuyển nghiệp để 
vãng sanh; người đã sinh về cõi lành gia tăng phước báu, người sanh về 
cõi dữ cũng cải thiện được hoàn cảnh, giảm bớt nỗi khổ đau.
 
Tháng 02. 2011
 
 
 Ghi 
chú:
(1) Theo H.T. Thánh Nghiêm 
thì Súc sanh cũng có súc thần như các loài tinh mị...
(2) Đức Huỳnh Giáo chủ 
dạy: “Giỗ lớn tội lớn, giỗ nhỏ tội nhỏ. Lại hỏi: “Không giỗ thì 
sao?”. Đáp: “Không giỗ thì xuống địa ngục”. (Giỗ mà sát sanh nhiều 
tạo nghiệp nặng tội lớn, sát sanh ít thì nghiệp nhẹ tội nhẹ. Còn 
không giỗ, không nhớ tưởng gì đến cha mẹ thì bất hiếu đáng đọa địa 
ngục. Vậy giỗ đơn giản, không sát sanh, tưởng nhớ và tu tập làm phước 
hồi hướng cho người quá cố mới là thật sự hiếu thảo)
(3) Có thuyết phân ma 
thành ba loại: Thiên ma, Nội ma (ma phiền não, tử ma, bệnh ma) và Ngoại 
ma (là các loại ác quỷ thần yêu mị xuất hiện phá khuấy người tu: bố 
ma, ái ma và não ma)
(4) Quỷ thần hóa sanh 
tức khắc, không như loại thai sanh phải qua một thời gian dài phát 
triển thân vật chất, nên ký ức về kiếp sống cũ vẫn còn nguyên vẹn. 
(Trong kinh điển Nam Tông, như kinhTiểu BộII nhắc lại sự tích các nữ 
quỷ Mattà, truyện Nandà, Dhanapala... các quỷ nầy vẫn nhớ và tự kể 
rõ những hành động gian ác của họ ở kiếp người)
(5) Đó là lý do chư Tổ 
khi soạn lễ cầu siêu độ và thí thức cô hồn luôn luôn bắt đầu bằng 
lời khai thị đặc biệt “... Cô hồn nhược yếu sinh Tịnh độ. Thính tụng 
Hoa Nghiêm bán tự kinh: ‘Nhược nhơn dục liễu tri. Tam thế nhất thế 
Phật. Ưng quán pháp giới tánh. Nhất thế duy tâm tạo” (Cô hồn nếu muốn 
sanh Tịnh độ. Hãy nghe tụng kệ kinh Hoa Nghiêm rằng: “Ai muốn hiểu rõ 
ba đời chư Phật. Hãy quán chiếu tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo), 
và kết thúc bằng “Bát Nhã Tâm Kinh”
(6) Câu chuyện thường 
được gọi là “Bá Trượng dã hồ” trích từ Bá Trượng Ngữ Lục của Hoài Hải 
Thiền Sư: Một hôm, thiền sư Bá Trượng thuyết pháp xong, đại chúng đều trở về, 
chỉ có một ông già còn ở lại. 
Sư hỏi : “Ông là ai ?” Ông 
già đáp : “Con không phải người, mà vốn là chồn tinh. Vào thời Phật quá khứ, 
con tu hành ở núi Bá Trượng này, nhân có vị tăng hỏi con : ‘Người đại tu hành có 
rơi vào nhân quả không ?’. Con đáp : ‘Không!’. Do lời đáp này mà con đọa làm 
thân chồn năm trăm đời. Nay xin thiền sư dạy cho một chuyển ngữ để con được 
thoát khỏi thân chồn!”
Thiền sư Bá Trượng nghe 
xong, từ bi nói: “Mời ông cứ hỏi”. Ông già chấp tay thưa: “Người đại tu hành có 
rơi vào nhân quả không?”
Thiền sư Bá Trượng đáp : 
“Không lầm nhân quả”. (Bất muội nhân quả)
Ngay lời nói này, ông già 
đại ngộ, được giải thoát kiếp chồn, xin làm lễ cáo từ. 
 
*  *  * 
Sách 
và tài liệu tham khảo:
	Kinh Tiểu Bộ Tập II, G.S. Trần phương Lan
	Phật học Tinh Yếu & Niệm Phật Thập Yếu, Hòa 
	thượng T. Thiện Tâm
	Phương Pháp Liễu Sanh Thoát Tử, bản dịch của T. 
	Quang Phú
	Hư Vân niên phổ – Thơm Ngát Hương Lan, Hạnh Đoan 
	dịch 
	Phật Giáo Chính Tín & Phật học Quần Nghi Hoà Thượng 
	Thánh Nghiêm
	Đức Phật và Phật Pháp, H.T. Narada, Phạm kim 
	Khánh dịch 
	Chết &Tái sinh, T. Nguyên Tạng 
	Trở về cõi sáng, Nguyên Phong
	Tôi nay trọ ở Trần gian. Trăm năm về chốn xa xăm 
	cuối trời, cư sĩ Tâm Diệu 
	Cõi âm và khả năng ngoại cảm, Nguyễn đức Cần
	Vấn đề Qủy Thần, T. Phước Thái
 
 
 
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-98_4-10208_5-50_6-2_17-52_14-1_15-1/