Mùa xuân thường trụ trong tà áo xanh – Lê Nghị
 
 nhưng hình ảnh thiếu nữ thì không dễ hiểu lắm, vì vậy bài viết 
này cố gắng thử tìm một lý giải cho hình ảnh thiếu nữ cho tranh ảnh ngày
 xuân và Tết.
Sau mùa thu rụng hết lá là đến cả mùa đông tuyết phủ cho đến  mùa 
xuân tuyết  tan và cây cối mới bắt đầu sống dậy đâm nụ ra hoa. Cho nên 
hình ảnh thời gian đến  với con người là ngày Tết là ngày đầu  của mùa 
xuân nên trăm hoa đua nở là “sự thật  tự nhiên” một chân lý không thể 
khác. Nhưng cái “chân lý không thể khác” này thật  ra chỉ là chân lý tự 
nhiên của thời gian khi chúng  ta còn sống gắn chặt với thiên nhiên và 
không gian của tốc độ ngựa chạy. Với tri thức nhỏ bé của con người, 
những  “chân  lý tự nhiên” này chỉ bắt đầu trở nên một thách thức khi 
chúng ta tiến đến không gian rộng lớn hơn với kiến thức về thời gian chỉ
 là một phóng  ảnh của sự vận hành của trái đất quanh mặt trời trong 
thái dương hệ, và không gian được tính bằng  vận tốc âm thanh  thay vì 
sức ngựa chạy. Chưa nói đến vấn đề thúc bách của khoa học ngày nay khi 
lý thuyết về Quantum Entangtlement của vật lý lượng tử đang mở 
ra một chân trời mới về nghiên cứu chuyển động, khi người ta hiểu được 
thời gian và không gian chỉ còn là các khái niệm tương đối và giới hạn ở
 vận tốc ánh sáng không còn là cái tuyệt đối. Chỉ cần nói cụ thể là, với
 kỹ thuật  khoa học hiện nay, người ta đã có khả năng làm cây trổ hoa 
bất cứ trong thời gian nào, và ngay khi trời còn đang đổ tuyết ngoài kia
 thì chỉ cần lên máy bay uống chưa xong một tuần trà, chúng ta đã có thể
 xuống máy bay “mặc áo mỏng” đi dạo mà ngâm “xuân du phương  thảo địa”. 
Thành ra cái lẽ “chân lý tự nhiên” mùa xuân hoa nở trước mặt  chúng  ta không phải là đương nhiên, là chân lý vĩnh cửu như ta tưởng.
Nhưng như vậy là chúng  ta cũng phủ  nhận  cả cái không khí mùa xuân hoa bướm xôn xao có thật trước
 mắt kia chăng? Luận sư Long Thọ đã chỉ dạy cho chúng ta từ gần hai ngàn
 năm trước: “Chúng ta phải chấp nhận cả hai giá trị của chân lý quy ước 
của thế gian và chân lý trên bình diện tối cao. Người không biện biệt 
được sự khác biệt của hai chân lý này cũng không thể tiếp cận được chân 
lý thâm sâu của sự thật”1. Cái nhìn thấu thị vượt thời gian 
của Long Thọ từ gần hai ngàn năm trước thật đáng  sợ, khi chúng  ta biết
 rằng ở Tây phương  cả mấy trăm năm sau đó người ta vẫn còn tin tưởng 
mặt đất phẳng  (trên trời cao là của thượng  đế và dưới đất sâu là địa 
ngục). Cho nên  chúng  ta thấy các bậc cao sĩ “thượng thừa thiền” của 
chúng  ta thì đều như Long Thọ, thấy được cái không cùng, thường  trụ 
của không thời nhưng cũng không phủ nhận thế giới tự nhiên của không 
gian và thời gian giữa tương quan của con người và thiên nhiên, của chủ 
thể và thế giới tình cảm sắc màu sum la vạn tượng của con người đang 
sống trong thế giới tương đối của họ. Nhưng tự tại trước mọi biển dâu vô
 thường luôn luôn là những thách thức mà ta thường gọi là chứng ngộ, thì
 không phải là sự gặp gỡ vô tình. Trúc Lâm đầu đà phải đến khi về già 
mới tìm thấy tự tại an trụ trong vô thường xuân hạ thu đông “nay đà khám
 phá chân xuân diện, dựa tay trên thiền bảng ngồi trên nệm cỏ mà ngắm 
hoa xuân rơi rụng”:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không Nhất xuân tâm tại bách
 hoa trung. Như kim khám phá đông hoàng diện,. Thiền bản bồ đoàn khán 
trụy hồng.
Tuổi trẻ chưa từng hiểu sắc không, Xuân sang lòng tại vạn hoa hương. 
Nay đà khám phá chân xuân diện, Nệm cỏ ngồi yên ngắm trụy hồng.
Kinh nghiệm tự tại kết quả của tu chứng, không dễ gặp gỡ, cho nên 
chúng  tôi vẫn còn nhớ câu thơ của Lê Nghị, người bạn thi sĩ áo nâu vô 
danh với thiên hạ nhưng  rất được thân  hữu thi nhân  như Phạm Thiên 
Thư, Bùi Giáng, Trụ Vũ trọng thị, trong một bài thơ ngày xưa “Mùa thu 
thường  trụ trên tà áo xanh.” Với cái nhìn “thấu thị trong sát-na” của 
thi nhân, nhà thơ chợt thấy thường  trụ trên lẽ biển dâu vô thường. Vô 
thường  ở đây là tà áo xanh, là hình ảnh của một thiếu nữ nào đó chứ 
không phải là thảm cỏ xanh của đất trời vào xuân.
Hình ảnh thiếu nữ ở đây là một thực tại. Dường như thực tại đó cũng phảng  phất trong hai câu đầu bài thơ của Trúc Lâm đầu đà.
Và đến đây dường như chúng ta đã thấy cái cầu nối giữa đổi thay vô 
thường  của mùa xuân của ngàn hoa với lẽ miên viễn của không gian thường
 trụ, trong hình ảnh của người thiếu nữ.
Cũng nên hiểu, trong tất cả các nền văn minh trên trái đất này, từ 
các hình vẽ nguệch  ngoạc  thời hang động hay các đồ đất ban sơ chúng ta
 còn giữ được cho đến các tranh  tượng  siêu hình lập thể hiện đại, hình
 ảnh người đàn bà, đặc biệt là hình ảnh người đàn bà có bầu, luôn luôn 
là hình ảnh mang ý nghĩa sự sống và thanh  bình như hài nhi yên ổn trong
 bụng mẹ. Vì thế sự sống không chỉ là giao điểm của quá khứ không còn và
 tương lai chưa đến, mà còn là sự sống không cần điểm đứng (vô sở trụ). 
Cho đến khi nhu cầu nghệ thuật biểu trưng cao hơn, người đàn bà được 
cách tân thành người thiếu nữ trẻ hơn đẹp hơn.
Vì vậy hình ảnh người thiếu nữ không chỉ có trong hình tượng của mùa 
xuân, mà rõ ràng hơn là biểu tượng của sự sống, của một nỗi bình yên, 
một kết nối của thế giới chủ quan hữu hạn đổi thay và thế giới khách 
quan nơi vắng bóng mọi khái niệm không gian và thời gian. Điển hình gần 
hơn và rõ hơn là trong thi ca, hình ảnh người thiếu nữ luôn luôn mang ý 
nghĩa của hy vọng, của sự sống trước mọi tàn tạ đổi thay của chiến tranh
 của lịch sử. Ở đây tôi chợt nhớ hình ảnh thiếu nữ mơ hồ trong bài thơ 
của Hàn Mặc Tử, một bài thơ hay nhất về Huế. Bài thơ bay bổng đến thiên 
thu vì hình ảnh người thiếu nữ không thực có trong thơ.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên, Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.2
Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay… Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà.
Một bài thơ khác nói nhiều hơn về hình ảnh người thiếu  nữ. “Nhiều” 
nhưng  cũng “sương khói mờ nhân ảnh” vì người làm thơ là một khách lạ có
 đâu quen biết gì ai, kể cả một mối tình nào đó: Hình ảnh thiếu nữ trong
 thơ chỉ là một nỗi bình yên một chốn ngơi nghỉ đi về. Nhưng chính hình 
ảnh phiêu hốt của người thiếu nữ như một lẽ tồn tại trong không gian mơ 
hồ của nỗi tàn tạ biển dâu của một thành phố kỳ lạ trong ngày tháng 
chiến tranh thủa ấy, đã làm nên cái hồn của bài thơ. Bài thơ có tựa là 
“Còn một chút gì để nhớ” của Vũ Hữu Định do Phạm Duy phổ nhạc thật đơn 
giản đến dễ dãi vì ông phù thủy âm nhạc này thấy ngay hồn nhạc đã có sẵn
 trong thơ. Bài “Phố núi cao” nổi tiếng đến độ có người thuộc từ điệu 
của bài thơ hơn là biết đến cái thành phố núi mù sương ấy. Và sự thật 
khi bản nhạc trở nên danh tiếng đa số vẫn không biết đến tên tác giả bài
 thơ. Mà tác giả cũng là một trường hợp đặc biệt. Đúng như lời tác giả, 
anh chỉ là khách lạ vô danh, và cũng như lời của các nhà thơ Kim Tuấn Vũ
 Hoàng “chuyên trị Pleiku” tự than “Hắn, một tên khách lạ, thế mà chỉ có
 vài câu thơ đã nắm trọn trời đất của Pleiku.” Các ông bạn của tôi có lẽ
 đã mơ hồ thấy được hình ảnh người thiếu nữ chính là linh hồn của bài 
thơ như Phạm Duy đã thấy, để phù phép làm bài thơ thành một sự sống 
trong cuộc chiến buồn  thảm,  một  thành  tựu dường như có thực trong một thế giới mơ hồ sương khói hắt hiu.
phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật buồn anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm mai xa lắc bên đồi biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên. 
Chú thích:
1. “Vì chúng sinh, chư Phật đã dùng hai chân lý để thuyết pháp. Một 
là chân lý thông thường (tục đế), hai là chân lý tuyệt đối (đệ nhất 
nghĩa đế). Người không nhận ra chỗ khác biệt của hai sự thực này, thì 
không thể hiểu được ý nghĩa chân thực của Phật pháp sâu xa. Nếu không 
nương theo tục đế thì không chứng được ý nghĩa của Chân đế. Không chứng 
được nghĩa của Chân đế, thì không chứng đắc giải thoát” Trung Quán.
2. Hơn 70 năm mà vẫn còn người hiểu lầm “mặt chữ điền” là mặt vuông. 
Thật ra “mặt chữ điền” là khuôn “mặt trái xoan” khuôn mặt đẹp nhất. 
Trong hội họa cổ có tám khuôn mặt theo chữ viết (Vương Dịch bát cách): 
chữ điền 田 (mặt trái xoan bầu dục), chữ quốc 囻 (mặt hình vuông), chữ do 由
 (mặt nhọn, trên nhỏ dưới to), chữ mục 目 (mặt dài), chữ dụng  用 (mặt 
trên vuông, dưới to), chữ phong  風 (mặt có quai hàm bạnh ra), chữ thân 申
 (mặt trên gầy dưới nhọn) và chữ giáp 甲 (mặt trên vuông dưới gầy). Tôi 
đã có dịp nói với GS Bửu Ý về tám chữ này trong dịp gặp anh ở Huế nhân 
hội thảo về Léopold Cadière.
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 170 &171 | VŨ  THẾ  NGỌC