VI. SA DI NI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC
(Bản Yếu Lược Về Giới Luật Và Uy Nghi Của
 Sa Di Ni)
Hoa Sơn, Long Xương Tự, 
Tư Luật Học Sa Môn Độc Thể Tập Tập
            (Núi Bảo Hoa, Chùa Long Xương, Sa Môn Chủ Về Luật Học, Tên 
Độc Thể, Biên Tập)
      
(1) Phạn ngữ sa di ni, thử phiên tức từ
 nữ, vị tức ác hành từ, tức thế nhiễm nhi từ tế chúng sanh dã. Diệc vân 
cần sách nữ, diệc vân cầu tịch nữ. Luật nghi giả, thập giới luật chư uy 
nghi dã.
Phạn tự "sa di ni", xứ này dịch nghĩa tức từ nữ, là đình chỉ việc ác,
 thi hành từ bi: đình chỉ những sự ô nhiễm của thế tục mà từ bi tế độ 
chúng sanh. Cũng dịch cần sách nữ, cũng dịch cầu tịch nữ. Còn "luật 
nghi" là mười giới luật và các uy nghi.
  
THƯƠNG THIÊN: GIỚI LUẬT MÔN
        (Chương Trước: Phần Giới Luật)
(2) Sa di ni giới văn trung, Phật ngôn, thập lục dĩ thượng ưng tác sa
 di ni. Tố vô hà uế, trinh lương hoàn cụ, vô sở hủy nhục, phụ mẫu kiến 
thính, nãi đắc vi đạo. Tố bất trinh lương, bất ưng vi đạo. Thạch nhân 
nặc bịnh, bất ưng vi đạo. Dĩ nữ nhân tứ thái nan bảo, duyệt tại tu du 
phục sanh ác ý, thí như thủy bào nhất khởi nhất diệt, vô hữu thường 
định, tu thiện quán sát, nãi khả độ ni.
Trong Sa di ni giới văn, Phật dạy, 16 tuổi sắp lên mới nên làm sa di 
ni. Vốn không tỳ vết dơ bẩn, trinh tiết và lương thiện thì nguyên vẹn 
đầy đủ, không bị mỉa mai sỉ nhục, và cha mẹ thuận cho, mới được xuất 
gia. Vốn không trinh tiết lương thiện, không nên xuất gia. Gái đá, hay 
bị nhiễm trùng không thể chữa lành, không nên xuất gia. Vì phụ nữ thì 
cái thói bốc đồng làm cho tâm tính khó giữ duy nhất, thích thú chốc lát,
 ý xấu lại nổi lên, y như bong bóng nước cái nổi cái mất, không có nhất 
định, nên phải khéo quan sát mới có thể độ cho ni.
(3) Hựu Phật quan kiến nhân gian, thượng chí nhị thập bát thiên, hạ 
chí thập bát địa ngục, giai khổ vô lạc, cố kiết giới dĩ huấn hậu sanh. 
Do thị tín nữ thế phát xuất gia, tiên thọ thập chi cấm giới, danh pháp 
đồng sa di ni; thứ dữ thị tuế nghiệm học lục pháp, vi thức xoa ma na. Sĩ
 tuế mãn, học tịnh, kham nhập Á tăng số giả, tại nhị bộ tăng trung khất 
thọ tỷ kheo ni giới.
Lại nữa, Phật xét thấy loài người, và trên suốt 28 tầng trời, dưới 
đến 18 địa ngục, toàn là khổ sở, không có yên vui, nên qui định giới 
luật để huấn thị hậu sinh. Do đó, tín nữ thế phát xuất gia thì trước thọ
 10 chi cấm giới, gọi là pháp đồng sa di ni ; kế đó, cho 2 năm để xét 
nghiệm và học tập 6 pháp, gọi là thức xoa ma na. Chờ số tuổi đầy đủ, sự 
học trong sáng, có thể đứng vào hàng ngũ Á tăng, thì ở trong 2 bộ đại 
tăng mà xin thọ tỷ kheo ni giới.
(4) Tư thành chánh chế. Tý lai ni luật thất tông, thời phong hạ mại, 
nhi sa di ni bổn sở thọ giới vị am. Kiêu mạn giả đa khinh nhị bộ đại 
tăng, ngu muội giả toàn thất chư môn tế hạnh, dục quang đạo hóa dĩ nhiếp
 ni đồ, nan khả ký dã. Nhân thể thập giới lược minh chế chỉ, tỷ mông học
 tri sở hướng phương.
Trên đây thật là sự qui định chính thức của Phật. Gần đây, giới luật 
ni bộ lạc mất tôn chỉ, cái thói thời đại đi xuống quá xa, đến nỗi gọi là
 sa di ni mà đối với giới luật của mình lãnh thọ vẫn chưa am tường. Rồi 
kẻ kiêu mạn thì phần nhiều khinh thường 2 bộ đại tăngngười ngu tối thì 
hoàn toàn đánh mất các môn tế hạnh, nên muốn làm rực rỡ nền pháp hóa để 
tiếp độ ni đồ, thì cũng thật là điều khó thểmong mỏi. Nhân đó, tôi chọn 
lấy 10 giới mà tóm tắt thuyết minh những sự chế chỉ, để làm cho người sơ
 học biết phương trời mà họ phải hướng tới.
(5) Hảo tâm xuất gia giả, thiết ý tuân hành, thận vật vi phạm. Nhiên 
hậu cận vi thức xoa ma na, tỷ kheo ni giới chi giai thê, viễn vi bồ tát 
giới chi căn bản, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, thứ cơ thành 
tựu thánh đạo, bất phụ sơ niệm xuất gia chi chí hỷ. Nhược nhạo quảng lãm
 giả, tự đương tường duyệt Luật tạng toàn điển. Dĩ hạ thập giới điều 
chương, y Luật tạng Tùy tự hàm bản văn lục xuất, tinh vô tăng giảm.
Những người xuất gia với tâm chí tốt, hãy thiết ý tuân hành, thận 
trọng đừng để vi phạm. Như vậy mới gần thì làm thềm làm thang cho thức 
xoa ma na và tỷ kheo ni giới, xa thì làm rễ làm gốc cho bồ tát giới. Rồi
 nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, ngõ hầu thành tựu thánh đạo, 
không phụ chí hướng lúc mới xuấtgia. Nếu ai thích xem cho rộng thì nên 
tự cứu xét tinh tường toàn bộ [các sách nói về Sa di ni] trong Luật 
tạng. Điều chương 10 giới dưới đây là y theo bản văn trong hộp chữ Tùy 
của Luật tạng mà sao chép ra, không thêm bớt gì cả.
  
Đệ Nhất: Sát Giới 
        (Thứ Nhất: Giới Sát Sanh) 
(6) Sa di ni sơ giới bất đắc sát sanh, từ mẫn quần sanh như phụ mẫu 
niệm tử, da ai nhuyễn động do như xích tử. Hà vị bất sát? Hộ thân khẩu 
ý. Thân bất sát nhân vật, kỳ hành suyễn tức chi loại, nhi bất thủ vi, 
diệc bất giáo nhân, kiến sát bất thực, văn sát bất thực, nghi sát bất 
thực, vị ngã sát bất thực. Khẩu bất thuyết ngôn đương sát, đương hại, 
báo oán; diệc bất đắc ngôn tử khoái, sát khoái, mỗ phì, mỗ sấu, mỗ nhục 
đa hảo, mỗ nhục thiểu dã. Ý diệc bất niệm, đương hữu sở tặc sát ư mỗ 
khoái hồ, mỗ súc phì, mỗ sấu; ai chư chúng sanh như kỷ cốt tủy, như phụ 
như mẫu, như tử như thân, đẳng vô sai đặc. Phổ đẳng nhất tâm, thường chí
 đại thừa, thị vi sa di ni thỉ học giới dã.
Giới của sa di ni là không được sát sanh, mà từ mẫn chúng sanh như 
cha mẹ thương con, thương đến cả cái loài nhuyễn động, coi chúng y như 
con đỏ. Không sát sanh là thế nào? Là giữ thân miệng ý. Thân thì không 
giết người, vật, cho đến loại bò ngoằn ngoèo, thở bức tức, bằng cách 
không tự tay giết, không bảo người giết, thấy giết không ăn, nghe giết 
không ăn, nghi giết không ăn, biết giết vì mình lại càng không ăn. Miệng
 thì không nói phải giết, phải hại, trả thù, cũng không được nói chết 
khoái, giết khoái, con này mập, con kia gầy, thịt này nhiều, thịt kia 
ít. Ý cũng không nghĩ, phải chi có giặc giết nó thì khoái biết mấy; con 
này mập, con kia gầy; thương mọi chúng sanh như xương tủy của mình, như 
cha mẹ, như con cái, như bản thân, không khác chi cả. Nhất tâm
        thương xót chúng sanh một cách phổ cập, bình đẳng, và thường đặt
 chí nguyện vào đại thừa, đó là giới phải học tập đầu tiên của sa di ni.
  
Đệ Nhị: Đạo Giới 
        (Thứ Hai: Giới Trộm Cướp) 
(7) Sa di ni giới bất đắc đạo thiết. Nhất tiền dĩ thượng, thảo diệp 
mao mễ, bất đắc thủ dã. Chủ bất thủ dữ bất đắc thủ thủ, khẩu bất ngôn 
thủ, tâm bất niệm thủ. Mục bất ái sắc, nhĩ bất ái thanh, tỷ bất đạo 
hương, thiệt bất thâu vị, thân bất tham y, tâm bất thiết dục. Lục tình 
vô trước, thường lập quyền tuệ, tắc viết bất đạo, thị vi sa di ni giới 
dã.
Giới của sa di ni là không được trộm cướp. Một tiền sắp lên, một lá 
cỏ, một hạt gạo nhỏ, cũng không được lấy. Người chủ đồ vật không tự tay 
đưa cho thì thân không lấy đồ vật ấy bằng tay mình, miệng không nói đến 
sự lấy, ý không nghĩ đến sự lấy. Mắt không ham sắc, tai không mê tiếng, 
mũi không trộm hơi, lưỡi không cắp mùi, thân không ham áo, ý không cuỗm 
dục. Sáu căn không đam mê, bằng cách thường đứng trong tuệ giác phương 
tiện, thì gọi là không trộm cướp, đó là giới của sa di ni.
  
Đệ Tam: Dâm Giới 
        (Thứ Ba: Giới Dâm Dục) 
(8) Sa di ni bất đắc dâm dật. Hà vị bất dâm? Nhất tâm thanh khiết. 
Thân bất dâm dật, khẩu bất thuyết dâm, tâm bất niệm dâm, chấp kỷ tiên 
minh, như hư không phong vô sở ỷ trước. Thân bất hành dâm, mục bất dâm 
thị, nhĩ bất dâm thính, tỷ bất dâm hương, khẩu bất dâm ngôn, tâm bất tồn
 dục. Quán thân tứ đại bổn vô sở hữu, kế địa thủy hỏa phong vô ngã, vô 
nhân, vô thọ, vô mạng, hà sở dâm dật, hà sở trước hồ? Chí không, vô 
tướng nguyện, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được dâm dật. Không dâm dật là thế nào? Là
 nhất tâm thanh khiết. Thân không làm dâm dật, miệng không nói dâm dật, ý
 không nghĩ dâm dật, giữ mình tươi sáng, như gió lướt không gian không 
vướng mắc đâu cả. Mắt không nhìn sắc dâm, tai không nghe tiếng dâm, mũi 
không ngửi hơi dâm, lưỡi không nói lời dâm, thân không làm việc dâm, ý 
không nghĩ điều dâm. Quán thân là tứ đại, vốn không thật có, lại xét 
chính tứ đại ấy, tức đất nước lửa gió, cũng không phải bản ngã, không 
phải sinh thể, không phải tồn tại, không phải sinh mạng, vậy dâm dật cái
 gì, vướng mắc vào đâu? Nên chí nguyện sống bằng ba giải thoát môn là 
không, vô tướng, vô nguyện, đó là giới của sa di ni.
  
Đệ Tứ: Vọng Ngữ Giới 
        (Thứ Tư: Giới Nói Dối) 
(9) Sa di ni giới bất đắc lưỡng thiệt, ác ngôn. Ngôn ngữ an tường. 
Bất kiến mạc ngôn kiến, bất văn mạc ngôn văn, kiến ác bất truyền, văn ác
 bất tuyên. Ác ngôn trực tỵ thường hành tứ đẳng. Vô hữu phi ngôn, ngôn 
triếp thuyết đạo. Bất đắc luận thuyết tục sự, bất giảng vương giả thần 
lại tặc sự. Thường thán kinh pháp, bồ tát chánh giới, chí vu đại thừa, 
bất vi tiểu học. Hành tứ đẳng tâm, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được nói hai lưỡi, nói thô ác. Mà nói năng
 phải từ hòa, minh bạch. Không thấy đừng nói thấy, không nghe đừng nói 
nghe, thấy việc xấu thì không loan truyền, nghe điều bậy cũng không 
tuyên bố. Lời ác thì tránh liền, thường làm 4 vô lượng tâm. Không nói 
bậy, nói là nói về đạo pháp mãi. Không được nói việc thế tục, không bàn 
việc ngụy tặc của vua quan. Thường tán thán kinh pháp và giới pháp chính
 của bồ tát, chí nguyện ở đại thừa chứ không làm theo học lý nhỏ hẹp. 
Với chí nguyện ấy mà làm 4 vô lượng tâm, đó là giới của sa di ni.
  
Đệ Ngũ: Bất Ẫm Tửu Giới 
        (Thứ Năm: Giới Uống Rượu)
(10) Sa di ni giới bất đắc ẩm tửu. Bất đắc thị tửu, bất đắc thường 
tửu. Tửu hữu tam thập lục thất. Thất đạo phá gia, nguy thân táng mạng, 
giai tất do chi. Khiên đông dẫn tây, trì nam trước bắc; bất năng phúng 
kinh, bất kính tam tôn; khinh dị sư hữu, bất hiếu phụ mẫu; tâm bế ý tắc,
 thế thế ngu si; bất trị đại đạo, kỳ tâm vô thức: cố bất ẩm tửu. Dục ly 
ngũ ấm, ngũ dục, ngũ cái, đắc ngũ thần thông, đắc độ ngũ đạo, thị vi sa 
di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được uống rượu. Bằng cách không được ham 
rượu, không được nếm rượu. Rượu có ba mươi sáu lỗi. Lỗi đạo, phá nhà, 
nguy thân, mất mạng, hết thảy đều do rượu. Kéo bên đông, dắt bên tây, 
nắm bên nam, vướng bên bắc. Không thể tụng kinh, không kính Tam bảo; 
khinh dễ thầy bạn, bất hiếu mẹ cha; tâm bít, ý lấp, đời đời ngu si; 
không gặp đạo lớn, tâm không trí thức: nên đừng uống rượu. Muốn thoát 
ngũ ấm, ngũ dục và ngũ cái, được chứng ngũ thông, được vượt ngũ đạo, đó 
là giới của sa di ni.
  
Đệ Lục: Bất Trước Hương Hoa Anh Lạc Giới 
        (Thứ Sáu: Giới Mang Hương, Hoa, Ngọc) 
(11) Sa di ni giới bất đắc trì hương hoa tự huân sức; y bị lý lũ bất 
đắc ngũ sắc; bất đắc dĩ chúng bảo tự anh lạc; bất đắc trước cẩm tú lăng 
la ỷ hộc. Bất đắc ỷ thị. Đương trước thô phục, thanh hắc mộc lan, cập nê
 hoàn lý y, đê đầu nhi hành. Dục trừ lục suy, dĩ giới vi hương, cầu tụng
 thâm pháp dĩ vi chân bảo, tam thập nhị tướng dĩ vi anh lạc, đắc thực 
chúng hảo dĩ vi bị phục. Nguyện lục thần thông vô ngại, lục độ đạo nhân,
 thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được cầm nắm hương và hoa để xông ủ và 
trang sức cho mình; áo chăn giày dép không được có năm màu sắc chính; 
không được lấy các thứ ngọc làm chuỗi ngọc cho mình; không được mặc gấm,
 gấm thêu năm màu, lụa mỏng có hoa, là dệt bằng tơ mỏng, the lụa có bông
 hoa, và sa trun. Không được nhìn phục sức y như the lụa có bông hoa. 
Phải mặc pháp phục bằng vải thô, với màu xanh, đen, mộc lan, và mặc áo 
trong nê hoàn, cúi đầu mà đi. Muốn trừ lục suy thì phải lấy giới pháp 
làm hương thơm, cầu học chánh pháp sâu xa làm ngọc thật, lấy ba mươi hai
 tướng tốt làm chuỗi ngọc, lấy tám mươi tướng phụ đã được bởi gieo trồng
 thiện căn mà làm đồ khoác đồ mặc. Nguyện sáu thần thông tự tại vô ngại,
 sáu ba la mật dẫn dắt mọi người, đó là giới của sa di ni.
  
Đệ Thất Bất Tọa Cao Quảng Đại Sàng Giới 
        (Thứ Bảy: Giới Ngồi Giường Cao, Lớn) 
(12) Sa di ni giới bất đắc tọa kim ngân cao sàng, ỷ tú cẩm bị, chúng 
bảo uyển diên. Bất đắc niệm chi. Bất đắc giáo cầu sách hảo sàng tháp 
tịch, ngũ sắc họa phiến, thượng hảo tiêu phất. Bất đắc trước tý xuyến 
chỉ hoàn. Trực tín, giới, tàm, quí, thí, bác văn, trí tuệ. Nhất tâm tinh
 chuyên, thường cầu tam muội dĩ vi sàng tháp ; tâm bất động diêu, chúng 
tuệ tự nhiên, dĩ vi tọa cụ. Thất giác bất chuyển, chí vu đạo tâm, thị vi
 sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được ngồi giường ghế cao làm bằng vàng 
bạc, dùng chăn gấm có bông hoa và đủ cả năm màu, dùng áo lụa đỏ hồng, và
 tua dải trước hay sau mão mà tất cả đều được đính các thứ ngọc. Không 
được nghĩ đến những thứ ấy. Không được bảo tìm kiếm giường, giường vừa 
mà dài, và chiếu, tất cả đều thuộc loại tốt; tìm kiếm cái quạt vẽ đủ năm
 màu sắc; cái phất bằng lông đuôi chim thượng hảo hạng. Không được mang 
vòng cánh tay và nhẫn ngón tay. Chánh tín, giữ giới, tự hổ, thẹn người, 
đem cho, nghe nhiều, lý giải. Nhất tâm tinh chuyên, thường cầu tam muội 
lấy làm giường phản; tâm không dao động, tuệ giác tự nhiên lấy làm đồ 
ngồi. Bảy giác chi không dao động, chí nguyện ở bồ đề tâm, đó là giới 
của sa di ni.
  
Đệ Bát: Bất Ca Vũ Âm Nhạc Giới 
        (Thứ Tám: Giới Hát Múa Tấu Nhạc) 
(13) Sa di ni giới bất đắc thính ca vũ âm nhạc thanh, phách thủ, cổ 
tiết. Bất đắc tự vi, diệc bất giáo nhân. Thường tự tu thân, thuận hành 
chánh pháp, bất vi tà hạnh. Nhất tâm qui Phật, tụng kinh, hành chánh, dĩ
 vi pháp lạc, bất vi tục lạc. Thính kinh tư duy, thâm nhập đại nghĩa. Tự
 bất hữu tật, bất đắc thừa xa mã tượng. Đương niệm khinh cử bát bất tư 
nghị thần thông chi đạt, dĩ vi xa thừa độ thoát bát nạn, thị vi sa di ni
 giới dã.
Giới của sa di ni là không được nghe cái tiếng hát múa, tấu nhạc, vỗ 
tay, đánh nhịp. Không được tự làm, cũng không bảo người. Thường tự tu 
thân, thuận hành chánh pháp, không theo tà hạnh. Nhất tâm mà qui y Phật,
 tụng kinh, thực hành tám chánh đạo, và lấy đó làm cái vui Phật pháp, 
không theo cái vui thế tục. Cái vui Phật pháp như vậy là do nghe kinh 
pháp thì tư duy, vào sâu nghĩa lý cao lớn. Chính mình không bịnh thì 
không được cỡi xe, ngựa, voi. Nên nghĩ đến sự cử động nhẹ nhàng, tức sự 
thông suốt của tám thứ thần thông bất khả tư nghị, lấy đó làm xe cộ để 
vượt thoát tám nạn, đó là giới của sa di ni.
  
Đệ Cửu: Bất Tróc Trì Kim Bảo Giới 
        (Thứ Chín: Giới Nắm Giữ Vàng Ngọc) 
(14) Sa di ni giới bất đắc tích tụ trân bảo, bất đắc thủ thủ, bất đắc
 giáo nhân. Thường tự chuyên tinh dĩ đạo vi bảo, dĩ kinh vi thượng, dĩ 
nghĩa vi diệu, giải không vô tướng vô nguyện vi bổn, chí ư tam thoát, 
bất cầu tham dục. Dục ly cửu não, trú đạo thậm cửu, vô cùng vô cực, vô 
hữu biên tế, diệc vô sở trú, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là không được chứa dồn trân bảo, bằng cách không 
được tự tay mình lấy, không được bảo người lấy. Thường tự tinh chuyên, 
lấy pháp làm ngọc quí, lấy kinh làm cao tột, lấy nghĩa làm nhiệm mầu, 
lấy sự lý giải không vô tướng vô nguyện làm căn bản, đạt đến ba cửa giải
 thoát ấy chứ không thích tham dục. Muốn rời xa chín thứ bức não thì trú
 ở trong Phật pháp cho lâu, không cùng không tột, không có giới hạn, 
cũng không đứng lại, đó là giới của sa di ni.
  
Đệ Thập: Bất Phi Thời Thực Giới 
        (Thứ Mười: Giới Ăn Lúc Phi Thời) 
(15) Sa di ni giới thực bất thất thời. Thường dĩ thời thực, bất đắc 
thất độ. Quá nhật trung hậu, bất đắc phục thực. Tuy hữu cam mỹ vô cực 
chi vị, chung bất phục thực, diệc bất giáo nhân phạm, tâm diệc bất niệm.
 Giả sử vô thượng tự nhiên thực lai, diệc bất đắc thực dã. Nhược trưởng 
giả, quốc vương, quá nhật trung hậu, thí diệc bất thực. Chung tử bất 
phạm. Thường tư thiền định; nhất thế ẩm thực, tuy hữu sở thực, tài tự 
chi mạng. Dục linh nhất thế giải thâm viễn nguyện, đắc thập chủng lực dĩ
 vi ẩm thực, thị vi sa di ni giới dã.
Giới của sa di ni là ăn không trái giờ. Thường ăn đúng giờ, không 
được trái chừng đỗi. Sau lúc giữa ngày, không được ăn nữa. Dẫu có cái vị
 ngọt ngon vô cùng cũng quyết định không ăn lại, không bảo người ăn, tâm
 cũng không nghĩ đến. Giả sử có thức ăn tự nhiên và tột bực, cũng không 
được ăn. Trưởng giả hay quốc vương, sau lúc giữa ngày, cúng cho cũng 
không ăn. Trọn đời đến chết, không vi phạm giới này. Thường tư duy thiền
 định; còn mọi thức uống ăn, dầu dùng đến cũng chỉ đủ để giữ mạng sống 
mà thôi. Là muốn làm cho mọi người thấu hiểu chí nguyện sâu xa, thực 
hiện mười lực để làm thức uống ăn, đó là giới của sa di ni.
  
HẠ THIÊN: UY NGHI MÔN
        (Chương Sau: Phần Uy Nghi)
(16) Phật chế, ni chúng luật nghiêm đại tăng, do kỳ chánh pháp hệ 
tăng giảm cố. Tường khảo thánh điển, kỳ chứ tự minh. Nhược sa di ni tự 
bất tri ưng sở thi hành, bất hứa cận viên, dĩ đại tỷ kheo ni sự cánh nan
 tác cố. Tu linh thục học tri dĩ, nãi hứa thọ cụ. Như bất tri, nhi tức 
vị thọ cụ giới giả, tắc vị Phật pháp dị hành, Á tăng dị tác. Thị cố sa 
di ni ưng tiên sùng huấn.
Phật qui định, ni chúng thì giới luật càng phải nghiêm như đại tăng, 
lý do là vì chánh pháp của Phật liên hệ đến họ mà tăng giảm. Xét rõ 
thánh điển, sẽ thấy sự qui định ấy tự thuyết minh như vậy. Đến như sa di
 ni mà tự họ không biết việc họ phải làm, thì không cho lãnh thọ giới 
pháp cận viên, vì việc đại tỷ kheo ni lại càng khó làm. Phải bảo họ học 
thuộc, thấu hiểu đã, mới cho lãnh thọ giới pháp cụ túc. Như họ không 
thấu hiểu mà vẫn tức thì truyền thọ cho họ giới pháp cụ túc, thì người 
ta bảo Phật pháp dễ tu, Á tăng dễ làm. Vì lý do ấy, sa di ni trước hết 
phải tôn trọng sự huấn thị trên đây.
(17) Dĩ hạ điều tắc, ư Đại ái đạo kinh, Sa di ni giới văn, cập Đệ nhị
 phần tỷ kheo ni tùy luật uy nghi trung tiết xuất. Hựu Vân thê Sa di yếu
 lược nội, phàm sa di ni khả thông dụng giả, diệc thể tập chi. Lương dĩ 
mạt pháp ni luân tình đa giải đãi, văn phồn tắc yểm, tịnh khủng văn tự 
sanh thiển, do thị san phồn toát yếu, nhưng phân loại tụ dĩ tiện độc 
học. Gian hữu vị bị, tùng nghĩa bổ nhâểp nhất nhị. Kỳ nhạo quảng lãm 
giả, tự đương kiểm duyệt toàn thư.
Những điều tắc dưới đây, từ trong kinh Đại ái đạo, văn Sa di ni giới,
 và tùy luật uy nghi của Phần thứ hai nói về tỷ kheo ni, tỉa bớt mà rút 
ra. Thêm nữa, trong sách Sa di luật nghi yếu lược của ngài Vân thê, phàm
 điều gì sa di ni có thể thông dụng thì cũng lượm lặt mà tập hợp. Vì lẽ 
ni chúng thời kỳ mạt pháp lòng lắm giải đãi, nghe nhiều thì chán, lại sợ
 văn tự sống sít, do đó, tôi tước bớt phồn toái mà tóm lấy cốt yếu, 
nhưng vẫn phân loại để tiện cho việc đọc và học. Tựu trung, có chỗ nào 
chưa đủ, tôi theo ý nghĩa mà phụ thêm một vài điều. Ai thích xem cho 
rộng thì nên tự cứu xét toàn văn các sách [trên đây].
  
Kính Tam Bảo Đệ Nhất 
        (Thứ 1, Kính Tam Bảo) 
(18) Đương kính Phật, chí tâm vô tà, trì đầu não trước địa, thường tự
 sám hối túc thế tội ác. Thường kính Pháp, tâm tồn ư đạo, từ hiếu ư 
kinh. Thường kính Tăng, tâm bình bất phế, chí thành hữu tín * Bất đắc 
nhân tiểu sự sân xả Tam bảo * Bất đắc trì Phật tượng chí đại tiểu tiện 
xứ. Bất đắc trước bất tịnh lý nhập Phật điện cập Tăng tháp trung * Thỉ ư
 xuất gia thọ giới, tận kỳ chung thân thọ mạng, thường đương thời khắc 
hệ ức Tam bảo *
Phải thường kính Phật, hết lòng mà không theo ai, đem đầu não đặt sát
 đất để thường tự sám hối tội ác đời trước. Thường kính Pháp, tâm dồn 
nơi đạo, từ hiếu với kinh. Thường kính Tăng, lòng bình tĩnh, không từ 
bỏ, chí thành tin tưởng * Không được nhân việc nhỏ mà giận bỏ Tam bảo * 
Không được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện. Không được mang giày 
dép dơ bẩn vào trong điện Phật và tháp Tăng * Bắt đầu từ lúc xuất gia 
thọ giới, cuối cùng đến lúc kết thúc đời sống, giờ khắc nào cũng thường 
xuyên tập trung sự nghĩ nhớ lại nơi Tam bảo *
(19) Triêu mộ lễ Phật phát nguyện, nguyện tại tại sanh xứ cụ trượng 
phu tướng, đồng chân xuất gia, tức năng thân cận Tam bảo, cúng dường 
thừa sự. Ư cận trú nữ tịnh đàn việt tiền, ưng đương tán thán Tam bảo 
công đức, sanh tăng nhân tín * Phàm trước nhất y, xan nhất thực, ẩm nhất
 tương, thường bất vong Phật ân; trước tân y lý thời tiên đương lễ Phật,
 thọ ẩm thực thời tiên đương cúng Phật, hằng tồn tàm quí, khởi tri trúc 
niệm.
Sớm tối lạy Phật phát nguyện, nguyện sanh ra ở đâu cũng đủ tướng 
trượng phu, đồng chân xuất gia, liền biết thân cận Tam bảo mà cúng dường
 phụng sự. Trước cận trú nữ và đàn việt, phải tán thán công đức của Tam 
bảo, làm phát sanh và tăng thêm tín tâm cho họ * Mặc một cái áo, ăn một 
bữa cơm, uống một chén nước, đều luôn luôn không quên ơn Phật ; khi mang
 áo giày mới phải lạy Phật trước, lúc hưởng thụ uống ăn phải cúng Phật 
trước, thường hổ thẹn mà khởi niệm tri túc.
  
Kính Đại Sa Môn Đệ Nhị 
        (Thứ 2, Kính Đại Sa Môn) 
(20) Bất đắc hoán nhị bộ đại tăng tự * Bất đắc đạo thính nhị bộ đại 
tăng thuyết giới * Bất đắc chuyển hành thuyết nhị bộ đại tăng quá * Bất 
đắc kiến nhị bộ đại tăng quá bất khởi, trừ độc kinh thời, bịnh thời, thế
 phát thời, phạn thời, tác chúng sự thời * Bất đắc cố tác dị ngữ xúc não
 nhị bộ đại tăng. Bất đắc vô căn sân báng nhị bộ đại tăng *
Không được gọi tên chữ của đại tăng hai bộ * Không được lén nghe đại 
tăng hai bộ thuyết giới * Không được nói chuyền lầm lỡ của đại tăng hai 
bộ * Không được thấy đại tăng hai bộ đi qua mà không đứng dậy, trừ lúc 
đọc kinh, lúc bịnh, lúc cắt tóc, lúc ăn cơm, lúc làm việc tăng chúng * 
Không được cố nói lời nói khác lạ để xúc não đại tăng hai bộ. Không được
 vì tức giận mà phỉ báng vô căn cứ đối với đại tăng hai bộ *
(21) Bất đắc ư nhị bộ đại tăng trung khiêu toa bỉ thử. Bất đắc cố não
 nhị bộ đại tăng, giả vấn kinh luật * Bất đắc mạ lị nhị bộ đại tăng. Bất
 đắc ư nhị bộ đại tăng tiền hành. Bất đắc khinh vũ nhị bộ đại tăng, cố ý
 ư tiền hý tiếu, hiệu kỳ ngữ ngôn hình tướng hành bộ. Bất đắc tứ bình 
xứ, kiến nhị bộ đại tăng quá chỉ bối. Hành thời, nhược phùng nhị bộ đại 
tăng, đương hạ đạo đê thủ bàng lập, cung nhượng khứ dĩ nhiên hậu phương 
hành.
Không được đối với đại tăng hai bộ mà khiêu khích xúi dục bên kia bên
 này. Không được cố làm phiền não đại tăng hai bộ bằng cách làm bộ hỏi 
kinh hỏi luật * Không được mắng chửi đại tăng hai bộ. Không được đi 
trước mặt đại tăng hai bộ. Không được khinh lờn đại tăng hai bộ, cố ý 
giỡn cười trước mặt, nhái giọng nói, hình dáng và bước đi của các ngài. 
Không được rình chỗ khuất để nhìn đại tăng hai bộ đi qua mà chỉ trỏ sau 
lưng. Khi đi, nếu gặp đại tăng hai bộ thì phải ở chỗ thấp, cúi đầu, đứng
 một bên, kính nhường các ngài đi rồi mới đi.
  
Sự Sư Đệ Tam 
        (Thứ 3, Thờ Thầy) 
(22) Thị hòa thượng a xà lê như thị Phật * Đương kính ư sư, thường 
phụ cận chi, như pháp luật hành. Đương như sư giáo, thường ưng hòa thuận
 * Thường đương tảo khởi, vật hậu sư khởi; tự cảnh kỳ tâm, vật linh sư 
hô. Tảo khởi thời, đương tiên thanh tịnh, trước pháp y lễ Phật, Pháp, 
khước lễ sư. Dục nhập hộ, tiên đương tam đàn chỉ. Lễ sư thời, khứ lục 
xích, vấn tấn, khước hành xuất hộ. Sư tọa thiền bất ưng tác lễ, sư kinh 
hành bất ưng tác lễ, sư thọ thực, sư sơ xỉ, sư tháo dục, sư thụy tức 
đẳng, bất ưng tác lễ. Dục lễ bái, nhược sư chỉ chi, nghi thuận mạng, vật
 bái. Sư bế hộ, bất ưng hộ ngoại tác lễ; dục nhập hộ tác lễ, ưng đàn chỉ
 tam biến, sư bất ứng, ưng khứ *
Chiêm ngưỡng hòa thượng, xà lê, như chiêm ngưỡng Phật * Phải kính 
thầy, thường gần gũi thầy để hành trì đúng pháp đúng luật. Phải giữ đúng
 huấn dụ của thầy, với sự kính thuận thường xuyên * Thường nên dậy sớm, 
đừng dậy sau thầy; tự cảnh giác tâm mình, đừng để thầy phải gọi dậy. 
Sáng sớm, khi thức dậy, phải trước hết súc miệng và gột rửa sạch sẽ, mặc
 pháp y lạy Phật lạy Pháp rồi lui ra lạy thầy. Muốn vào cửa, trước hết 
nên đàn chỉ ba lần. Khi lạy thầy thì lạy cách sáu thước xưa, hỏi thăm 
sức khỏe rồi đi lui mà ra cửa. Thầy ngồi thiền không nên lạy, thầy kinh 
hành không nên lạy, thầy thọ thực, thầy đánh răng, thầy rửa tắm, thầy 
ngủ nghỉ vân vân, không nên lạy. Muốn lạy mà thầy ngăn cản thì nên thuận
 theo mạng lịnh của thầy, đừng lạy. Thầy đóng cửa, không nên ở
        ngoài cửa mà lạy; muốn vào cửa mà lạy thì phải đàn chỉ ba lần, 
thầy không trả lời thì nên đi *
(23) Nhược sử xuất bất tịnh khí, bất đắc thóa, bất đắc sân nhuế * 
Đương thành tín ư sư, tâm trực hữu thật. Từ hiếu ư sư, tâm tồn tả hữu, 
bất khứ thực tức * Nhược hành quốc trung kiến quái dị chi sự, đương khởi
 ngữ sư, vấn kỳ biến dị. Tùng sư thọ kinh, đương đoan tâm chí thật, thân
 tâm khẩu ý vô sai đặc như mao phát * Sư thiết sử hành sở chí, đương tật
 khứ tật hoàn; thiết hữu nhân vấn, sa di ni, nhữ sư tại phủ, đương mặc 
nhiên trực khứ, bất đắc cọng tương ứng tri * Thiết hữu quá ác, tầm đương
 hướng sư thú quá, ngôn dĩ vô trạng * Nhất thế đương tín hướng ư sư; 
nhược nhân thuyết sư quá, tức đương ha chỉ * Trì sư ẩm thực, giai đương 
lưỡng thủ bổng ; thực tất, liễm khí đương từ từ * Thị sư, bất đắc đối 
diện lập, bất đắc cao xứ lập, bất đắc thái viễn lập; đương
        linh sư tiểu ngữ đắc văn, bất phí tôn lực *
Nếu bảo đổ đồ bất tịnh thì không nên nhổ nước miếng, không nên giận 
tức * Phải chân thành đối với thầy, lòng ngay thẳng, chắc thật. Hãy từ 
hiếu với thầy, quấn quýt bên thầy, không rời bữa ăn giấc nghỉ * Đi trong
 quốc gia, thấy sự quái lạ thì nên trình bạch với thầy, hỏi thầy sự quái
 lạ ấy. Theo thầy học kinh, phải nghiêm chỉnh tâm trí, cùng tột chân 
thật, thân tâm miệng ý không làm khác đi chút nào * Thầy bảo đi đến chỗ 
nào thì nên đi mau về mau; nếu có ai hỏi, sa di ni, thầy của cô còn 
không, thì nên yên lặng đi thẳng, không được trả lời cho họ biết * Giả 
sử có tội ác, thì phải liền liền đến thầy thú tội, nói ra rồi không còn 
tội trạng nữa * Hoàn toàn tin tưởng nơi thầy; nếu ai nói thầy có lỗi thì
 nên trách liền cho họ thôi đi * Cầm đồ uống đồ ăn của thầy
        đều nên bưng hai tay. Ăn rồi, dọn đồ thì phải từ từ * Hầu thầy, 
không được đứng đối diện, không được đứng chỗ cao, không được đứng quá 
xa; phải đứng sao để thầy nói nhỏ mình nghe được, khỏi phí sức thầy *
(24) Nhược thỉnh vấn Phật pháp, đương chỉnh y lễ bái, hiệp chưởng đế 
thính, tư duy thâm nhập. Nhược vấn gia thường sự, bất tu lễ bái, đãn 
đoan lập sư trắc, cứ thật thân bạch. Sư nhược thân tâm quyện, giáo khứ 
ưng khứ, bất đắc tâm tình bất hỷ, hiện ư nhan sắc * Bất đắc hý tọa sư 
tòa, cập ngọa sư sàng, trước sư y mạo đẳng * Sự tật bịnh, thỉ chung liệu
 lý, phòng thất bị nhục, dược nhĩ chúc thực đẳng, nhất nhất dụng tâm 
điều trị * Trì y, thọ lý, tẩy nhiễm, hồng sái đẳng, cụ ư Luật trung, tư 
bất phiền lục *
Nếu xin hỏi Phật pháp thì phải sửa y, lễ bái, chắp tay nghe kỹ suy 
nghĩ vào sâu. Nếu hỏi việc thường của trú xứ thì không cần lễ bái, chỉ 
đứng ngay thẳng cạnh thầy, cứ thật trình bày. Nếu thầy mệt mỏi cơ thể 
hay tâm trí, bảo đi thì nên đi, không được lòng dạ không vui, hiện ra 
sắc mặt * Không được ngồi chơi chỗ ngồi của thầy, và nằm chơi giường 
thầy, dùng chơi áo mão của thầy, vân vân * Thầy đau ốm thì lo liệu từ 
đầu đến cuối. Phòng thất, chăn nệm, thuốc thang, cháo cơm vân vân, nhất 
nhất chú ý coi sóc * Cầm áo, đưa giày, giặt bẩn, sấy phơi, vân vân, thì 
dạy đủ cả trong Luật, ở đây không phiền sao chép *
(25) Phàm thị sư, bất mạng chi tọa bất cảm tọa, bất vấn bất cảm đối, 
trừ tự hữu sự dục vấn. Phàm thị lập, bất đắc ỷ bích kháo trác, nghi đoan
 thân tề túc trắc lập * Sư hữu sở sử linh, nghi cập thời tác biện, bất 
đắc vi mạn * Phàm thụy miên, bất đắc tiên sư, trừ hữu bịnh duyên, bạch 
sư doãn khế * Nhân vấn sư danh, đương vân thượng mỗ hạ mỗ * Bất đắc kiều
 túc xoa yêu, an nhiên ư sư tiền tọa ngọa. Như mạng tọa, sư khởi, tức 
ưng tốc khởi * Thủ hộ sư vật như kỷ thân mạng, bất đắc tư tự dữ nhân * 
Bất đắc ác nhãn thị sư *
Phàm hầu thầy, thầy không bảo ngồi thì không dám ngồi, không hỏi thì 
không dám thưa, trừ mình có việc muốn hỏi. Phàm đứng hầu thì không được 
dựa vách, tựa ghế, mà nên mình ngay thẳng, chân tề chỉnh, đứng cạnh thầy
 * Thầy có sai khiến gì thì nên kịp thời làm cho xong, không được trái, 
nhác, hay khinh thường * Phàm ngủ nghỉ, không được trước thầy, trừ lúc 
có bịnh, bạch thầy cho phép nghỉ ngơi * Ai hỏi tên thầy, nên nói trên 
chữ x, dưới chữ x * Không được kiễng chân tréo lưng, an nhiên nằm ngồi ở
 trước mặt thầy. Như thầy bảo ngồi thì khi thầy đứng dậy, mình phải tức 
tốc đứng dậy * Giữ đồ của thầy như giữ thân mạng của mình, không được 
theo ý riêng mà tự cho người * Không được nhìn thầy bằng con mắt ác cảm *
(26) Bất đắc ly sư tự trú. Nhược sư mạng chung, nhược sư hữu duyên 
viễn hành bất đắc tùy khứ, ưng lễ bạch bổn sư ưng y chỉ hà nhân. Đương 
như sư mạng, tức y chỉ trú, nhất thế hoàn đồng sự sư pháp vô dị. Nhược 
sư bất chỉ thị tiện mạng chung, tu cánh trạch lương đạo y chỉ nhi trú. 
Nhược sư phá giới, phá kiến, bị tăng như pháp như luật trị tẩn, diệc ưng
 biệt mích minh sư y chỉ nhi trú, bất đắc túng tình tự dụng *
Không được rời thầy ở riêng. Nếu thầy mạng chung, nếu thầy có duyên 
sự đi xa mà không được đi theo, thì phải lạy bạch thầy bổn sư hỏi nên y 
chỉ thầy nào. Phải đúng như mạng lịnh của thầy, y chỉ mà ở, và tất cả 
lại làm giống với cách thờ thầy, không khác chi cả. Nếu thầy không chỉ 
thị mà mạng chung ngay, thì phải lại chọn bậc lương đạo y chỉ mà ở. Nếu 
thầy phá giới, phá kiến, bị đại tăng y pháp y luật trị đuổi, thì cũng 
phải tìm riêng vị minh sư, y chỉ mà ở, không được buông thả tự chuyên *
(27) Bất đắc y chỉ tỷ kheo tăng trú. Bất đắc dữ sa di đồng trú. Bất 
đắc tùy sư trú du cảnh, hoa viên. Bất đắc tùy sư trú thần miếu, phần am.
 Sư nhược trú, đương tác lễ, như luật gián khuyến * Hạ an cư thời, đương
 tùy sư cận đại tỷ kheo giới trú, bất đắc ư vô tỷ kheo trú xứ hạ an cư *
 Sư hoặc hữu sở thí, đương cung kính đảnh lễ nãi thọ ; nhược dĩ hữu giả 
đương vân hữu, bất khả vọng thọ.
Không được y chỉ tỷ kheo tăng mà ở. Không được cùng sa di ở chung. 
Không được theo thầy ở chỗ du ngoạn, chỗ vườn hoa. Không được theo thầy ở
 miếu thần, am mộ. Nếu thầy ở, thì phải lạy mà khuyên can như Luật đã 
dạy * Lúc hạ an cư thì phải theo thầy ở gần khu vức đại tỷ kheo, không 
được ở chỗ không có tỷ kheo ở mà hạ an cư * Hoặc thầy có cho gì thì nên 
cung kính đảnh lễ mới nhận; nếu thứ mình đã có thì nên nói có, không 
được vọng nhận.
  
Tùy Sư Xuất Hành Đệ Tứ 
        (Thứ 4, Theo Thầy Đi Ra) 
(28) Bất đắc quá lịch nhân gia. Bất đắc chỉ trú đạo biên cọng nhân 
ngữ. Bất đắc tả hữu cố thị, đương đê thủ bình mục tùy sư hậu * Đáo đàn 
việt gia, đương trụ nhất diện, sư giáo tọa nãi tọa. Đáo tha tự, sư lễ 
Phật hoặc tự lễ, bất đắc thiện tự minh khánh. Sư thọ trai, đương lập 
xuất sanh, trai tất, phục đương thị lập thâu sấn *
Không được ghé qua nhà người khác. Không được dừng ở bên đường cùng 
người nói chuyện. Không được ngoái nhìn hai bên, mà nên cúi đầu, mắt 
nhìn ngang tầm mắt, đi theo sau thầy * Đến nhà đàn việt, nên đứng một 
bên thầy, thầy dạy ngồi mới ngồi. Đến tự viện khác, thầy lạy Phật hoặc 
mình lạy, đều không được tự ý đánh khánh. Thầy thọ trai thì phải đứng 
hầu xuất sanh, thọ trai xong lại phải đứng hầu thâu nhận đồ hiến cúng *
(29) Nhược duyên vãng, đương dữ tam nhân cọng hành. Đương dữ đại ni 
cọng hành. Nhược dữ ưu bà di cọng hành, ưng trước pháp y hành, trước y 
đương tề chỉnh. Bất đắc phản sao y hành. Bất đắc y triền cảnh hành. Bất 
đắc khiêu hành. Bất đắc thủ xoa yêu hành. Bất đắc diêu thân hành. Bất 
đắc trạo tý hành. Bất đắc hý tiếu hành *
Nếu có duyên cớ, ra đi không có thầy thì phải cùng ba người đi chung.
 Hoặc phải cùng vị ni sư lớn đi chung. Nếu cùng ưu bà di đi chung thì 
phải mang pháp y mà đi, và mang pháp y thì phải tề chỉnh. Không được đi 
mà vắt trái y ra phía sau. Không được đi mà y quấn cổ. Không được đi mà 
nhảy. Không được đi mà chéo tay sau lưng. Không được đi mà lắc mình. 
Không được đi mà vung cánh tay. Không được đi mà giỡn cười *
(30) Tùy sư hậu hành, bất đắc tiễn sư hình ảnh * Đạo bàng, ngộ hữu 
hoa quả, bất đắc thiện trích * Tùy sư hà nhĩ vãng hoàn, bất đắc oán 
thanh ngôn khổ, hiện bì lao tướng * Nhược đạo phùng nam tử, bất đắc thị 
ức, đương quán không, tác bất tịnh tưởng. Nhược lộ kiến tục kỳ chi sự, 
bất đắc thất thanh tán mỹ
Đi theo sau thầy, không được dẫm lên bóng của thân hình thầy * Bên 
đường, gặp hoa trái, không được tự ý hái lấy * Theo thầy đi về xa gần, 
không được oán rằng khổ quá, lộ vẻ mệt nhọc * Trên đường nếu gặp con 
trai thì không được nhìn và nhớ, phải quán không, tu cái tưởng bất tịnh.
 Trên đường nếu thấy sự kỳ lạ của thế tục thì không được buột miệng khen
 đẹp.
  
Nhập Chúng Đệ Ngũ 
        (Thứ 5, Nhập Chúng) 
(31) Bất đắc tranh tọa xứ. Bất đắc ư tòa thượng diêu tương hô ngữ 
tiếu * Chúng trung hữu thất nghi, đương ẩn ác dương thiện. Bất đắc phạt 
lao, hiển kỷ chi công * Bất đắc dữ đại tỷ kheo, đại tỷ kheo ni cọng tọa.
 Bất đắc tướng hình tiếu * Bất đắc cao thanh tỷ thế ẩu thổ. Bất đắc Phật
 tháp tứ biên đại tiểu tiện, sử xú khí lai nhập. Bất đắc hướng Phật tháp
 đại tiểu tiện. Bất đắc hướng Phật tháp thư cước tọa * Khiết trà thang 
thời, bất đắc chích thủ tác lễ. Bất đắc đa ngôn, đa tiếu, cập kha khiếm 
đương dĩ y tụ yểm khẩu *
Không được tranh chỗ ngồi. Không được trên chỗ ngồi mà gọi vói nhau, 
nói hay cười * Trong chúng có ai mất uy nghi, nên ẩn ác dương thiện. 
Không được khoe cái mệt để tỏ cái công của mình * Không được cùng đại tỷ
 kheo và đại tỷ kheo ni ngồi chung. Không được coi tướng hình dáng mà 
cười * Không được lớn tiếng hỉ mũi, nôn ọe, khạc nhổ. Không được bốn 
phía tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện, làm cho hơi hôi bay vào tháp. 
Không được hướng về phía tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện. Không được 
hướng về phía tháp Phật duỗi cẳng mà ngồi * Khi uống trà nước, không 
được dùng một tay còn lại mà thi lễ. Không được nói nhiều, cười nhiều, 
và ngáp thì phải lấy tay áo bưng miệng *
(32) Cúng Phật hoa, thủ khai viên giả, bất đắc tiên khứu. Trừ ủy giả 
phương cúng tân giả. Đy giả bất đắc khí địa tiễn đạp, nghi trước bình xứ
 * Ưng vị đại tỷ kheo ni cấp dương chi, tháo thủy đẳng, tùy lực năng vi,
 tức đương tác chi, bất đắc thâu an, đương cầu thắng phước * Nhược văn 
hô thời tức niệm Phật ứng chi, bất đắc vân hữu vân thị * Phàm thập di 
vật, đương bạch chủ sự tỷ kheo ni * Phàm thượng Phật điện, đương túc 
dung nghi, bất đắc phóng ý tự tiện * Bất đắc ác khẩu tương điều, bất đắc
 giáo nhân tác bất thiện ngữ *
Hoa cúng Phật thì lấy thứ nở vừa, và không được ngửi trước. Loại trừ 
thứ héo mới cúng thứ mới. Thứ héo cũng không được bỏ xuống đất dẫm đạp 
lên, mà nên đặt ở chỗ khuất * Nên vì đại tỷ kheo ni mà cung cấp tăm 
dương chi, nước rửa vân vân, tùy sức có thể làm gì là nên làm, không 
được cầu an mà nên cầu cái phước thù thắng * Nếu nghe gọi thì tức khắc 
niệm Phật mà trả lời, không được nói có đây hay nói tôi đây * Phàm nhặt 
của rơi thì phải bạch vị tỷ kheo ni chủ sự * Phàm lên điện Phật, phải 
nghiêm kính hình dung và cử chỉ, không được buông thả tự tiện * Không 
được dùng lời nói thô độc mà giễu chọc nhau, không được bày cho người 
nói lời không tốt *
(33) Bất đắc tọa thị đại chúng lao vụ, tỵ lại thâu an * Bất đắc tư 
thủ chiêu đề trúc mộc, hoa quả, sơ thái, nhất thế ẩm thực cập nhất thế 
khí vật đẳng * Phàm tự xưng, đương cử nhị tự pháp danh, bất đắc vân ngã 
cập mỗ giáp * Bất đắc nhân tiểu sự tranh chấp. Nhược đại sự nan nhẫn 
giả, diệc tu tâm bình khí hòa, dĩ lý luận biện; bất khả tắc từ nhi khứ. 
Nhược động khí xuất thô tức phi sa di ni * Nhập đại tăng đường, tiên lễ 
thánh tăng tượng, thứ hành thập phương lễ. Nhược kiến thức xoa ma na cập
 sa di, diệc ưng tác lễ.
Không được ngồi nhìn đại chúng làm việc mệt nhọc, mà mình tránh, 
nhác, cầu an * Không được lấy riêng của chiêu đề như tre cây, hoa trái, 
rau lá, mọi thứ đồ uống đồ ăn, mọi thứ đồ vật vân vân * Phàm tự xưng thì
 nên nói hai chữ pháp danh, không được nói ta hay nói xx * Không được 
nhân việc nhỏ mà tranh chấp. Nếu việc lớn khó nhẫn thì cũng phải tâm 
bình tĩnh, khí ôn hòa, lấy lẽ thảo luận ; không được thì từ mà đi. Nếu 
nổi giận nói thô thì không phải là sa di ni * Vào đại tăng đường, trước 
lạy tượng thánh tăng, kế làm lễ mười phương tăng chúng. Nếu thấy thức 
xoa ma na và sa di, thì cũng nên thi lễ.
  
Tùy Chúng Thực Đệ Lục 
        (Thứ 6, Theo Chúng Thọ Thực) 
(34) Văn kiền chùy thanh, tức đương chỉnh y phục * Lâm thực chú 
nguyện, giai đương cung kính * Xuất sanh, phạn bất quá thất liệp, miến 
bất quá nhất thốn, man đầu bất quá chỉ giáp hử ; đa tắc vi tham, thiểu 
tắc vi xan; kỳ dư sơ thái, đậu hủ bất xuất. Phàm xuất sanh thời, mặc 
niệm kệ vân:
        
      - 
              Nhữ đẳng quỉ thần chúng,
      Ngã kim thí nhữ cúng,
      Thử thực biến thập phương,
      Nhất thế quỉ thần cọng * 
  
 Phàm ẩm thực, tác ngũ quán tưởng: nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ lai
 xứ; nhị thỗn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng; tam phòng tâm ly quá, 
tham đẳng vi tông; tứ chánh sự lương dược, vị liệu hình khô; ngũ vị 
thành đạo cố, phương thọ thử thực *
Nghe tiếng kiền chùy là phải chỉnh đốn y phục * Lúc ăn, chú nguyện 
thì phải cung kính * Xuất sanh thì cơm không quá bảy hạt, bún không quá 
một tấc, bánh không quá cỡ móng tay; nhiều là tham, ít là lẫn; ngoài ra,
 rau lá và đậu hủ không xuất sanh. Phàm khi xuất sanh, hãy niệm thầm bài
 kệ sau đây:
        
      - 
              Chúng quỉ thần các người,
      Nay tôi cho cúng phẩm,
      Cúng phẩm này khắp cả,
      Quỉ thần cùng hưởng thụ * 
  
 Sắp ăn uống, phải làm năm quán tưởng: một, xét kể công lao nhiều ít 
và ước lượng lý do của thực phẩm; hai, nghĩ kyՠđức hạnh của mình đủ hay 
thiếu để ứng thọ sự cúng dường; ba, đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi
 mà tham sân si vẫn làm chủ yếu; bốn, chính vì lấy thực phẩm làm dược 
phẩm tốt để trị liệu thân hình khô yếu; năm, vì thành đạo nghiệp mới ứng
 thọ thực phẩm này *
(35) Vô ha thực hảo ác. Bất đắc dĩ thực tư sở dữ, nhược trích dữ cẩu *
 Lai ích thực, bất đắc ngôn bất dụng; nhược dĩ bão, đương dĩ thủ nhượng 
khước chi * Bất đắc trảo đầu, sử phong tiết lạc lân bát trung. Bất đắc 
hàm thực ngữ. Bất đắc tiếu đàm tạp thoại. Bất đắc tước thực hữu thanh * 
Như khiêu nha, dĩ tụ yểm khẩu. Thực trung hoặc hữu trùng nghị, nghi mật 
yểm tàng chi, mạc linh lân đơn kiến sanh nghi tâm * Đương nhất tọa thực,
 bất đắc thực ngật, ly tòa, cánh tọa thực. Bất đắc thực ngật, dĩ thủ chỉ
 quát oản bát thực * Phàm thực, bất đắc thái tốc, bất đắc thái trì. Hành
 thực vị chí, bất đắc sanh phiền não. Hoặc hữu sở nhu, mặc nhiên chỉ 
thọ, bất đắc cao thanh đại hoán. Bất đắc oản bát tác thanh * Bất đắc 
thực tất tiên khởi * Nhược vi tăng chế, văn bạch chùy, bất
        đắc kháng cự bất phục * Phạn trung hữu cốc, khử bì thực chi * 
Bất đắc kiến mỹ vị sanh tham tâm, tứ khẩu thực. Bất đắc thiên chúng thực
 *
Không được la rầy đồ ăn tốt xấu. Không được lấy đồ ăn cho riêng, hoặc
 trích cho chó * Người đến thêm đồ ăn, không được bảo không dùng; nếu no
 rồi thì phải lấy tay từ khước * Không được lấy móng tay gãi đầu, làm 
cho gió thổi hắt mạt vụn rơi trong bát của người ngồi bên cạnh. Không 
được ngậm đồ ăn mà nói. Không được cười bàn chuyện tạp. Không được nhai 
đồ ăn ra tiếng * Muốn khêu răng, phải lấy tay áo che miệng. Trong đồ ăn 
hoặc có sâu kiến, nên kín đáo che giấu đi, đừng để người ngồi đơn bên 
cạnh thấy, sanh nghi ngại * Phải ngồi ăn một lần mà thôi, không được ăn 
xong, rời chỗ ngồi rồi, lại ngồi ăn nữa. Không được ăn xong, lấy ngón 
tay vét chén bát mà ăn * Phàm ăn, không được quá mau, không được quá 
chậm. Người đi thêm đồ ăn chưa đến, không được sanh phiền não.
        Hoặc có cần gì, thì yên lặng dùng ngón tay mà trao ý, không được
 lớn tiếng gọi to. Không được khua chén bát ra tiếng * Không được ăn rồi
 dậy trước * Nếu trái qui chế tăng chúng, nghe bạch kiền chùy, không 
được kháng cự bất phục * Trong cơm có lúa thì bỏ vỏ mà ăn * Không được 
thấy mỹ vị thì sanh tham tâm, phóng túng miệng mà ăn. Không được ăn 
riêng tăng chúng *
(36) Thọ thực thời, tả thủ trì bát, hữu phủ phò duyên * Thực vị tất, 
bất đắc tiên khởi; tu sĩ kiết trai, đồng chúng nhi khởi * Ngọ hậu, bất 
đắc vọng ức kỳ thực. Đương chỉ tham niệm, cẩn tuân pháp luật, ninh tử 
bất thực * Bất đắc tự súc túc thực. Bất đắc vị tha nhân súc túc thực. 
Bất đắc giáo dư sa di ni phi thời thực.
Khi thọ thực, tay trái bưng bát, tay phải dựa mà giữ bát * Nghi thức 
thọ thực chưa hoàn tất, không được dậy trước; phải đợi kiết trai, đồng 
chúng mà dậy * Sau giờ ngọ, không được vọng nhớ sự ăn. Phải chận tham 
tâm, kính tuân giới luật, thà chết chứ không ăn phi thời * Không được tự
 cất đồ ăn đêm. Không được cất đồ ăn đêm cho người khác. Không được bày 
cho sa di ni khác ăn phi thời.
  
Lễ Bái Đệ Thất 
        (Thứ 7, Lễ Bái) 
(37) Lễ bái, bất đắc chiếm điện trung ương, thị trú trì vị. Hữu nhân 
lễ Phật, bất đắc hướng bỉ nhân đầu tiền kính quá * Phàm hiệp chưởng, bất
 đắc thập chỉ sâm si, bất đắc trung hư, bất đắc tương chỉ sáp tỷ trung, 
tu bình hung, cao đê đắc sở * Bất đắc phi thời lễ bái, như dục phi thời 
lễ, tu đãi nhân tịnh thời * Sư lễ Phật, bất đắc dữ sư tịnh lễ, đương tùy
 hậu viễn bái. Sư bái nhân, bất đắc dữ sư đồng bái. Tại sư tiền, bất đắc
 dữ đồng loại tương lễ. Tại sư tiền bất đắc thọ nhân lễ. Kỷ thủ trì kinh
 tượng, bất đắc vị nhân tác lễ * Phàm lễ bái, tu tinh thành tác quán. 
Giáo liệt thất chủng lễ, bất khả bất tri *
Lễ bái, không được chiếm chỗ chính giữa điện Phật, vì đó là vị trí 
của vị trú trì. Có người lạy Phật, không được hướng tới trước đầu người 
ấy mà đi tắt - Phàm chắp tay, không được mười ngón so le, không được 
trống rỗng ở giữa, không được đưa ngón tay cắm vào lỗ mũi, phải để tay 
ngang ngực, cao thấp đúng chỗ * Không được lễ bái không phải lúc; muốn 
lễ bái không phải lúc thì phải đợi lúc mọi người yên tĩnh * Thầy lạy 
Phật, không được cùng thầy lạy ngang nhau, mà phải theo sau thầy và lạy 
cách xa. Thầy xá lạy người, không được cùng thầy đồng xá lạy. Ở trước 
thầy, không được cùng đồng bậc lạy nhau. Ở trước thầy, không được nhận 
người lạy. Tay mình cầm kinh tượng thì không được lạy người * Phàm lễ 
bái, phải tinh thành mà quán tưởng. Giáo lý liệt kê bảy cách lạy,
        không thể không biết *
(38) Chúc phạn hậu, xỉ mộc thanh tịnh, phương hành lễ kính * Bất ưng 
trước điệp y lễ tha nhân, diệc bất đắc trước điệp y thọ đàn việt lễ, 
đương hằng trước man điều ca sa * Nghệ tục tỉnh thân, bất đắc tác lễ tục
 thân quyến thuộc, duy chí thành hiệp chưởng vấn tấn.
Sau khi ăn cháo, ăn cơm, phải đánh răng, gột rửa sạch sẽ, mới làm 
việc lễ kính * Không được mặc áo ngắn lạy người khác, cũng không được 
mặc áo ngắn nhận đàn việt lạy, trường hợp nào cũng phải thường mặc ca sa
 man điều * Đến nhà tục thăm người thân, thì không được lạy thân nhân bà
 con thế tục, chỉ chí thành chắp tay hỏi thăm.
  
Tập Học Kinh Điển Đệ Bát 
        (Thứ 8, Học Tập Kinh Điển) 
(39) Nghi tiên học sa di ni thập giới, chư uy nghi, hậu học tu đa la,
 bất đắc vi việt. Phàm học kinh, tiên tu bạch sư, kinh hoàn, cánh bạch 
sư học mỗ kinh * Bất đắc ô thủ trì kinh quyển. Bất đắc khẩu xuy kinh 
thượng trần. Bất đắc án thượng lang tạ quyển trật. Bất đắc kinh án 
thượng bao tàng trà mạt tạp vật * Đối kinh điển như đối Phật * Bất đắc 
tá nhân kinh khán bất hoàn, cập bất gia ái trọng dĩ trí tổn hoại *
Phải trước học mười giới luật và các uy nghi của sa di ni, sau học 
kinh, không được trái vượt thứ tự ấy. Phàm học kinh nào thì phải bạch 
thầy trước, kinh ấy xong thì lại bạch thầy mà học kinh khác * Không được
 tay dơ mà cầm kinh điển. Không được dùng miệng thổi bụi trên kinh. 
Không được trên bàn kinh để quyển pho bừa bãi. Không được trên bàn kinh 
mà cất để trà mạt, tạp vật * Đối với Kinh như đối với Phật * Không được 
mượn kinh của người để coi mà không trả, lại không gia tâm quí trọng để 
đến nỗi hư hỏng *
(40) Bất đắc tiếu kinh ngữ * Phàm độc kinh luật thời tiên lễ kinh 
luật tam bái, phương song thủ thỉnh quyển ư án; tương khai quyển, tiên 
tất hiệp chưởng tụng khai kinh kệ, yểm quyển dĩ, nhưng thỉnh cúng Phật 
tượng tiền, tác lễ tam bái nãi khước. Độc kinh luật án ưng tịnh khiết, 
phần lô hương * Bất đắc sa di ni luật nghi phóng đại thừa kinh thượng. 
Bất đắc dĩ mạo trí kinh luật quyển thượng. Bất đắc nhị nhân hý tiếu độc 
kinh luật. Độc kinh bất đắc vũ án, khúc thân, kiều túc, lụy khỏa. Bất 
đắc cao thanh động chúng. Bất đắc ngọa độc xuất thanh.
Không được cười lời trong kinh luật * Phàm lúc đọc kinh luật thì 
trước lạy kinh luật ba lạy, mới hai tay thỉnh quyển kinh luật ấy đến nơi
 bàn đọc; sắp mở quyển ra để đọc thì trước hết phải chắp tay tụng bài kệ
 khai kinh; đọc và xếp quyển lại rồi, vẫn thỉnh quyển ấy đem để thờ cúng
 trước tượng Phật, làm lễ ba lạy mới lui ra. Bàn đọc kinh luật thì phải 
lau sạch sẽ và đốt hương trong lò * Không được đem sách Sa di ni luật 
nghi để trên kinh luật đại thừa. Không được đem mão để trên cuốn kinh 
luật. Không được hai người cùng giỡn cười mà đọc kinh luật. Khi đọc kinh
 luật thì không được vỗ bàn, cong mình, kiễng chân, chồng gót. Không 
được đọc lớn tiếng động chúng. Không được nằm đọc ra tiếng.
  
Thính Pháp Đệ Cửu 
        (Thứ 9, Nghe Pháp) 
(41) Đương chỉnh lý y phục. Bình thị trực tiến. Tọa tất đoan nghiêm. 
Bất đắc loạn ngữ. Bất đắc khái thóa * Phàm thính pháp tu văn nhi tư, tư 
nhi tu, bất đắc chuyên ký danh ngôn dĩ tư đàm bính. Bất đắc vị hội xưng 
hội, nhập nhĩ xuất khẩu * Chí thuyết pháp xứ, tiên lễ tòa tam bái phương
 tọa, thính cánh, khởi thân nhưng lễ tam bái, bàng lập, hầu thuyết giả 
hạ tòa, phương hồi bản sở * Bất đắc lai khứ vô lễ, tọa cửu sanh yểm.
Phải chỉnh đốn y phục. Nhìn ngang tầm mắt, tới thẳng pháp đường. 
Ngồi, tất phải thẳng và nghiêm. Không được nói bậy. Không được ho và nhổ
 * Phàm nghe pháp, phải nghe mà nghĩ, nghĩ mà tu, không được chuyên nhớ 
danh ngôn để cung cấp cho việc đàm luận. Không được chưa lãnh hội xưng 
lãnh hội, vào tai ra miệng * Đến chỗ thuyết pháp, trước lạy pháp tòa ba 
lạy mới ngồi, nghe rồi, đứng dậy vẫn lạy ba lạy, đứng ra một bên, hầu vị
 thuyết pháp xuống pháp tòa, mới về chỗ của mình * Không được đi lại vô 
lễ, ngồi lâu sinh chán.
  
Nhập Tự Viện Đệ Thập 
        (Thứ 10, Vào Tự Viện) 
(42) Phàm nhập tự môn, bất đắc hành trung ương, tu duyên tả hữu biên 
hành; duyên tả tiên tả túc, duyên hữu tiên hữu túc * Bất đắc vô cố đăng 
đại điện du hành. Bất đắc vô cố đăng tháp. Nhập điện tháp đương hữu 
nhiễu, bất đắc tả chuyển. Bất đắc điện tháp trung thế thóa. Nhiễu tháp 
hoặc tam tạp, thất tạp, nãi chí thập bách, tu tri biến số.- Bất đắc dĩ 
lạp trượng đẳng ỷ điện bích. Bất đắc trước mộc kịch, cập bất tịnh lý 
nhập điện tháp trung. Bất đắc ư Phật điện trung hình tướng Phật tượng. 
Bất đắc điện tháp trung thư cước tọa. Bất đắc thượng tháp hướng song dũ 
quan vọng.
Phàm vào cửa chùa, không được đi chính giữa. Phải ven theo bên trái 
bên phải mà đi. Ven bên trái thì trước bước chân trái, ven bên phải thì 
trước bước chân phải * Không được vô cớ lên đại điện dạo chơi. Không 
được vô cớ lên tháp. Vào điện tháp, phải đi vòng quanh bên phải, không 
được đi vòng quanh bên trái. Không được trong điện tháp mà hỉ nước mũi, 
nhổ nước miếng. Nhiễu tháp thì hoặc ba vòng, bảy vòng, cho đến mười 
vòng, trăm vòng, và phải biết số vòng ấy * Không được đem nón gậy vân 
vân để dựa vào vách điện Phật. Không được mang guốc gỗ và giày không 
sạch vào trong điện tháp. Không được trong điện Phật mà coi hình coi 
tướng tượng Phật. Không được trong điện tháp mà ngồi duỗi chân. Không 
được lên tháp, hướng ra cửa sổ cửa vách mà nhìn ngắm.
  
Nhập Thiền Đường Tùy Chúng Đệ Thập Nhất 
        (Thứ 11, Vào Nhà Thiền Với Đồng Chúng) 
(43) Bất đắc cao thanh đại ngữ. Khinh thủ yết liêm, tu thùy hậu thủ. 
Bất đắc đà hài tác thanh. Bất đắc đại khái sấu tác thanh.- Phàm tẩy 
diện, bất đắc đa sử thủy. Sấu khẩu thổ thủy, tu đê đầu dẫn thủy hạ, bất 
đắc phún thủy tiễn nhân * Bất đắc tam y cẩu giản. Bất đắc đa tác y phục,
 nhược hữu dư đương xả. Bất đắc trước loại tục gia phụ nữ y sức đẳng. 
Bất đắc dĩ bạch đới thúc yêu * Bất đắc bất tịnh thủ đáp y * Bất đắc 
tương Phật đăng tư tựu kỷ dụng. Nhiên đăng, đương dĩ tráo mật phú, vật 
linh phi trùng đầu nhập *
Không được lớn tiếng to lời. Nhẹ tay thả sáo phải đỡ tay phía sau. 
Không được kéo giày ra tiếng. Không được ho khan ho đàm lớn tiếng * Phàm
 rửa mặt, không được sử dụng nhiều nước. Súc miệng nhổ nước, phải cúi 
đầu đưa nước xuống, không được phun nước tạt ướt người * Không được đối 
với ba pháp y mà cẩu thả thiếu sót. Không được sắm nhiều y phục, nếu có 
thừa thì nên bỏ ra mà cho. Không được mặc y phục và dùng đồ trang sức 
vân vân giống với đàn bà con gái thế tục. Không được dùng dải trắng buộc
 lưng * Không được tay không sạch mà đắp y * Không được đem đèn của Phật
 dùng riêng cho mình. Thắp đèn, phải lấy lồng che kín, đừng để loại phi 
trùng gieo vào *
(44) Bất đắc nhàn tẩu * Bất đắc dữ nhân kết bái thân hữu * Bất đắc ư 
tích xứ lỏa hình tự lộng thân thể. Bất đắc chiếu cảnh ma vấn diện mục, 
họa mi * Thượng đơn hạ đơn câu đương tế hạnh, vật linh lân đơn động 
niệm. Bất đắc đơn thượng phùng bổ y bị.
Không được đi dạo * Không được cùng người kết làm bà con bạn bè * 
Không được ở chỗ khuất khỏa thân, tự mân mê thân thể. Không được soi 
gương xoa mặt, kẻ mắt, vẽ mày * Lên đơn xuống đơn đều phải nhẹ nhàng, 
đừng làm người trên đơn bên cạnh động niệm. Không được trên đơn may vá 
áo chăn.
  
Chấp Tác Đệ Thập Nhị 
        (Thứ 12, Làm Việc) 
(45) Đương tích chúng tăng vật. Đương tùy tri sự giả giáo lệnh, bất 
đắc vi lệ * Phàm tẩy thái, đương tam dịch thủy. Phàm cấp thủy, tiên tịnh
 thủ * Phàm dụng thủy, tu đế thị hữu trùng vô trùng, nhược hữu trùng, dĩ
 mật la lự quá phương dụng; nhược nghiêm đông, bất đắc tảo lự thủy, tu 
đãi nhật xuất. Phàm thiêu táo, bất đắc nhiên hủ tân * Phàm tác thực, bất
 đắc đới trảo giáp cấu *
Phải thương tiếc vật của tăng chúng. Phải tùy giáo lịnh của vị tri 
sự, không được trái, ngang * Phàm rửa rau, phải ba lần đổi nước. Phàm 
múc nước, trước phải sạch tay * Phàm dùng nước, phải nhìn kỹ có trùng 
không trùng, nếu có trùng thì lấy là dày lọc đi mới dùng ; mùa đông lạnh
 lắm thì không được lọc nước sớm, phải chờ mặt trời mọc. Phàm đốt bếp, 
không được đốt củi thối mục * Phàm làm đồ ăn, không được để bẩn trong 
móng tay *
(46) Phàm khí ác thủy, bất đắc đương đạo, bất đắc cao thủ dương bát; 
đương ly địa tứ ngũ thốn, từ từ khí chi. Phàm tảo địa, bất đắc nghinh 
phong tảo, bất đắc tụ khôi thổ an môn phiến hậu * Tẩy nội y, tiên tu 
thập khứ kỷ sắt. Hạ nguyệt, dụng thủy bồn liễu, tu phúc linh càn, nhược 
ngưỡng tức trùng sanh * Bất đắc nhiệt thang bát địa thượng.
Phàm đổ bỏ nước dơ, không được đổ ra đường đi, không được cao tay dơ 
lên đổ xuống bắn ra; phải cách đất bốn năm tấc từ từ đổ bỏ nước ấy. Phàm
 quét đất, không được quét ngược gió, không được dồn đất bụi vào sau 
cánh cửa * Giặt áo trong, trước hết phải nhặt bỏ rận chấy. Những tháng 
hè, dùng chậu nước rồi, phải lật úp xuống làm cho khô ráo, nếu để ngửa 
ra là sinh trùng * Không được nước sôi đang nóng mà rót bắn trên đất.
  
Nhập Dục Đệ Thập Tam 
        (Thứ 13, Vào Nhà Tắm) 
(47) Bất đắc dữ ưu bà di cọng tẩy. Bất đắc dữ tỳ sử cọng tẩy. Bất đắc
 dữ tiểu nhi cọng tẩy * Tiên dĩ thang tẩy diện. Tùng thượng chí hạ, từ 
từ tẩy chi. Bất đắc thô táo dĩ thang thủy tiễn tha nhân. Bất đắc dục 
đường tiểu di. Bất đắc tự thị hình thể ẩn xứ. Bất đắc cọng nhân ngữ tiếu
 * Phàm hữu sang tiển, nghi tại hậu dục; hoặc hữu khả úy giả, vưu nghi 
hồi tỵ. Bất đắc tứ ý cửu tẩy, phương ngại hậu nhân * Thoát y trước y, an
 tường tự tại * Thang lãnh nhiệt, y lệ kích bang, bất đắc đại hoán.
Không được cùng ưu bà di tắm rửa chung. Không được cùng tỳ sử tắm rửa
 chung. Không được cùng trẻ con tắm rửa chung * Trước, lấy nước nóng rửa
 mặt. Rồi từ trên đến dưới, từ từ mà rửa. Không được tinh nghịch, lấy 
nước nóng tạt người khác. Không được trong nhà tắm mà tiểu giải. Không 
được tự nhìn chỗ ẩn của hình thể. Không được cùng người nói cười * Phàm 
có ghẻ nhọt ghẻ lở thì nên tắm sau; hoặc có ghẻ nhọt đáng sợ, càng nên 
tránh đi. Không được mặc ý tắm rửa lâu, trở ngại người sau * Cởi áo mặc 
áo nên thung dung tự tại * Cần nước nóng đã nguội hay còn nóng thì y lệ 
mà đánh mõ dài, không được gọi lớn.
  
Nhập Xí Đệ Thập Tứ 
        (Thứ 14, Vào Nhà Xí) 
(48) Dục đại tiểu tiện tức hành, mạc đãi nội bức thảng thốt. Trúc can
 thượng quải trực chuyết, triệp linh tề chỉnh, dĩ thủ cân hoặc yêu thao 
hệ chi, nhất tác ký nhận, nhị phòng đọa địa. Tu thoát hoán hài lý, bất 
đắc tịnh lý nhập xí * Bất đắc dữ nhân cọng xí. Bất đắc thượng nam tử xí 
thượng * Chí, đương đàn chỉ, hoặc khánh khái, sử nội nhân tri. Bất đắc 
bách xúc nội nhân sử xuất. Dĩ thượng, phục đương đàn chỉ tác thanh, linh
 xí trung phi nhân tri *
Muốn đại tiện tiểu tiện là đi ngay, đừng đợi trong cơ thể bức bách mà
 thảng thốt. Trên sào tre treo áo trực chuyết thì phải gấp xếp cho tề 
chỉnh, lấy khăn tay hoặc dây lưng buộc áo ấy, một là làm dấu nhận biết, 
hai là phòng rơi xuống đất. Phải cởi đổi giày dép, không được mang giày 
dép sạch vào nhà xí * Không được cùng người đi chung một lần trong nhà 
xí. Không được vào trong nhà xí đàn ông * Đến nhà xí, phải đàn chỉ hoặc 
dặng hắng, để cho người ở trong đó biết. Không được thúc bách người ở 
trong đó cho họ phải ra. Đã lên nhà xí, lại phải đàn chỉ ra tiếng, làm 
cho loài không phải người ở trong nhà xí biết *
(49) Bất đắc đê đầu thị hạ. Bất đắc trì thảo họa địa. Bất đắc nỗ khí 
tác thanh. Bất đắc cách bích cọng nhân ngữ. Bất đắc thóa bích * Tiện 
tất, đương tiên tẩy tịnh, thứ tẩy thủ; vị tẩy thủ, bất đắc trì vật. Vị 
tẩy tịnh tẩy thủ, phùng nhân bất đắc tác lễ, nghi trắc thân tỵ chi. Bất 
đắc duyên lộ hành hệ y đới.
Không được cúi đầu nhìn xuống. Không được cầm cỏ vẽ đất. Không được 
rán hơi ra tiếng. Không được cách vách cùng người nói chuyện. Không được
 nhổ nước miếng vào vách * Tiện lợi hoàn tất, phải trước hết rửa sạch, 
kế đó rửa tay; chưa rửa tay thì không được cầm nắm đồ vật. Chưa rửa sạch
 và rửa tay, thì gặp người không được thi lễ; phải nghiêng mình tránh 
họ. Không được ven theo đường vừa đi vừa buộc áo, dải.
  
Miên Ngọa Đệ Thập Ngũ 
        (Thứ 15, Nằm Ngủ) 
(50) Phàm xứ, thụy bất tại nhân tiền, khởi bất tại nhân hậu * Bất đắc
 dữ đại tỷ kheo ni đồng thất túc. Bất đắc dữ đồng sự sa di ni cập thức 
xoa ma na cọng tháp, thiết vô dị tháp bất đắc cọng bị, thiết vô dị bị tu
 các trước sấn thân y * Bất đắc nhập Phật tháp trung chỉ túc, trừ vị thủ
 hộ. Đương đầu thâu Phật. Đương ủ ngọa, bất đắc thân cước, bất đắc 
ngưỡng hướng tần thân. Bất đắc lỏa khỏa tự lộ. Bất đắc thủ cận bất tịnh 
xứ * Phàm quải hài miệt tiểu y đẳng, bất đắc quá nhân đầu diện * Bất đắc
 cọng lân đơn thuyết thoại, động chúng * Thiện kiến luật vân, lâm dục 
thụy thời, ưng tiên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm 
thiên, niệm vô thường; ư lục niệm trung tùy nhất nhất niệm.
Ở đâu, ngủ không trước người, dậy không sau người * Không được cùng 
đại tỷ kheo ni ngủ đồng phòng. Không được cùng sa di ni đồng sự và thức 
xoa ma na chung giường, nếu không có giường khác thì không được chung 
chăn, nếu không có chăn khác thì phải ai cũng mặc áo lót mình * Không 
được vào trong tháp Phật mà ngủ, trừ vì giữ gìn tháp ấy. Nằm ngủ nên 
xoay đầu về phía Phật. Nên nằm cong lưng, không được duỗi cẳng, không 
được ngả ngửa, co duỗi. Không được hở hang tự lộ. Không được để tay gần 
chỗ bất tịnh * Phàm treo giày, tất, áo nhỏ vân vân, không được quá đầu 
và mặt người * Không được cùng người trên đơn bên cạnh nói chuyện, động 
chúng * Thiện kiến luật nói, khi sắp ngủ thì trước phải tưởng nhớ Phật, 
tưởng nhớ Pháp, tưởng nhớ Tăng, tưởng nhớ giới luật, tưởng nhớ
        chư thiên, tưởng nhớ vô thường; trong 6 sự tưởng nhớ như vậy, 
tùy đó mà tưởng nhớ.
  
Vi Lô Đệ Thập Lục 
        (Thứ 16, Quanh Lò Lửa) 
(51) Bất đắc giao đầu tiếp nhĩ thuyết thoại. Bất đắc đàn cấu nị hỏa 
trung. Bất đắc hồng bồi hài miệt * Bất đắc hướng hỏa thái cửu, phương 
hậu nhân. Xảo noãn, tiện nghi qui vị.
Không được giao đầu tiếp tai nói chuyện. Không được gảy búng cáu bẩn 
vào trong lửa. Không được hơ sấy giày, tất * Không được hơ lửa quá lâu, 
trở ngại người sau. Hơi ấm, liền nên về chỗ.
  
Tại Phòng Trung Trú Đệ Thập Thất 
        (Thứ 17, Ở Trong Phòng) 
(52) Canh tương vấn tấn, tu tri đại tiểu. Tứ phần luật vân, sa di dĩ 
sanh niên vi thứ đệ, nhược sanh niên đẳng giả dĩ xuất gia niên nguyệt vi
 thứ đệ, khiêm hòa vi cao thượng; kỳ sa di ni diệc nhĩ * Dục trì đăng 
hỏa nhập, dự cáo phòng nội tri, vân hỏa nhập; dục diệt đăng hỏa, dự vấn 
đồng phòng nhân, cánh dụng đăng phủ. Bất đắc khẩu xuy đăng hỏa, ưng từ 
khước chú linh tức. Diệt đăng hậu, bất đắc cao thanh niệm tụng *
Chào hỏi nhau, phải biết lớn nhỏ. Tứ phần luật nói, sa di nên lấy năm
 sinh làm thứ tự, nếu năm sinh ngang nhau thì nên lấy năm tháng xuất gia
 làm thứ tự. Tuy nhiên, hãy lấy đức tính khiêm tốn hòa nhã mà làm cao 
thượng. Sa di ni cũng vậy * Muốn cầm lửa đèn vào, phải bảo trước trong 
phòng biết, rằng tôi cầm lửa đèn vào; muốn tắt lửa đèn, phải hỏi trước 
người cùng phòng còn dùng nữa không. Không được dùng miệng thổi lửa đèn,
 mà nên từ từ hạ tim làm cho tắt đi. Sau khi tắt đèn, không được lớn 
tiếng tụng niệm *
(53) Nhược hữu bịnh nhân, đương từ tâm thỉ chung khán chi. Hữu nhân 
thụy, bất đắc đả vật tác hưởng, cập cao thanh ngữ tiếu * Bất đắc vô cố 
nhập tha phòng viện * Bất đắc khái thóa thất trung tịnh địa cập tứ bích *
 Bất đắc dữ bạn hý luận, thuyết thế gian bất cấp chi sự.
Nếu có bịnh nhân thì nên từ tâm coi sóc từ đầu đến cuối. Có người ngủ
 thì không được đụng đồ ra tiếng, và lớn tiếng nói cười * Không được vô 
cớ vào phòng khác * Không được ho nhổ xuống nền đất sạch và bốn phía 
tường vách trong phòng * Không được cùng bạn hý luận, nói việc thế gian,
 không cấp bách.
  
Chí Đàn Việt Gia Đệ Thập Bát 
        (Thứ 18, Đến Nhà Đàn Việt) 
(54) Hữu dị tòa đương tọa, bất nghi tạp tọa. Bất đắc tả hữu cố thị. 
Bất đắc dữ tỳ cọng tư ngữ * Nhân vấn kinh, đương tri thời, thận vật vi 
phi thời chi thuyết. Nhược dữ nam tử thuyết pháp, bất đắc đê thanh mật 
ngữ. Bất đắc đa ngữ. Bất đắc cuống thuyết Phật pháp, loạn đáp tha vấn, 
tự mại đa văn, cầu bỉ cung kính. Bất đắc trá hiện uy nghi, giả trang 
thiền tướng *
Có chỗ ngồi khác mới nên ngồi, không được ngồi tạp. Không được ngoái 
nhìn hai bên. Không được cùng tớ gái nói riêng với nhau * Người ta hỏi 
kinh thì phải biết lúc, thận trọng đừng làm cái việc nói không phải lúc.
 Thuyết pháp cho nam tử thì không được thấp tiếng nói thầm. Không được 
nói nhiều. Không được nói dối trá chánh pháp của Phật, đáp rối loạn lời 
hỏi của người, tự khoe đa văn, cầu họ cung kính. Không được trá hiện uy 
nghi, giả trang thiền tướng *
(55) Chủ nhân thiết thực, tuy phi pháp hội, diệc vật thất nghi quy * 
Bất đắc chí táo hạ tọa thực. Bất đắc tạp tọa tửu tịch * Bất đắc không 
thất nội, hoặc bình xứ, dữ nam tử cọng tọa cọng ngữ. Bất đắc thư sớ vãng
 lai, cập giả tá đẳng * Bất đắc tống hạp lễ, hiệu bạch y vãng hoàn. Bất 
đắc kết bái bạch y nhân tác phụ mẫu tỷ muội huynh đệ. Bất đắc quản nhân 
gia vụ * Bất đắc thuyết tăng trung quá *
Chủ nhân thiết trai, dẫu không phải pháp hội, cũng đừng bỏ nghi thức.
 Không được đến ngồi dưới bếp mà ăn. Không được ngồi xen tiệc rượu * 
Không được ở trong nhà vắng, hoặc ở chỗ khuất, cùng nam tử ngồi với 
nhau, nói với nhau. Không được thư từ qua lại, và mượn nhờ vân vân * 
Không được đưa biếu lễ vật, học đòi sự giao hảo của người đời. Không 
được cùng người đời kết làm cha mẹ, chị em, anh em. Không được lo liệu 
việc nhà của người * Không được nói lỗi lầm trong tăng chúng *
(56) Nhược nghệ tục tỉnh thân, đương tiên nhập trung đường lễ Phật, 
hoặc gia đường thánh tượng tiền đoan trang vấn tấn, thứ phụ mẫu quyến 
thuộc đẳng, nhất nhất vấn tấn. Bất đắc hướng phụ mẫu thuyết sư pháp 
nghiêm, xuất gia nan, tịch liêu đạm bạc, gian tân khổ khuất đẳng sự ; 
nghi vị thuyết PhạAầt pháp, linh sanh tín tăng phước. Bất đắc dữ thân 
tộc tiểu nhi đẳng cửu tọa cửu lập, tạp thoại hý tiếu * Bất đắc dữ ưu bà 
di tương khán hình thể đại tiếu. Bất đắc độc chí xá hậu. Vô phạm dạ hành
 * Nhược thiên vãn tác túc, đương độc xử nhất tháp, đa tọa thiểu ngọa, 
nhất tâm niệm Phật ; sự ngật tức hoàn, bất đắc lưu liên *
Đến nhà tục thăm người thân, phải trước hết vào nhà chính lạy Phật, 
hoặc đến trước tượng thánh trong nhà nghiêm chỉnh chắp tay, thứ đến cha 
mẹ bà con vân vân, nhất nhất chào hỏi. Không được hướng về cha mẹ nói 
những việc như cái nghiêm của phép thầy, cái khó của xuất gia, cô liêu 
đạm bạc, gian nan khổ sở vân vân ; nên vì cha mẹ nói Phật pháp, làm cho 
cha mẹ phát sinh tín tâm và tăng trưởng phước đức. Không được cùng thân 
tộc, thiếu niên vân vân, ngồi lâu đứng lâu, nói tạp giỡn cười * Không 
được cùng ưu bà di coi hình thể của nhau và cả cười. Không được một mình
 đến sau nhà người ta. Đừng phạm cái lỗi đi đêm * Nếu trời tối, ngủ lại,
 phải dùng riêng một giường, ngồi nhiều nằm ít, nhất tâm niệm Phật; việc
 xong về liền, không được lưu luyến.
  
Khất Thực Đệ Thập Cửu 
        (Thứ 19, Khất Thực) 
(57) Đương dữ lão thành nhân câu. Nhược vô nhân câu, đương tri sở khả
 hành xứ * Đáo nhân môn hộ, nghi thẩm cử thác, bất đắc thất uy nghi. Gia
 vô nữ nhân, bất khả nhập môn * Nhược dục tọa, tiên đương chiêm thị tòa 
tịch: hữu đao binh bất nghi tọa, hữu bảo vật bất nghi tọa * Dục thuyết 
kinh, đương tri sở ưng thuyết thời, bất ưng thuyết thời * Bất đắc thuyết
 dữ ngã thực linh nhĩ đắc phước. Bất đắc ai cầu khổ sách. Bất đắc quảng 
đàm nhân quả, vọng bỉ đa thí * Bất đắc chuyên hướng thục tình thí chủ 
gia cập thục tình am viện xứ sách thực.
Nên cùng bậc lão thành đi chung. Nếu không có bậc lão thành đi chung 
thì phải biết chỗ có thể đi * Đến cửa ngõ của người, phải xét kỹ cử 
động, không được để mất uy nghi. Nhà không có phụ nữ thì không được vào 
cửa * Nếu muốn ngồi, trước hết phải xem kỹ chỗ ngồi: có khí giới không 
nên ngồi, có đồ quí không nên ngồi * Muốn nói kinh, phải biết lúc đáng 
nói, lúc không đáng nói * Không được nói cho tôi đồ ăn thì làm cho người
 được phước. Không được khẩn khoản nài nỉ. Không được nói nhiều về nhân 
quả, mong họ cho nhiều * Không được hay đến nhà thí chủ thân tình hoặc 
chỗ am viện thân tình mà đòi hỏi thực phẩm.
  
Nhập Tụ Lạc Đệ Nhị Thập 
        (Thứ 20, Vào Chỗ Dân Cư) 
(58) Hữu Tam bảo sự cập khán bịnh đẳng thiết duyên phương nhập; vô 
thiết duyên bất đắc nhập. Tức nhập, diệc mích như pháp giả bạn * Bất đắc
 trì hành. Bất đắc diêu tý hành. Bất đắc bàng thị nhân vật hành; nghi 
đoan thân bình mục, trực thị nhi hành. Bất đắc cọng tiểu niên đàm tiếu 
hành. Bất đắc dữ nam nhân tiền hậu hỗ hành. Bất đắc dữ nam tăng tiền hậu
 hỗ hành. Bất đắc dữ túy nhân cuồng nhân tiền hậu hỗ hành *
Có lý do cần thiết, là việc của Tam bảo và thăm bịnh vân vân, mới 
vào; không có lý do cần thiết thì không được vào. Tức như có vào thì 
cũng kiếm người đúng phép làm bạn đi theo * Không được đi như chạy. 
Không được đi mà lay động cánh tay. Không được đi mà nhìn qua hai bên 
những người và vật; nên mình thẳng, mắt bằng, nhìn ngay mà đi. Không 
được đi mà cùng thiếu niên nói cười. Không được đi mà cùng nam nhân 
trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng nam tăng trước sau theo nhau.
 Không được đi mà cùng người say người cuồng trước sau theo nhau *
(59) Hoặc phùng tôn túc thân thức, câu lập hạ bàng, tiên ý vấn tấn. 
Hoặc phùng hý huyễn kỳ quái đẳng sự, câu bất nghi khán. Hoặc ngộ quan 
phủ, bất luận đại tiểu, câu nghi hồi tỵ Hoặc ngộ đấu tránh giả diệc viễn
 tỵ chi, bất đắc trụ khán * Phàm ngộ thủy khanh, thủy khuyết, bất đắc 
khiêu việt; hữu lộ đương nhiễu hành, vô lộ, chúng giai khiêu việt tắc 
đắc * Bất đắc hồi tự khoa trương sở kiến kỳ sự.
Gặp tôn túc, thân thức, thì nên đứng chỗ thấp hoặc đứng một bên, chào
 hỏi trước. Gặp những sự kỳ lạ như trò chơi, ảo thuật vân vân, đều không
 nên xem. Hoặc gặp quan quyền, bất luận lớn nhỏ, đều nên tránh đi. Gặp 
kẻ đánh nhau cãi nhau, cũng nên tránh xa, không được dừng ngó * Phàm gặp
 nước hố, nước lỡ, không được nhảy qua; có đường khác thì nên đi vòng 
quanh, không có đường khác mà mọi người cùng nhảy qua thì được * Không 
được về chùa khoa trương những sự kỳ lạ đã thấy.
  
Thị Vật Đệ Nhị Thập Nhất 
        (Thứ 21, Mua Đồ) 
(60) Vật tranh quí tiện. Nhược vi nhân sở phạm, phương tiện t?hi, vật
 tùng cầu trị. Dĩ hứa giáp vật, tuy phục cánh tiện, vật xả bỉ thủ thử, 
linh chủ hữu hận * Thận vật bảo nhậm trí khiên phụ.
Đừng tranh đắt rẻ. Nếu bị người xúc phạm thì phương tiện tránh đi, 
đừng theo mà mưu cầu giá rẻ. Đã hứa mua vật của ai, thì dẫu vật của 
người khác rẻ hơn, cũng đừng bỏ vật ấy lấy vật này, làm cho chủ vật ấy 
tức giận * Thận trọng, đừng bảo lãnh kẻo dẫn đến lỡ lầm và mắc nợ.
  
Phàm Sở Thi Hành Bất Đắc Tự Dụng Đệ Nhị Thập Nhị 
        (Thứ 22, Làm Gì Cũng Không Được Tự Ý) 
(61) Xuất nhập hành lai, đương tiên bạch sư. Tác tân pháp y, đương 
tiên bạch sư; trước tân pháp y, đương tiên bạch sư. Thế đầu, đương tiên 
bạch sư. Tật bịnh phục dược, đương tiên bạch sư. Tác chúng tăng sự, 
đương tiên bạch sư. Dục hữu tư cụ chỉ bút chi loại, đương tiên bạch sư. 
Nhược phúng kinh khởi, đương tiên bạch sư *
Ra vào đi về, phải bạch thầy trước. Sắm pháp y mới, phải bạch thầy 
trước; mặc pháp y mới, phải bạch thầy trước. Cạo đầu, phải bạch thầy 
trước. Tật bịnh uống thuốc, phải bạch thầy trước. Làm việc tăng chúng, 
phải bạch thầy trước. Muốn có đồ riêng thuộc loại giấy bút, phải bạch 
thầy trước. Tụng kinh tán kệ, phải bạch thầy trước *
(62) Nhược nhân dĩ vật huệ kỷ, đương tiên bạch sư, sư hứa thọ phương 
thọ; kỷ dục dĩ vật huệ nhân, đương tiên bạch sư, sư thính phương tống. 
Nhân tùng kỷ tá vật, đương tiên bạch sư, sư thính phương dữ ; kỷ dục tá 
nhân vật, đương tiên bạch sư, sư thính phương tá * Bạch, sư thính bất 
thính, giai đương tác lễ. Bất thính, bất đắc hữu hận ý * Bất đắc lập môn
 vọng thị, cập dĩ chỉ sáp khẩu trung.
Ai đem đồ cho mình, phải bạch thầy trước, thầy cho nhận mới nhận; 
mình đem đồ cho ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho. Ai 
mượn đồ, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho mượn ; mình mượn 
đồ của ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới mượn * Bạch thầy, 
thầy chấp thuận hay không chấp thuận, đều phải làm lễ. Thầy không chấp 
thuận, không được có ý giận hờn * Không được đứng nơi cửa mà trông ngắm,
 và lấy ngón tay cắm vào trong miệng.