Tương truyền trước đó vua Tùy đã sai Lưu Phương mang 
qua Giao Châu năm hòm xá lợi Phật, trong đó một hòm được đặt ở châu 
Hoan. Tháp Nhạn đã được xây để thờ xá lợi chăng? Như vậy thì Nghệ An đã 
là đất Phật rất sớm, sớm từ lúc rạng đông của những khởi nghĩa tự chủ. 
Thiếu sử liệu chính xác, sự thật chỉ còn trông chờở khảo cổ học. Thế là 
tháp Nhạn được khai quật và lòng đất mang lại cho Nghệ An một hãnh diện 
phi thường: hình như báu vật được khám phá có thể là xá lợi thật. Đó là 
một hộp hình chữ nhật bằng đồng, bên trong là một hộp nhỏ bằng kim loại 
màu vàng chứa tro và một viên tròn rỗng, màu trắng. Nhà khảo cổ quả 
quyết: đích thực là xá lợi. Xác quyết ấy có thể làm choáng váng mọi 
người, cho nên hộp đồng được cất giữ.
Chúng tôi đến Nghệ An để tham dự vào việc tổ chức Tuần Văn hóa Phật 
giáo vào giữa tháng Tám năm nay, 2012. Chọn Nghệ An là một lẽ tất nhiên.
 Đất ấy là địa linh nhân kiệt. Đất ấy là tuyến đầu của tổ quốc, có vị 
trí đặc biệt trong việc tiếp thu văn hóa, nhận Phật giáo từ cả hai 
đường, từ bắc xuống bằng đường bộ, từ nam lên bằng đường biển, cho nên 
nhận rất sớm và rất mở mang. Mở mang đến nỗi Nghệ An được mệnh danh là 
đất của năm trăm ngôi chùa. Năm trăm ngôi! Không tưởng tượng nổi. Huế 
của tôi, thường tự hào là đất chùa, đếm cũng không đến một nửa, một phần
 ba. Và Huế làm sao có được tháp Nhạn, có được của báu dưới lòng đổ nát?
 Chẳng lẽ chúng tôi không tìm đến Nghệ An như tìm đất hành hương? Huống 
hồ Nghệ An đánh trong lòng chúng tôi một dấu hỏi lớn: năm trăm ngôi chùa
 ấy bây giờở đâu? Chẳng lẽ đất Phật ngày xưa không thì thầm nói lên 
tiếng gì trong tâm khảm người dân xứ Nghệ ngày nay? Chẳng lẽ sợi tóc của
 Phật được nhân dân Miến Điện xây chùa vàng đẹp nhất nước để thờ, còn 
viên tròn màu trắng kia cứ nằm mãi trong nghi vấn? Chúng tôi không đến 
Nghệ An để chiêm bái thì đi đâu?
  
    
      |  Cổng chùa Diệc. Ảnh: Cao Huy Hóa 
 | 
  
Vậy là chúng tôi hành hương. Này là di tích chùa Đại Tuệ ngự trị trên
 núi cao, chung quanh bao la một dải Hồng Lĩnh. Này là chùa Diệc, hoang 
tàn đến động lòng, chỉ còn trơ trọi một cổng tam quan, nhưng là một tam 
quan tài sắc. Và này, tháp Nhạn đây rồi, chao ôi, chỉ gạch vụn với đất 
bùn. Gạch vụn cả chăng? Tổ tiên ơi, ai xúi giục bước chân chúng tôi bước
 đến, ai xúi giục con mắt chúng tôi nhìn vào cái màu hồng hồng đàng kia,
 nằm lẫn trong bùn? Lượm lên, phủi sạch đất, viên gạch màu hồng để lộ 
nguyên hình ba vị Phật nét mặt còn tươi. Nhà khảo cổ khi nãy giải thích:
 tháp Nhạn được xây toàn gạch, bề mặt ngoài của tháp được trang trí bằng
 nhiều viên gạch có vẽ hình tam thế Phật, hộp xá lợi được đặt trong một 
thân gỗ rỗng lòng, chôn theo tư thế thẳng đứng ở chính giữa lòng tháp. 
Chỉ viên gạch tình cờ khám phá ấy thôi, cũng đủ quỳ lạy rồi. Không phải 
lạy Phật đâu: lạy cái văn hóa đã un đúc nên dân tộc nước này.
Văn hóa ấy, dù chùa đã biến đi cả rồi, vẫn còn nguyên màu hồng tam 
thế Phật trong quần chúng. Cả thành phố Vinh nô nức tham dự Tuần Văn 
hóa, già chen chân với trẻ. Này, hội trường mênh mông không đủ chỗ ngồi,
 dù để nghe thuyết trình, dù để xem văn nghệ, chiếu phim. Này, đêm hoa 
đăng thả đèn với hàng chục ngàn người. Này, hội bông hồng cài áo với cả 
vạn già trẻ phăng phăng leo núi Đại Tuệ. Này, quán cơm chay với lũ lượt 
khách ăn nối đuôi, hết nhẵn thức ăn vẫn vui vẻ xin xì dầu với bún. Đông 
như hội, vậy mà ở đâu cũng trật tự, nhã nhặn, lịch sự. Nơi nào khác văn 
hóa suy đồi, nơi đây, trong tuần này, văn hóa dậy sống. Nơi nào khác 
giáo dục trốn đi, nơi đây giáo dục trở về. Tự xã hội đấy, tự quần chúng 
làm văn hóa, tự quần chúng làm giáo dục. Tự xã hội trang sức vẽ đẹp: áo 
lam nơi hàng trăm tuổi trẻ tình nguyện, phong cách nơi chủ nhân các 
chiếc xe sang lo việc chở khách, im lặng nơi hội trường, hân hoan trong 
tiếng vỗ tay. Quần chúng là sức mạnh vô địch, dời được cả núi, và sức 
mạnh ở đây là sức mạnh của hòa bình, xây dựng, dựng lại được cả núi non.
 Năm trăm ngôi chùa mà tôi tưởng đã biến đi bỗng như thấp thoáng linh 
hồn trên vùng đất đã mở ra văn hóa, may mắn thay, một văn hóa kiên 
cường, bất khuất, nhưng khoan hòa, dung thứ, nhân nghĩa, từ bi. Văn hóa 
ấy có mất đâu dù cho chùa Diệc không còn nữa.
Trước khi đến Nghệ An, tôi đã đọc sơ qua lịch sử chùa Diệc. Chùa được
 khởi xây từ cuối đời Trần, được trùng tu nhiều lần, từng là cảnh quan 
lớn của cả đất nước, niềm tự hào của dân chúng xứ Nghệ. Bây giờ, tuy 
tượng đã gãy tay, thủng mắt, bia đá lăn lóc, tam quan trơ trọi trong đổ 
nát, nhà cửa lấn chiếm đến tận vườn, chùa vẫn còn treo biển xếp hạng di 
tích lịch sử. Chùa có tan hoang đi nữa, tương truyền về chùa vẫn cứ sống
 trên miệng người dân. Dân kể: Ngày xưa, nơi đây là một khu đất trống, 
toàn ao chuôm. Năm ấy, trời làm hạn hán kéo dài, ao chuôm khô sạch, dân 
không có nước tưới. Một hôm, người ta thấy đàn diệc từ đâu bay về đây, 
nằm chết la liệt. Mọi người kéo ra xem thì trời đổ mưa to. Dân bảo nhau:
 những con diệc này do trời phái xuống để giúp dân làm mưa. Họ bèn nhặt 
xác chim, đắp thành một gò nhỏ. Ban đêm, dân lại thấy hàng trăm con diệc
 bay lên trời. Từ đó, dân chúng dựng lên nơi đây một ngôi chùa bằng 
tranh và đặt tên là chùa Diệc.
  
    
      |  Viên gạch Tam Thế Phật. Ảnh Cao Huy Hóa | 
  
Đẹp thế, dân dựng chùa, dân đặt tên. Như đặt tên con. Chùa là 
con đẻ của dân. Như nước vậy. Dân thương chùa như thương con đẻ, tôi 
biết chứ, nhưng tôi phải chạm mặt cụ thể với lòng thương ấy mới xúc động
 đến tận tim gan. Tôi đã xúc động như vậy, chảy nước mắt với hội trường,
 khi nghe một bà cụ già phát biểu, giọng run run như tắt tiếng: "Cả đời tôi - cụ nói -
 cả đời tôi chật vật nuôi con, nhưng đã cố dành dụm được một lượng vàng 
để góp phần xây lại chùa Diệc. Tôi không biết có còn sống để thấy lại 
chùa Diệc ngày xưa không, nhưng tôi căn dặn con cái, dù đói cũng không 
được lấy vàng mà tiêu, dù tôi có chết cũng không được lấy vàng làm tang 
ma, cứ giữ lượng vàng đấy đợi đến khi xây lại chùa Diệc".
Trong một chuyện tiền thân của Phật mà tôi chỉ còn nhớ mang máng đoạn
 đầu, có con chim nằm trong tổ với đàn con sơ sinh, bỗng khu rừng bốc 
cháy. Chim mẹ làm gì để cứu con? Nó bay xuống hồ nước bên cạnh, ngậm một
 giọt nước, tưới xuống lửa, rồi lại bay, rồi lại ngậm nước, rồi lại tưới
 cho đến khi kiệt sức. Nếu tôi phải viết lại đoạn cuối của chuyện, và 
nếu tôi lên mặt làm nhà thuần túy duy lý, tôi sẽ kể rằng, may quá, lính 
chữa lửa đã đến kịp để cứu khu rừng và cứu bầy chim. Nếu tôi cũng cứ 
muốn duy lý nhưng một nửa duy lý, một nửa tình cờ để câu chuyện hấp dẫn 
hơn, tôi văn chương thêm một chút: lửa từ xa lan đến khu rừng, nhưng lúc
 hỏa hoạn bắt đầu xảy ra thì trời đã bắt đầu vần vũ mây đen và mưa đã 
kịp đổ xuống khi lửa mấp mé bầy chim trong tổ.
Nhưng việc gì tôi phải duy lý? Việc gì tôi phải khoa học? Việc gì tôi
 không thấy cái hùng vĩ nơi giọt nước của con chim, việc gì tôi cho tính
 thiện đầu hàng tính ác, việc gì tôi không thấy thần đất, thần trời, 
thần sông, thần núi, thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp, thần nào 
cũng xúc động như bất cứ ai đang thấy con chim, việc gì tôi không kể 
chuyện cho bé thơ như mẹ tôi đã kể cho tôi, việc gì tôi cho chuyện thần 
tiên bay hết về trời, để lại chiếc nôi trống trơn tưởng tượng? Việc gì 
tôi không tưởng tượng chùa Diệc mọc lên trên lượng vàng của bà cụ già 
một buổi sáng khi dân chúng vừa thức dậy? Việc gì tôi không kể một 
chuyện thần tiên của thế kỷ thứ VII trong đó tất cả vàng bạc của thế 
gian bỗng biến thành đồng cả, chỉ riêng một giọt vàng của một bà cụ già 
đã chảy ra để trang hoàng bằng vàng một hộp đựng báu vật mà một con chim
 nhạn đã bay về báo cho biết đó là xá lợi của Phật?
Lượng vàng ấy chẳng phải là một chuyện thần tiên? Chẳng làm động lòng thần sông, thần núi của vùng đất địa linh nhân kiệt?
Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần