Chương 3
      Khoa 
      Học Thực Nghiệm Và Khoa Học Chiêm Tinh Bí Truyền
      
      Lawrence Keymakers là một người Anh giàu có, sống 
      tại Benares nhiều năm. Ông làm chủ nhiều xí nghiệp lớn và có một kiến thức 
      rất rộng về xứ này. Thương gia Lawrence khoản đãi phái đoàn trong toà biệt 
      thự rộng, xây cất bên bờ sông Hằng. 
      Sau câu 
      chuyện xã giao, giáo sư Allen lên tiếng : 
      - Bạn nghĩ 
      sao về những điều người Ấn gọi là Minh Triết thiêng liêng và những sự kiện 
      mê tín dị đoan xảy ra ngoài chợ ? 
      Lawrence lắc 
      đầu : 
      - Xứ này vẫn 
      có những trò biểu diễn như thế, nhưng ngoài những cái mà ta cho là ảo 
      thuật hoặc mê tín dị đoan còn ẩn náu những ý nghĩa tâm linh rất ít ai biết 
      được. Muốn tìm hiểu phải nghiên cứu cặn kẽ chứ không thể kết luận vội vã…
      
      Giáo sư 
      Oliver bật cười : 
      - Bạn cho 
      rằng những trò ngồi bàn đinh, thổi kèn gọi rắn còn ẩn dấu những ý nghĩ tâm 
      linh hay sao? 
      - Tùy tâm 
      trạng của mình mà xét đoán sự kiện, nếu ta nhìn nó dưới cặp mắt của người 
      Âu thì ta sẽ chỉ thấy nó là một trò múa rối, không hơn không kém, nhưng 
      nếu ta gạt bỏ các thành kiến, biết đâu ta chẳng học hỏi thêm được nhiều 
      điều. 
      Giáo sư Allen 
      châm biếm : 
      - Bạn ở Ấn đã 
      lâu, chắc đã học hỏi được nhiều điều mới lạ… 
      Lawrence mỉm 
      cười : 
      - Đúng thế, 
      tôi đã học hỏi rất nhiều và điều đầu tiên tôi học được là sự khiêm tốn. 
      Chỉ có sự khiêm tốn mới giúp ta học hỏi thêm những điều mới lạ. Các bạn 
      hãy nhìn ly nước đầy trên tay tôi đây, nếu tôi tiếp tục rót thêm thì nước 
      sẽ tràn ra ngoài. Trừ khi tôi đổ bớt nước trong ly đi thì tôi mới rót thêm 
      nước vào được. Kiến thức cũng thế, chỉ khi ta khiêm tốn gạt bỏ những thành 
      kiến có sẵn ta mới tiếp nhận thêm được những điều mới lạ. Các bạn muốn 
      nghiên cứu học hỏi những minh triết của xứ Ấn, nhưng vẫn giữ thành kiến 
      của người Âu, khinh bỉ mọi sự thì có khác chi ly nước đầy, làm sao rót 
      thêm nước vào được nữa ? 
      Mọi người im 
      lặng, câu nói thẳng của vị thương gia ít nhiều đã va chạm tự ái phái đoàn. 
      Dù sao họ cũng là những khoa học gia nổi tiếng nhất của Hoàng Gia Anh, lúc 
      nào cũng được nể vì, kính trọng. Để phá tan bầu không khí nặng nề, giáo sư 
      Morimer chỉ một hình vẽ lạ lùng treo trên tường : 
      - Đây là hình 
      vẽ gì vậy ? Trông như các tinh tú thì phải…? 
      - Bạn nói 
      đúng, đó là lá số tử vi của tôi. 
      Mọi người bật 
      cười, giáo sư Allen khôi hài : 
      - Lá số tử vi 
      ? Lawrence thân mến, bạn đã trở thành người Ấn hồi nào vậy ? 
      Lawrence 
      nghiêm mặt : 
      - Đây là một 
      món quả vô giá của Sudeih Babu, nhà chiêm tinh giỏi nhất Ấn độ. 
      Toàn thể phái 
      đoàn phá lên cười, vì nghĩ đến những gã thầy bói ngồi xổm bên lề đường. 
      Khắp xứ Ấn, chỗ nào cũng có thầy bói, thầy tướng kiếm ăn qua sự mê tín của 
      dân chúng. Đồ nghề của họ là một vài cuốn sách bẩn thỉu, vài niên lịch lạ 
      lùng. Họ tự hào có thể biết rõ số phận sang hèn mọi người, nhưng hình như 
      không biết gì về số phận của chính họ. 
      Lawrence lắc 
      đầu : 
      - Sudeih là 
      một vị thầy, một người thuộc giai cấp thượng lưu quý phái chứ không phải 
      loại thầy bói hạ cấp. Y nghiên cứu tử vi từ nhỏ và có thể biết trước nhiều 
      điều quan trọng. Các bạn muốn khảo cứu hiện tượng huyền bí sao không đến 
      gặp ỵ Biết đâu y chả giúp các bạn, Sudeih có thói quen là không bao giờ 
      tiếp khách lạ nhưng y là bạn thâm giao của tôi, tôi sẽ hết lòng giới 
      thiệu. 
      Giáo sư Allen 
      lắc đầu : 
      - Chúng tôi 
      muốn nghiên cứu nền văn minh xứ Ấn, chứ không phải xem vận mạng hên xui 
      tốt xấu. 
      Lawrence mỉm 
      cười bí mật : 
      - Như thế các 
      bạn lại càng phải đến gặp nhà chiêm tinh này. Các bạn nên nhớ dù muốn, 
      chưa chắc Sudeih đã chịu tiếp các bạn. Chính tiểu vương xứ Punjab đến xin 
      yết kiến ba ngày, ba đêm mà Sudeih cũng không thèm tiếp… 
      Nhà chiêm 
      tinh ở một biệt thự rộng lớn, quanh nhà trồng rất nhiều cây cảnh. Đã có 
      hẹn trước nên gia nhân mời tất cả mọi người vào trong phòng khách. Đó là 
      một căn phòng rất lớn, trang trí sang trọng như phòng một ông hoàng. 
      Sudeih Babu 
      là một người Ấn gầy gò, nhỏ bé, nhưng có một đôi mắt sáng ngời, chứng tỏ 
      một đời sống nội tâm dồi dào. Y di chuyển hết sức chậm rãi như một con mèo 
      và nói bằng một tiếng Anh rất đúng giọng và lịch sự : 
      - Keymakers 
      cho biết các ông muốn tìm hiểu về khoa chiêm tinh ? 
      Giáo sư 
      Oliver nói ngay : 
      - Xin ông 
      hiểu cho, chúng tôi muốn sưu tầm các hiện tượng huyền bí chứ không hoàn 
      toàn tin tưởng gì về môn này. 
      Babu im lặng 
      nhìn mọi người, y lạnh lùng : 
      - Nếu các ông 
      muốn, tôi có thể lấy lá số tử vi cho các ông. 
      Giáo sư 
      Oliver nghi ngờ : 
      - Xin ông 
      đừng dài dòng về tương lai và may rủi. Hãy nói thử về quá khứ của tôi xem 
      sao. 
      Babu gật đầu 
      hỏi giáo sư Oliver vài câu về ngày sinh rồi y phóng bút vẽ các ký hiệu lạ 
      lùng lên một tờ giấy. Y chậm rãi tuyên bố : 
      - Ông sinh 
      trưởng trong một gia đình thương gia. Từ nhỏ ông nuôi mộng hải hồ thích du 
      lịch, nhưng gia đình ông nghiêm khắc ngăn cấm. Thân phụ Ông muốn con mình 
      phải theo học về thương mại tại Oxford để nối nghiệp. Tuy nhiên, ông lại 
      có năng khiếu về khoa học, nên chỉ một thời gian ngắn ông đã chuyển qua 
      ngành Vật lý học. Cha ông giận quá, nhất định không giúp đỡ gì ông nữa. 
      Gia tài sự nghiệp truyền cho các em ông. Đến khi ông trở nên một khoa học 
      gia lỗi lạc của Hoàng Gia thì cha ông lại bắt ông trở về đi vào con đường 
      chính trị. Dưới áp lực gia đình, ông thành hôn với một thiếu nữ giòng dõi 
      quý tộc. Cuộc hôn nhân không mang lại hạnh phúc và ông vùi đầu trong phòng 
      thí nghiệm để tìm quên. Người vợ quen thói giao thiệp rộng đã phá nát tài 
      sản, sự nghiệp và còn ngoại tình. Cha ông buồn phiền, thất vọng qua đời. 
      Ông chịu đựng người vợ suốt 18 năm cho đến khi bà ta từ trần. Sau khi thu 
      xếp mọi việc, ông gia nhập phái đoàn với mục đích rời xa Luân- đôn và 
      thoa? mãn giấc mộng hải hồ. 
      Giáo sư 
      Oliver ngồi im không thốt lên một tiếng, chứng tỏ những điều Babu nói 
      không sai. Một không khí nặng nề bao trùm căn phòng. Babu lạnh lùng tiếp :
      
      - Ông có muốn 
      tôi nói thêm chi tiết hay nói về tương lai nữa không ? 
      Giáo sư 
      Oliver lắc đầu xua tay, mặt mày tái nhợt như người vừa trải qua một điều 
      gì kinh khủng. Giáo sư lên tiếng : 
      - Nhưng tại 
      sao các tinh tú ở xa lại ảnh hưởng đến từng cá nhân được ? 
      Babu thong 
      thả trả lời : 
      - Nếu tinh tú 
      ở xa quá thì khoa học thực nghiệm giải thích thế nào về ảnh hưởng của mặt 
      trăng đối với nước thuỷ triều lên xuống hoặc chu kỳ trong thân thể đàn bà 
      ? 
      - Nhưng nếu 
      tôi bị tai nạn thì điều đó ăn nhập gì đến các hành tinh. 
      Babu lắc đầu 
      mỉm cười : 
      - Các ông nên 
      nghĩ thế này, tinh tú chỉ là biểu tượng mà thôi. Tự nó không ăn nhập gì 
      đến chúng ta hết, mà chính cái dĩ vãng của ta đã ảnh hưởng đến đời sống 
      hiện tại. Tinh tú chỉ phản chiếu lại cái ảnh hưởng này mà thôi. Không ai 
      có thể hiểu khoa chiêm tinh nếu họ không tin luật Luân Hồi 
      (Reincarnation). Con người chết và tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Định 
      mệnh của y theo dõi và ảnh hưởng lên đời sống của y theo luật Nhân Qủa 
      (Karma – cause and effect). Nếu ta không tin con người chết đi và đầu thai 
      lại để học hỏi, để tiến hoá, để trở nên một người toàn thiện, thì mọi sự 
      đều là ngẫu nhiên hay sao ? Một thượng đế công bình, bác ái có lẽ nào dung 
      túng điều này ? Khi qua đời thể xác hư thối tan rã nhưng tính tình, dục 
      vọng, ý chí vẫn còn nguyên cho đến khi ta đầu thai vào một kiếp sống mới 
      thì những tính này sẽ trở nên cá tính (personality) của kiếp sau. Các hành 
      tinh chỉ là tấm gương ghi nhận các nguyên nhân này và phản chiếu trở lại. 
      Bất cứ một hành động nào cũng tạo nên một nguyên nhân dù xấu hay tốt, ví 
      như ta ném một trái bóng lên không trung. Trước sau gì nó cũng rơi xuống 
      vì trọng lượng và ảnh hưởng của sức hút trái đất, nhưng đến khi nào nó rơi 
      xuống còn tùy sức ném của ta nặng nhẹ ra sao. Khoa chiêm tinh nghiên cứu 
      các vũ trụ tuyến này để đoán được khi nào cái nguyên nhân trước sẽ trở 
      lại. Babu im lặng một lúc và thong thả giải thích thêm. Trước khi đi xa 
      hơn, tôi muốn các ông hiểu lịch sử chiêm tinh để có một cái nhìn thật đứng 
      đắn. Từ ngàn xưa, chiêm tinh học vẫn được coi là một khoa học quan trọng. 
      Chiêm tinh gia chỉ đứng ở địa vị thứ hai, sau Giáo sĩ mà thôi. Đối tượng 
      của khoa chiêm tinh là vũ trụ. Tiếc thay phần này đã bị thất truyền, chỉ 
      còn phần nhỏ nói về sự liên hệ giữa con người và các bầu tinh tú, còn được 
      lưu truyền đến nay và được xem là khoa bói toán. Khoa chiêm tinh có từ lúc 
      nào không ai biết, nhưng hiền triết Bhrigu đã truyền dạy các môn đồ của 
      ông vào khoảng 6000 năm trước. Nòng cốt của nó nằm trong bộ sách Brahma 
      Chinta, do ông soạn ra. Bhrigu có bốn đệ tử. Người thứ nhất rất giỏi về 
      khoa học đã đi sang Ba Tư (Iran) lập nghiệp, từ đó ngành chiêm tinh đi về 
      hướng Tây và ảnh hưởng đến Hy Lạp và La Mã sau này. Người thứ hai rất giỏi 
      về triết học đi về phương Đông, sang Trung Hoa truyền bá ngành này ở đây. 
      Người thứ ba thích nghiên cứu những hiện tượng siêu hình đã lên Tuyết Sơn 
      nhập thất và sau truyền môn này cho dân chúng Tây Tạng. Người thứ tư ở lại 
      xứ Ấn, và làm đến chức quốc sự Bộ sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo 
      cất trong cung điện. Sau này, các hoàng tử tranh cướp ngôi vua đã giành 
      nhau bộ sách quý. Sau mấy chục năm chinh chiến, bộ sách được phân chia làm 
      nhiều phần, mỗi ông Hoàng giữ một mảnh, và tứ đó khoa chiêm tinh trở nên 
      thất truyền - - Các mảnh vụn này đã được các thầy bói sưu tầm, ghi chép 
      lại để kiếm ăn , nhưng họ chỉ nắm một vài then chốt chứ không sao hiểu 
      hết. Như các ông thấy, căn nhà này rất lớn, gồm có 49 phòng, mỗi phòng đều 
      chứa đầy các sách vở do tôi sưu tầm. Tất cả gia tài sự nghiệp của tôi đều 
      được sử dụng để sưu tầm các sách cổ… Tôi xuất thân từ một gia đình hoàng 
      tộc nhưng tôi chỉ ham mê khoa chiêm tinh. Tôi bỏ ra mấy chục năm nghiên 
      cứu, theo học các vị chiêm tinh gia nổi tiếng cho đến khi sưu tầm được bộ 
      Brahma Chintạ Dĩ nhiên, bộ sách này nguyên bản mấy ngàn trang nhưng tôi 
      chỉ sưu tầm được có vài trăm trang và tốn gần 20 năm nghiên cứu nó. 
      Babu mỉm cười 
      nhìn giáo sư Oliver : 
      - Bạn Oliver 
      thân mến, lá số tôi lấy cho ông rất khác thường so với người Âu. Tin hay 
      không tùy ý bạn, đúng hay sai, chỉ bạn biết, nhưng tôi muốn nói thêm rằng 
      các nghiệp quả đã trả xong. Đời bạn đã bước vào một khúc quanh quan trọng. 
      Lá số cho thấy bạn đã đến bên thềm Đạo và sẽ được một sự dìu dắt của một 
      hiền giả. 
      Giáo sư 
      Oliver cảm động xiết chặt đôi tay gầy guộc của nhà chiêm tinh. Toàn thể 
      phái đoàn cũng xúc động không kém. Khi trưóoc họ đã nghi ngờ khoa bói 
      toán, nhưng sự kiện vừa xảy ra đã thay đổi tất cả. Không ai ngờ giáo sư 
      Oliver lại có một đời sống cá nhân bất hạnh như thế. 
      Babu đưa toàn 
      thể phái đoàn đi xem những căn phòng chứa sách với những tủ lớn chứa đựng 
      hàng ngàn cuốn sách cổ. Giáo sư Mortimer, một nhà khảo cổ học của trường 
      Harvard đã phải kinh ngạc trước kho tàng sách vở vô giá này. Có những bộ 
      sách viết trên lá buôn (payrus) cả ngàn năm trước, xen lẫn các tài liệu 
      khắc trên gỗ vào thế kỷ thứ 6. Toàn thể phái đoàn có cảm tưởng như phần 
      lớn kho Minh Triết xứ Ấn đều tập trung nơi đây. Giáo sư Mortimer lên tiếng 
      : 
      - Những sách 
      vở này nói về những gì vậy ? 
      - Đó là những 
      sách về vấn đề Tôn Giáo, Minh Triết Cổ Truyền, Triết Học Ấn độ. 
      - Như thế ông 
      cũng là một triết gia ? 
      Babu mỉm cười 
      : 
      - Một người 
      không hiểu về triết lý sẽ chỉ là một hạng chiêm tinh tồi hay thầy bói hạ 
      cấp. 
      - Ông có thu 
      nhận đệ tử không ? 
      - Có rất 
      nhiều người đến xin tôi dạy dỗ nhưng tôi từ chối vì thấy họ không đủ thiên 
      tư để lĩnh hội hay không đủ ý chí để đi đến cùng. Tôi nghĩ mình chưa đủ 
      sức làm thầy ai hết mà chỉ là một người ham mê nghiên cứu, cũng như các 
      ông là những khoa học gia say mê kiến thức khoa học. 
      - Nhưng ông 
      cũng dùng chiêm tinh để hướng dẫn đời mình chứ ? Ông có thể xem được quá 
      khứ vị lại kia mà. 
      Babu lắc đầu 
      : 
      - Không đâu, 
      tôi đã tìm thấy ánh sáng Chân Lý, và không cần đến khoa chiêm tinh nữa. 
      Khoa học này chỉ hữu ích cho những kẻ còn lần mò trong bóng tối. Tôi đã 
      hoàn toàn trao trọn đời mình vào tay thượng đế (brahman). Không còn lo 
      nghĩ, ưu phiền gì về tương lai nữa. Bất cứ điều gì xảy ra tôi cũng chấp 
      nhận như ý muốn của Ngài. 
      - Nếu ông bị 
      kẻ hung dữ hãm hại làm lâm nguy tính mạng thì ông có cho đó là thiên ý 
      không ? Ông sẽ làm gì để tự vệ chứ ? 
      - Tôi biết 
      rằng trong khi nguy cấp chỉ cần cầu nguyện là đủ. Cầu nguyện là cần thiết 
      vì lo âu chẳng ích gì. Nhiều khi tôi gặp khó khăn, lúc đó tôi ý thực sự 
      giúp đỡ của thượng đế hơn bao giờ hết. Các bạn có biết rằng tôi đã xé bỏ 
      lá số tử vi của mình từ khi tìm thấy ánh sáng Chân Lý. Tôi tin chắc rằng 
      con người có thể cải tạo tinh thần để hoà hợp với thượng đế, còn các việc 
      xảy ra do hậu quả của quá khứ ta không thể thoát được thì lo lắng có ích 
      gì ? 
      Ý niệm về 
      thượng đế là điều phái đoàn luôn luôn nghe nói đến, người dân Á châu có 
      một tinh thần tôn giáo rất mạnh, tôn sùng thượng đế quá nhiệt thành. Họ 
      đâu hiểu rằng người Âu vốn có óc hoài nghi, thường thay thế cái đức tin 
      đơn giản bằng cái lý trí phức tạp. Làm sao họ có thể hiểu rằng thượng đế 
      chỉ là một quan niệm, một giả thuyết cũng như trăm ngàn giả thuyết khác 
      nghĩa là cần phải chứng minh cụ thể. 
      Babu mỉm cười 
      như đọc được ý nghĩ mọi người : 
      - Này các 
      bạn, cái lý trí tự cao tự đại của con người không có ích gì cả. Chỉ khi 
      nào họ đạt đến trạng thái tĩnh lặng của tâm hồn, họ mới ý thức các luật 
      huyền bí vũ trụ và sự nhỏ bé của con người. Khi tách khỏi trạng thái u mê 
      của lý trí, họ mới ý thức sự an lạc tuyệt vời khi hoà hợp với thượng đế.
      
      Giáo sư Allen 
      lắc đầu : 
      - Tại sao ông 
      không nghĩ rằng đó là một ảo ảnh ? Một sự tưởng tượng ? 
      Babu bật cười 
      : 
      - Này các 
      bạn, một bà mẹ sinh con có khi nào lại nghi ngờ rằng đứa con đó không có 
      thật. Khi hồi tưởng lúc lâm bồn, có khi nào bà ấy cho rằng đó chỉ là một 
      sự tự kỷ ám thị ? Khi nhìn đứa con mỗi ngày một lớn khôn làm sao bà mẹ lại 
      nghĩ rằng đứa bé không hiện hữu? Sự giác ngộ tâm linh là một biến cố vô 
      cùng quan trọng trong đời người, mà không ai có thể quên được vì từ đó, 
      con người hoàn toàn thay đổi, trở nên một người mới. 
      Babu liếc mắt 
      nhìn toàn thể phái đoàn, tất cả đều là những giáo sư, khoa học gia danh 
      tiếng nhất… Y mỉm cười tuyên bố : 
      - Chúng ta 
      chỉ mới ở vào buổi bình minh của khoa học, nhưng mỗi khám phá mới, mỗi 
      kiến thức mới, đều đem lại cho chúng ta một bằng chứng rằng, vũ trụ này là 
      công trình của một đấng hoá công. Hãy lấy một thí dụ toán học cho dễ hiểu. 
      Nếu ta bỏ vào túi 10 thẻ nhỏ, mỗi thẻ có ghi từ số 1 đến số 10, và tuần tự 
      rút ra từng cái một. Sau khi rút xong ta lại bỏ thẻ vào túi, trộn đều và 
      rút ra lần nữa. Làm sao ta có thể rút tuần tự từ số 1 đến số 10? Theo toán 
      học, ta phải rút mười lần, mới có một lần rút được thẻ mang số 1. Phải rút 
      100 lần mới có một lần rút được số 1 và 2. Phải rút 1000 lần mới được số 
      1, 2, 3 liên tiếp. Nếu muốn rút theo thứ tự từ 1 đến 10, thì trường hợp 
      đặc biệt này chỉ có thể xảy ra một lần trong mười tỷ lần, có đúng không ? 
      Nếu áp dụng toán học vào các điều kiện tạo đời sống ở quả đất này, thì ta 
      thấy nguyên lý ngẫu nhiên không sao hội đủ các điều kiện cần thiết. Vậy 
      thì ai đã tạo ra nó ? Trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1600 cây 
      số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu nó quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài 
      gấp 10 và dĩ nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia tăng gấp 10 lần. Thế thì 
      cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết còn gì. Nếu cái gì chống được sức 
      nóng cũng chết lạnh vì đêm cũng dài ra gấp 10 và sức lạnh cũng tăng lên 
      gấp 10 lần kia mà. Ai đã làm trái đất quay trong một điều kiện tốt đẹp như 
      thế ? Mặt trời là nguồn sống của quả đất phải không ? Mặt trời nóng khoảng 
      5500 độ bách phân. Quả địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá mà 
      cũng không gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời. Nếu sức 
      nóng mặt trời gia tăng một chút, ta sẽ chết thiêu, và ngược lại nếu sức 
      nóng mặt trời giảm đi một chút, ta sẽ chết rét. Tại sao trái đất nằm ở 
      điều kiện thuận lợi như vậy ? Trục trái đất nghiêng theo một toa độ là 23 
      độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không nghiêng theo bên nào thì sẽ không có 
      thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đồng thành băng giá 
      cả. Mặt trăng là một vệ tinh của trái đất, điều khiển thuỷ triều biển cả. 
      Nếu nó không cách xa trái đất 380 000 cây số mà xích lại gần hơn 80 000 
      cây số thì một cuộc hồng thuỷ sẽ xảy ra. Nước sẽ bị sức hút dâng lên ngập 
      tất cả các lục địa mỗi ngày hai lần. Tóm lại tất cả mọi đời sống trên mặt 
      địa cầu sẽ biến mất, nếu các điều kiện sai lệch đi một lỵ Nếu nói rằng đời 
      sống chỉ là một sự ngẫu nhiên thì trong tỷ tỷ lần may ra mới có một điều 
      kiện tốt đẹp hoàn toàn để có được sự sống như thế. 
      Babu quay 
      sang nhìn giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của trường Harvard : 
      - Nếu toán 
      học xem có vẻ trừu tượng quá, hãy thử quan sát thiên nhiên dưới cái nhìn 
      của khoa sinh vật học (Biology) xem sao. Với khả năng sinh tồn của mọi 
      vật, ta thấy sự hiện diện của tạo hoá rất chu đáo. Sự sống không có sức 
      nặng hay bề đo mà mạnh mẽ làm sao. Bạn hãy nhìn một rễ cây non nớt, mềm 
      yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục 
      không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan 
      rã rồi lại kết hợp thành các hình thể mới. Sự sống là nhà điêu khắc nặn 
      thành những hình thể mới lạ, là hoa. sĩ vẽ những cảnh vật thiên nhiên tô 
      điểm cho tạo hoá. Sự sống cũng là nhạc sĩ dạy chim hót thánh thót, dạy côn 
      trùng ngân nga, là nhà hoá học chế các hương thơm, quả ngọt. Sự sống từ 
      các loài thảo mộc thu hút thán khí biến thành dưỡng khí nuôi muôn loài. 
      Hãy nhìn những giọt nguyên sinh chất (protoplasm) trong suốt gần như vô 
      hình, mắt ta không thể nhìn thấy, mà nó di động nhờ hấp thụ sinh khí thái 
      dương. Chính cái tế bào đơn độc này chứa mầm sống của muôn loài, và là cội 
      nguồn của toàn sự sống theo khoa học thực nghiệm. Tự nó không tạo ra sự 
      sống vậy thì sự sống ở đâu đã đến . Này các ông bạn, cá hồi (salmon) sinh 
      ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi trưởng 
      thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh quán, nó 
      bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác, 
      nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một cách chắc chắn như 
      vậy ? Loài lươn biển cũng thế, chúng rời sinh quán từ các ao hồ, sông lạch 
      khắp nơi trên thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần 
      đảo Bermudạ Muốn đến đây, một con lươn Âu châu phải đi gần 4000 cây số, 
      lươn Á châu phải đi xa hơn, có khi gần 8000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới 
      sinh sản và chết. Các con lươn con sinh ra tại đây không biết gì về sinh 
      quán mà vẫn trở về quê hương xa xôi của cha mẹ chúng nó. Biết tìm về một 
      cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Nam dương. Giống nào về nhà giống đó, một 
      con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn độ và một con lươn giống Thái lan 
      không bao giờ đi lạc sang Phi châu. Ai đã ban cho loài lươn nguồn cảm kích 
      phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên đường phiêu 
      du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không các bạn 
      ? 
      Toàn thể phái 
      đoàn kinh ngạc trước kiến thức quảng bác của nhà chiêm tinh gầy gò, bé 
      nhỏ. Không ai ngờ một xứ chậm tiến như Ấn độ lại có một nhà bác học uyên 
      thâm như vậy. Babu mỉm cười nói tiếp : 
      - Có lẽ các 
      ông còn nhiều phân vân, thôi được hãy nói về yếu tố di truyền cho thực tế 
      hơn. Yếu tố này là một mầm sống nguyên thuỷ rất nhỏ chứa đựng trong tất cả 
      các tế bào. Mọi sinh vật đều có đặc điểm di truyền khác nhau. Yếu tố này 
      cho ta thấy rõ sự sống đã được trù định từ trước vì một cái cây sẽ tạo ra 
      một cái cây, chứ không phải con vật. Từ các loại sinh vật bé nhỏ như con 
      kiến đến các loài sinh vật to lớn như cá voi đều chịu sự chi phối của yếu 
      tố này. Điều này chắc chắn không phải ai nghĩ ra hay ngẫu nhiên phải không 
      ? Chỉ có đấng sáng tạo mới có đủ quyền năng làm các việc đó. Này các bạn, 
      khắp nơi trong vũ trụ đâu đâu cũng có một sự quân bình tuyệt đối, không 
      loài nào lấn át loài nào. Hãy nhìn loài côn trùng, chúng sinh sản rất 
      nhanh mà sao không chiếm quả đất ? Ấy là vì chúng không có bộ phổi như 
      loài có vú (mammal). Chúng thở bằng khí quản (trachea) và khi chúng lột 
      xác lớn lên, khí quản không lớn theo nên thân thể chúng bị giới hạn trong 
      khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm lý trí. Bản năng con 
      thú tuy kỳ diệu, nhưng bị giới hạn. Bộ Óc con người tuyệt vời ở chỗ nó có 
      thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn quan niệm sự hiện hữu của thượng đế, 
      cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người mới có. Ta có thể gọi nó là 
      trí tưởng tượng cũng được, nhưng nhờ nó mà con người mới thu nhận các sự 
      kiện vô hình, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở cho ta một chân trời bao la và 
      nhờ thế ta mới ý thức một thực tại tuyệt diệu rằng thượng đế là tất cả, 
      ngài ở khắp mọi nơi, nhưng không ở đâu ngài hiện rõ như trong tâm hồn 
      chúng ta. 
      Toàn thể phái 
      đoàn yên lặng, thán phục những dẫn chứng hoàn toàn khoa học và giản dị của 
      nhà chiêm tinh. Vài giờ trước đây, ai cũng nghi ngờ khả năng của “gã thầy 
      bói”; nhưng hiện giờ mọi người đều công nhận y là một nhà bác học với kiến 
      thức uyên bác không thua ai. 
      Babu mỉm cười 
      nhìn tất cả mọi người và nói : 
      - Là khoa học 
      gia, các ông hãy suy nghĩ về những điều tôi vừa trình bày. Hãy quan sát vũ 
      trụ, hãy dẹp bỏ các thành kiến sẵn có, và sự ngông cuồng của khoa học thực 
      nghiệm, rồi các ông sẽ thấy tất cả đều diễn ra trong một trật tự, mỹ lệ và 
      điều hoà. Các ông sẽ ý thức sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ bao la vì 
      khoa học xây dựng trên căn bản của giác quan vốn rất giới hạn, sao có thể 
      cảm xúc vũ trụ được ? Nếu ta cứ khăng khăng cho rằng những cái gì không 
      nghe được, không nhìn được, đều không hiện hữu thì thật là một sai lầm tai 
      hại. Có biết bao nhiêu sự kiện xảy ra mà giác quan giới hạn không thể cảm 
      nhận, cho đến một ngày nào họ khai mở các giác quan khác…. 
      - Làm sao ông 
      biết như thế ? 
      - Tôi đã 
      nghiên cứu trực tiếp các vấn đề này trong khi Thiền định. Các sách vở bí 
      truyền cũng đều nói rất rõ như vậy… 
      Giáo sư 
      Mortimer hấp tấp : 
      - Chúng tôi 
      có thể nghiên cứu hay phiên dịch những sách này không ? 
      Babu mỉm cười 
      : 
      - Liệu ông có 
      muốn bỏ ra vài chục năm để phiên dịch không ? Sách vở huyền môn đâu phải 
      loại sách phổ thông để mọi người coi chơi. Theo tôi hiểu thì chỉ một thiểu 
      số người thích nghiên cứu nó vì trong tiền kiếp họ đã có những hứng khởi 
      tâm linh, đã từng nghiên cứu vấn đề này, đã có đủ trí tuệ để xét suy một 
      cách tường tận. Họ là những ngườ iđã đến bên thềm Đạo và sắp bước vào. Chỉ 
      những người này mới thích thú để tâm nghiên cứu những quyển sách khô khan 
      như những sách trong nhà tôi. 
      Toàn thể phái 
      đoàn im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng nhưng tất cả đều đồng ý 
      rằng nhà chiêm tinh nói không sai. Giáo sư Allen lên tiếng : 
      - Tại sao 
      thấy ánh sáng Chân Lý rồi mà ông vẫn tiếp tục hành nghề chiêm tinh. Tại 
      sao ông còn chỉ vẽ cho người đời quá khứ, vị lai ? 
      Babu hãnh 
      diện tuyên bố : 
      - Tôi sống và 
      phụng sự thế gian bằng nghề nghiệp này. Đâu phải ai tôi cũng tiếp. Dù bạn 
      là tiểu vương hay thủ tướng. Nếu thấy bạn không có tâm hướng thiện, sửa 
      đổi thì không đời nào tôi hé môi nói một điều gì. Biết bao người đã đến 
      cổng, nhưng mấy người vào được đến đây. Cách đây ít lâu, một tiểu vương 
      cho khuân đến một rương ngọc chỉ để hỏi tôi một điều nhưng tôi không trả 
      lời. Nếu không nhận được một thông điệp bằng tư tưởng thì dễ gì tôi tiếp 
      các ông và nếu không xem qua lá số của giáo sư Oliver , dễ gì tôi tiết lộ 
      các bí mật cho những người lạ, nhất là người Âu Mỹ. Từ xưa đến nay, khoa 
      chiêm tinh vẫn bị người đời hiểu lầm và diễn tả sai lạc rất nhiều. Nhờ 
      nghiên cứu bộ sách nguyên thuỷ Brahma Chinta nên tôi có thể nói cho các 
      ông biết chút ít về khoa học này, với hy vọng sẽ đánh đổ phần nào thành 
      kiến sai lầm của người Âu. Khi sinh ra đời, mỗi cá nhân đều mang sẵn một 
      tài sản khác nhau, đó là Nghiệp Báo. Tài sản này có thể tốt đẹp do các 
      nguyên nhân hợp với thiên ý hoặc xấu xa bởi các lỗi lầm trong tiền kiếp. 
      Tất cả nguyên nhân này đều chứa chấp trong Tàng thức hoặc A-lạiđa-thức 
      (alaya-vijnana), và trở nên một động lực chi phối đời tạ Động lực này được 
      phân phối bởi các mãnh lực trong vũ trụ một cách vô cùng phức tạp, và biến 
      thành một thứ gọi là Vũ trụ tuyến (cosmic rays). Những vũ trụ tuyến này 
      không ồ ạt ảnh hưởng đến ta ngay, mà tùy theo sự thay đổi của tinh tú để 
      phản chiếu xuống trần gian. Điều này rất hợp lý vì trải qua vô lượng kiếp 
      sống, con người đã làm biết bao điều xấu xa, đâu thể nào trong vài ba kiếp 
      mà trả hết được. Đó cũng là lý do con người cứ trầm luân trong luân hồi 
      sinh tử. Chiêm tinh học nghiên cứu sự xê dịch, vận hành của tinh tú mà 
      đoán biết được các ảnh hưởng con người trong kiếp sống này. Nhờ nghiên cứu 
      chiêm tinh mà người ta hiểu rõ rằng không hề có một Đấng Thần Linh thưởng 
      phạt hay kiểm soát các hành động của tạ Tất cả chỉ là hậu quả của những gì 
      do ta tạo nên và phải gánh chịu. 
      - Nhưng chính 
      ông đã đề cập đến thượng đế và sự hiện hữu của ngài kia mà? 
      Babu bật cười 
      : 
      - Các ông vẫn 
      còn quan niệm rằng thượng đế là một ông già ngồi trên cao nắm quyền sinh 
      sát, định đoạt số phận con người – đó là một quan niệm rất ấu trĩ. Thượng 
      đế cao cả hơn nhiều, ngài sáng tạo và đặt tất cả vào một trật tử trong vũ 
      trụ. Làm gì có việc ngài định đoạt số phận từng người như các ông nghĩ. 
      Tất cả diễn tiến theo luật vũ trụ, nhân nào quả nấy, một lực nào cũng có 
      một phản lực đi kèm đó là khoa vật lý chứ đâu phải gì xa lạ ? Làm gì có 
      việc số mệnh đã định sẵn, nếu thế ta cứ tiêu cực, bất động mặc cho số phận 
      run rủi hay sao ? Này các ông bạn, chiêm tinh học là một khoa học thực 
      tiễn và tiến bộ, không thể có vấn đề mê tín. Lá số tử vi không có nghĩa là 
      con người chỉ là nô lệ của quá khứ mà chỉ cho ta thấy rõ sự tuần hoàn của 
      vũ trụ mà trong đó con người có thể thay đổi tính mạng. Chiêm tinh học 
      nghiên cứu phản ứng của con người dưới ảnh hưởng tinh tú. Các tinh tú chỉ 
      là những khí cụ trung gian biểu lộ một cách trung thực các tác động quân 
      bình của nghiệp quả gây nên trong quá khứ. Mỗi người sinh ra đời vào một 
      ngày giờ mà ảnh hưởng của tinh tú hoà hợp với nghiệp quả cá nhân của ỵ Các 
      vũ trụ tuyến được tinh tú phản chiếu xuống làm mạch máu di chuyển, tế bào 
      thay đổi, dĩ nhiên ảnh hưởng đến cuộc đời con người . Mặc dù con người 
      không thể thay đổi việc đã xảy ra trong quá khứ, nhưng nhờ ý chí tự do, y 
      có thể vượt khỏi tầm ảnh hưởng này và chiến thắng ảnh hưởng tinh tú. Tôi 
      lấy một thí dụ như thương gia Keymakers, bạn của các ông. Đáng lý theo số 
      mạng thì ông ta phải chết trong cuộc chiến vừa quạ Nhưng vì một mầm thiện 
      nẩy sinh, thấy chiến tranh quá ư tàn khốc, ông động lòng trắc ẩn mang tài 
      sản ra giúp đỡ rât nhiều nạn nhân chiến cuộc. Dĩ nhiên, khi đó ông ta 
      không hề biết gì về số mạng của mình, nhưng hành vi bác ái này đã tạo một 
      phản lực mạnh mẽ thúc đẩy các vũ trụ tuyến xê dịch sang một bên và nhờ thế 
      ông ta thoát chết. Số mạng của ông ta hoàn toàn thay đổi từ đó. Các ông 
      hiểu rằng hoán cải số mạng không có nghĩa việc quá khứ sẽ bị xoá bỏ, nhưng 
      đáng lý một biến cố lớn sẽ xảy ra trong kiếp này, lại không xảy ra. Khi ta 
      phát tâm làm một việc hợp với thiên ý thì một ảnh hưỏong tinh tú bỗng chói 
      sáng và các từ điện mạnh mẽ đẩy ngược luồng vũ trụ tuyến sang hướng khác. 
      Do đó, con người có thể cải số mệnh dễ dàng, nếu biết làm các việc tốt 
      lành, đẹp đẽ. Dĩ nhiên , ảnh hưỏong xấu không mất đi, nhưng sẽ tiềm ẩn, 
      chờ một cơ hội khác sẽ phát hiện lại. Nói một cách khoa học thì đời người 
      có thể ví như một phương trình toán học, A * B bằng C. A và B là nguyên 
      nhân và C là hậu quả, nhưng nếu tta thêm vào đó một nguyên nhân X thì A * 
      B * X sẽ không thể bằng C nữa, vì đã có thêm nguyên tố X. Đó là nguyên lý 
      hoán cải số mạng mà tôi vừa trình bày. Đời người thực ra đã ghi khắc trên 
      tinh tú nhưng các tinh tú khi sáng khi mờ, và sự mờ tỏ do chính ta quyết 
      định. Khi ta có các hành vi xấu xa nó tạo ra những động lực xấu và số thu 
      hút các điều xấu ghi khắc trên tinh tú, phản chiếu xuống mau lẹ hơn. Dĩ 
      nhiên hậu quả không thể lường. Trái lại, nếu ta ý thức điều này, phát tâm 
      làm việc hữu ích tự nhiên phát sinh các động lực tốt đánh bật các ảnh 
      hưởng xấu sang một bên. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh học một cách đứng đắn, 
      khoa học, con người sẽ hiểu biết mệnh trời, biết tin tưởng ở mình, và sống 
      cuộc đời thoải mái, không bi quan, không lạc quan, an vui tự tại. 
      - Như thế 
      người đi trên đường Đạo, sẽ gặp gì khi đã có nghiệp quả xấu ? 
      - Nghiệp quả 
      xấu ví như một án treo, bất động, nhưng không ai có thể tránh được nó. Đối 
      với những người đã vào cửa Đạo, đã hiểu biết thì họ lại cầu xin được trả 
      quả cho lẹ. Tuy họ không gây các nhân xấu nữa, nhưng họ đủ can đảm để chịu 
      đựng nghiệp quả. Có thế họ mới rút ngắn thời gian trong sinh tử luân hồi. 
      Hiểu biết mệnh trời để sống thoải mái chính là mục đích của khoa chiêm 
      tinh chân chính. 
      Babu im lặng 
      suy nghĩ. Sau cùng, y bước đến một tủ lớn mang ra một cái hộp nạm vàng rất 
      đẹp. Trong hộp chứa một quyển sách cổ viết trên lá buôn (papyrus), y long 
      trọng tuyên bố : 
      - Đây chính 
      là một phần của bộ Brahma Chinta mà tôi sưu tầm được. Các ông nên biết 
      huyền môn có hai phần. Công truyền (exoteric) và bí truyền (esoteric). 
      Loại bí truyền chỉ được dạy cho các đệ tử đã bước vào cửa Đạo, đã được 
      tuyển chọn rất kỹ. Hiền triết Bhrigu chỉ truyền cho 4 đệ tử bộ sách này. 
      Tôi tiếc rằng mẫu nhỏ này còn nhiều thiếu sót và rất khó hiểu, mất hơn 20 
      năm nghiên cứu, mà tôi chỉ hiểu chút ít thôi. Gặp gỡ các bạn bữa nay là 
      một nhân duyên hiếm có, tôi xin dịch vài trang để làm quà cho các bạn : “ 
      Vạn vật trong vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều được sắp hạng và 
      phân loại theo quy mô của số 7. Tất cả mọi hình thức sinh hoạt trong dãy 
      hành tinh hiện tại đều thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 
      49 nhóm . Toàn thể Thái dương hệ của chúng ta đều là sự biểu lộ của thượng 
      đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của ngài. Ngoài ra có 7 vị tinh 
      quân (logo) mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này chỉ là những 
      trung tâm thần lực, những con đường vận hà để thần lực thượng đế ban rãi 
      ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí tương ứng với 
      ba cõi giới Hạ giới ,Trung giới, và Thượng giới. Thượng đế cũng thế, tất 
      cả vật chất trong Hạ giới hợp thân thể xác của ngài . Tất cả vật chất cõi 
      Trung giới hợp thành vía của ngài, và tất cả vật chất cõi Thượng giới hợp 
      thành thể trí của ngài. Tóm lại, tât cả đều là thành phần của thượng đế từ 
      hạt bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta 
      đều là một phần của thượng đế xuyên qua 7 cung – khi qua đây nó bị thay 
      đổi ít nhiều, tùy ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt 
      người nào chịu ảnh hưởng cung nào tùy số lượng nguyên tử cấu tạo xuất phát 
      từ cung liên hệ.” 
      Babu nhìn mọi 
      người thấy họ có vẻ ngơ ngác. Y mỉm cười giải thích : 
      - Đề tài này 
      rất khó hiểu, thôi để tôi giải thích rộng ra vậy. Nói theo danh từ Thiên 
      chúa giáo thì 7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh (vision) của 
      Thánh Jean. Sách khải huyền 4.5 nói rõ, “có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó 
      là 7 vị đại thiên thần của chúa trời”. Lúc khởi thuỷ, mọi người chúng ta 
      đều là thành phần của thượng đế, nghĩa là cùng bắt nguồn từ một nơi. Sau 
      đó, chúng ta tách rời ra, xuyên qua 7 con đưòong vận hà này. Theo sự hiểu 
      biết của tôi, thì 7 con đưòong biểu lộ 7 đức tính của thượng đế, qua 7 vị 
      tinh quân. Vị thứ nhất là thiên thần Michael (sức mạnh), liên hệ đến hoa? 
      tinh. Vị thứ hai là Gabriel (toàn tri) liên quan đến thuỷ tinh. Vị thứ ba 
      là Raphael (quyền năng) liên quan đến thái dương. Vị thứ tư là Uriel (ánh 
      sáng) liên quan đến mặt trăng. Vị thứ năm là Zakiel (hảo ý) liên quan đến 
      mộc tinh, còn hai vị kia là Jophiel và Samuel thì tôi không biết rõ hành 
      tinh liên hệ. Khoa học thực nghiệm tinh rằng các hành tinh đều là sự kết 
      hợp ngẫu nhiên của vật chất. Nếu là ngẫu nhiên tại sao chúng nằm ở các vị 
      trí nhất định trong vũ trụ, và di chuyển theo một quỹ đạo cố định ? Mọi 
      vật dường như tuân theo một định luật thiên nhiên, nhưng đằng sau định 
      luật đó luôn luôn có một sức mạnh thiêng liêng cai quản. Tôi cố gắng dùng 
      tên các vị thiên thần và danh từ Thiên chúa giáo để giải thích cho các ông 
      . Điều này có thể được diễn tả khác đi tùy theo quan niệm tôn giáo, văn 
      hoá; nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa chiêm tinh phải đi ngược về 
      nguồn cội. Con người từ một chốn nguyên thuỷ ví như nước cùng một nguồn 
      chảy theo bảy dòng suối khác nhau để ra biển. Mỗi dòng suối sẽ mang một 
      tính chất khác nhau, do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều. 
      Loài người có thể phân biệt ra 7 đức tính rõ rệt tùy theo con đường vận hà 
      mà họ trải quạ Chiêm tinh nghiên cuú con người và ảnh hưởng hành tinh đến 
      các tính nết nhất định. Cũng như khoa Sinh lý học phân biệt con người qua 
      tính chất nồng nhiệt, lãnh đạm, bạch huyết chất hay đa huyết chất. Thực ra 
      đó chỉ là các phương pháp khác nhau để trình bày tính chất con người. Dĩ 
      nhiên không dễ gì tìm ra cung của mỗi người vì y đã đi sâu trong luân hồi 
      sinh tử, tạo các nghiệp quả phức tạp, và những nguyên nhân này chế ngự, 
      ảnh hưởng đến tính tình y rất nhiều. Chỉ với sự khai mở các giác quan như 
      Thần nhãn hay có một kinh nghiệm sâu xa về huyền môn, ta mới có thể biết 
      rõ họ thuộc cung nào. Nếu một người biết rõ cung của mình và tiếp tục trau 
      dồi bản tính sẵn có, thì y sẽ tiến bộ rất nhanh, vì khí cụ hữu hiệu nhất 
      là phương pháp thuộc về cung liên hệ. Thí dụ như người có khiếu về âm nhạc 
      lại cứ học toán. Không phải y sẽ không tiến bộ gì, nhưng nếu đi về âm nhạc 
      y sẽ tiến nhanh hơn vì hợp với khả năng hơn. Sự hiểu biết mình là ai, có 
      những khả năng tiềm ẩn nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính xác. Đó mới 
      là mục đích của khoa chiêm tinh. Đa số con người hành động không ý thức, 
      chịu ảnh hưỏong ngoại cảnh, nên luôn bất mãn, không thoải mái. Họ tự đóng 
      kịch với chính mình, hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ không thích hợp. 
      Trong Kinh thánh có câu, “nếu các ngươi không hồ nhiên như trẻ con, các 
      ngươi không thể vào nước thiên đàng”. Điều này khuyên ta nên sống thật với 
      chính mình. Chiêm tinh học có thể giúp ta biết ta là ai, thích hợp với 
      nhũung công việc gì ? Sự nghiên cứu chiêm tinh như thế mới gọi là đứng đắn 
      chứ không phải chỉ xem quá khứ, vị lai, may rủi. 
      - Làm sao con 
      người có thể biết họ thích hợp với cung nào ? 
      - Một nhà 
      chiêm tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá nhân liên hệ với cung 
      nào, điều này đòi hỏi rất nhiều thời giờ, kinh nghiệm. Một phương pháp 
      khác là hãy nhìn hành động mỗi người . Người thuộc cung 1 sẽ đạt đến mục 
      đích bằng sức mạnh ý chí. Người thuộc cung 2, phân tích kỹ lưỡng vấn đề để 
      lựa chọn phương pháp nào hữu hiệu nhất. Người thuộc cung 3 nghiên cứu rất 
      kỹ về thời gian, giờ khắc thuận lợi nhất v..v… Một thí dụ khác như trong 
      việc chữa bệnh, người cung 2 sẽ tìm hiểu nguyên nhân và phương pháp nào 
      thích hợp nhất để chữa bệnh, khi người ở cung 3 sẽ nghiên cứu thời gian 
      nào thuận lợi để chữa. Người ở cung 6 sẽ tìm cách chữa bệnh bằng đức tin. 
      Người thuộc cung 7 sẽ chữa bằng các nghi lễ, cúng tế, v..v.. Tuy 
      nhiên,cách tốt hơn hết là tự mình, xét lấy mình. Hãy dẹp bỏ những điều 
      mình vẫn khoác lên bản ngã như danh vọng, địa vị, ham muốn. Hãy thành thật 
      với chính mình thì ta có thể xem được mình thuộc về cung nào. Nếu ta là 
      người có ý chí mạnh mẽ, cương quyết làm việc trong tinh thần khoa học thì 
      có lẽ ta ở cung 1. Nếu là người khôn khéo, thích lý luận và làm việc một 
      cách hiệu quả thì có lẽ ở cung 2. Nếu là người nhạy cảm, thích hoạt động 
      xã hội, từ thiện thì có lẽ ta thuộc cung 5. Nếu là người có đức tin mạnh 
      mẽ, cẩn thận, có thể ta thuộc cung 7, v..v… Đề tài các cung rất khó giải 
      thích trong một thời gian ngắn. Tôi chỉ có thể nói vắn tắt thôi. Cái vật 
      chất sơ khai nguyên thuỷ bắt đầu tiến hoá qua 7 con đường vận hà hay 7 đức 
      tính quan trọng. Chỉ khi nào con người phát triển toàn vẹn cả 7 đức tính 
      này, y sẽ trở nên toàn thiện. Dĩ nhiên , chúng ta đều bất toàn dù mỗi cá 
      nhân đã nảy nở các đức tính cần thiết căn bản. Người Âu tây đã khai mở rất 
      nhiều khả năng suy luận, khoa học, nhưng thiếu khả năng sùng tín, bác ái. 
      Vì lý trí nảy nở nhiều hơn tình cảm nên họ có vẻ thiếu thiện cảm, lạnh 
      lùng, thích chống báng thay vì dung hoà. Trong khi đó, người Á châu phát 
      triển mạnh mẽ về sự sùng tín, bác ái, nhưng thiếu khả năng suy luận, để 
      tình cảm chi phối nên họ có vẻ chịu đựng, nhượng bộ, khoan dung, dễ dãi. 
      Cả hai đều không quân bình tuyệt đối, nên trong tương lai sẽ có các biến 
      chuyển mạnh, xáo trộn để cả hai dân tộc có dịp học hỏi, hoà hợp với nhau.
      
      Babu im lặng 
      suy nghĩ một lúc rồi trầm giọng : 
      - Trong cuộc 
      đời nghiên cứu sách vở bí truyền của các tôn giáo, tôi không hề thấy có sự 
      khác biệt giữa các giáo lý, nếu không nói là giống hệt nhau. Tiếc thay, 
      con người chỉ thích đi tìm sự khác biệt để chỉ trích, phê bình và càng 
      ngày càng đi xa đến chỗ vô minh cùng cực. 
      - Nhưng các 
      tôn giáo có khác biệt nhau chứ ? 
      Babu nhẹ 
      nhàng : 
      - Này các 
      bạn, mỗi quốc gia có phong tục, tập quán riêng biệt. Mỗi thời buổi đều có 
      các thay đổi, giá trị khác nhau. Do đó, một chân lý cũng có thể được giảng 
      dạy bằng các phương pháp khác nhau. Phương pháp, ngôn ngữ có thể khác, 
      nhưng chân lý vẫn là một cũng như thượng đế có 7 con đường vận hà khác 
      nhau qua bảy cung. Nguyên tử mỗi cung có các rung động khác nhau, có màu 
      sắc khác nhau, tính chất khác nhau, nhưng nó đều là nguyên tử xuất phát từ 
      thượng đế. Nếu bạn thay đổi áo mặc khác nhau thì bạn đâu có thay đổi, 
      chiếc áo có thể khác nhưng người mặc áo vẫn chỉ là một. Nếu các ông đi 
      ngược về cội nguồn các ông sẽ hiểu sự thay đổi từng thời kỳ qua ảnh hưởng 
      tinh tú. 
      Giáo sư Allen 
      thắc mắc : 
      - Xin ông 
      giải thích thêm về việc này. 
      Babu trầm 
      ngâm suy nghĩ một lúc rồi trả lời : 
      - Trong 7 vị 
      tinh quân có những biến đổi diễn ra từng thời kỳ giống như sự tuần hoàn 
      của hơi thở trong bộ máy hô hấp, hay sự vận động của quả tim. Các sự biến 
      đổi này diễn ra vô cùng phức tạp, dưới thiên hình vạn trạng. Vì lẽ thể vía 
      con người được cấu tạo cùng một nguyên tử với thể vía các vị tinh quân, 
      nên khi vị tinh quân thay đổi , tự nhiên mọi người trên thế gian cũng ít 
      nhiều ảnh hưởng theo. Nói một cách khác, khi vị tinh quân cai quản một 
      cung thay đổi thì những người đã đi qua cung đó, nguyên tử cấu tạo có chứa 
      đựng nhiều tỷ lệ của cung đó sẽ thay đổi theo. Trong lịch trình tiến hoá, 
      đã có những sự thay đổi trong đầu óc loài người, từng thời kỳ và do đó, 
      văn minh nhân loại cũng đổi thaỵ Theo sự nghiên cứu của tôi thì mỗi chu kỳ 
      kéo dài khoảng 100 năm, nhưng cứ 25 năm cuối lại có các biến chuyển gây 
      ảnh hưởng cho chu kỳ kế tiếp. 
      - Như vậy thì 
      sự biến chuyển kỳ này sẽ bắt đầu vào khoảng 1975 cho đến năm 2000 và ảnh 
      hưởng đến thế kỷ 21 ? 
      Babu gật đầu 
      : 
      - Thật ra chu 
      kỳ không hoàn toàn trùng hợp từng năm, từng tháng, vì niên lịch thông 
      thường không chính xác. Khoa chiêm tinh sử dụng một thứ lịch khác theo sự 
      vận chuyển của các tinh tú. Tuy nhiên, để giản dị hoá vấn đề này ta có thể 
      nói rằng cứ 25 năm cuối của mỗi thế kỷ là buổi giao thời có nhiều sự thay 
      đổi mãnh liệt. 
      Giáo sư 
      Mortimer buột miệng : 
      - Nhưng đã có 
      bằng chứng nào rằng cuối thế kỷ này sẽ có các thay đổi lớn ? 
      Babu mỉm cười 
      nhìn tất cả mọi người : 
      - Các ông đều 
      là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch sử Âu châu cho dễ hiểu. Các ông 
      có thể coi nó là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được. Năm 1275, Roger Bacon 
      phát động phong trào phục hưng văn hoá, rồi suốt 100 năm sau, toàn thể Âu 
      châu đều thay đổi. Năm 1375, Chirstian Rosenkreuz phổ biến nền văn hoá này 
      khắp từng lớp dân chúng, đưa Âu châu thoát khỏi nền tảng hắc ám của thời 
      kỳ Trung cổ. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay 
      sao? 
      Giáo sư 
      Mortimer, một nhà bác học về cổ ngữ và lịch sử Âu châu suy nghĩ : 
      - Qủa thế, 
      phong trào phổ thông văn hoá bằng đường lối phục hưng đã cứu nguy cho sự 
      suy đoềi của Âu châu, nhưng đó chỉ là hai trường hợp. Tôi thiết nghĩ muốn 
      kết luận ta cần nhiều dữ kiện rõ ràng hơn. 
      Babu mỉm một 
      nụ cười bí mật và xác định : 
      - Thế thì ông 
      nghĩ sao về việc phát minh ra máy in, kỹ thuật ấn loát vào năm 1473 ? Nhờ 
      thế tư tưởng các triết gia, giáo sĩ mới phổ thông khắp quần chúng, nâng 
      cao dân trí Âu châu? Ông nghĩ sao về Francis Bacon và cao trào nghiên cứu 
      khoa học năm 1578, sử dụng Anh ngữ thay vì Latin để phổ biến kiến thức 
      khoa học. Có phải những việc này đã đem khoa học vào xã hội để cải thiện 
      cuộc sống hay không ? Việc này xảy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. 
      Phải phục hưng văn hoá, đưa Âu châu khỏi các thành kiến bảo thủ đã, rồi 
      cải cách, phát triển khoa học để mọi người biết suy luận sau đó, mới thay 
      đổi xã hội được chứ. Văn hoá đi trước phổ biến tư tưởng để dọn đường cho 
      các thay đổi chính trị, xã hội về sau. Năm 1675, các Hội Kín bắt đầu mọc 
      lên, kêu gọi san bằng giai cấp, dẹp tan bất công xã hội, gây nên bởi chế 
      độ Bảo Hoàng. Năm l789, cuộc cách mạng Pháp đã bùng nổ, và thay đổi hẳn 
      lịch sử Âu châu. Hai biến cố này đều xảy ra trong vòng 25 năm cuối của thế 
      kỷ 17 và 18. Từ đó đến nay chắc các ông đã thấy ? 
      Giáo sư 
      Mortimer toát mồ hôi trán. Lịch sử Âu châu đối với ông nào có xa lạ gì, 
      nhưng sự giải thích của Babu đã làm ông bừng tỉnh. 
      Toàn thể phái 
      đoàn đều bàng hoàng, khâm phục Babụ Trong một buổi chiều, nhà chiêm tinh 
      xứ Ấn đã hùng biện, dẫn chứng về toán học, sinh vật học, triết học, tôn 
      giáo và cả lịch sử Âu châu như một học giả uyên bác nhất. Kiến thức của y 
      đã chinh phục tất cả mọi người. 
      Giáo sư 
      Mortimer run giọng : 
      - Vậy thì 
      theo ông việc gì sẽ xảy ra cho thế kỷ 20 này ? 
      Babu im lặng 
      suy nghĩ một lúc rồi trả lời : 
      - Năm 1875 
      đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh 
      cơ giới cùng thuyết “Tiến hoá” của Darwin, và phong trào Thiên chúa giáo 
      tự dọ Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. Có 
      hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối cực, gây nên phong 
      trào Duy tâm và Duy vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát triển cực thịnh của 
      thuyết Duy vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ 
      gặp các thử thách mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu 
      cầu tâm linh một cách mãnh liệt. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi 
      thì phong trào Duy tâm sẽ phát triển mạnh ẽm và được phổ biến sâu rộng để 
      thúc đẩy sự tiến hoá tâm linh. Cuối thế kỷ 20, phong trào Duy vật sẽ sụp 
      đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu. Này các ông 
      bạn, các bạn đều là những người tiên phong. Trước khi một sự phổ thông Bí 
      giáo được thực hiện phải có những hạt giống gieo sẵn và nẩy mầm. Đó là lý 
      do các bạn được thúc đẩy để nghiên cứu các hiện tượng huyền bí phương 
      Đông. Tôi không thể tiết lộ thêm điều gì, nhưng qua lá số tử vi của 
      Oliver, tôi quả quyết những điều tiên đoán đều sẽ thành sự thật. Chắc chắn 
      trong 25 năm cuối của thế kỷ này, sẽ có nhiều thay đổi và có những cố gắng 
      giúp cho sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng. Có hai 
      loại người trên thế gian : một loại đã thấy ánh sáng rực rỡ nơi cuối chân 
      trời và định hướng để tiến tới đó. Dĩ nhiên, họ sẽ phải chiến đấu cam go 
      với các cám dỗ, các hoàn cảnh bất lợi xảy ra chung quanh. Nhưng ở họ, hy 
      vọng luôn luôn sáng rỡ. Hạng thứ hai, không cảm xúc được các tư tưởng 
      thanh cao, không tin tưởng những điều cao thượng. Họ là những người lạc 
      lõng, đáng thương vì họ sẽ phải học các bài học hết sức đau khổ cho đến 
      khi họ hiểu biết và quay đầu về phía ánh sáng. Điều này đã và đang xảy ra.
      
      - Chuyện gì 
      sẽ xảy ra cho những người không hiểu biết này ? 
      Babu bật cười 
      : 
      - Các ông 
      nghĩ rằng thượng đế sẽ trừng phạt họ ư ? Không đâu, họ sẽ phải tự học lấy 
      những bài học trong lầm lỗi, trong đau khổ. Thí dụ như một người muốn đi 
      từ quê lên tỉnh. Y có thể đi theo các đường lộ xây cất sẵn sàng, theo bản 
      đồ chỉ dẫn. Nhưng có người cứ khăng khăng đi theo ý mình bất tuân theo 
      luật lệ, đường dọn sẵn không đi, bản đồ có sẵn không thèm nhìn. Y sẽ đi 
      vào rừng, dẫm lên gai góc, đau đớn, lạc lối lung tung. Sau đó, mới ý thức 
      được sự ngu xuẩn của mình. Đời là một bài học vô cùng quý giá mà ai cũng 
      phải học. Cõi đời đầy những vô thường, khi thế này, lúc thế khác chứ đâu 
      êm xuôi bằng phẳng. 
      Babu ngưng 
      nói đưa mắt nhìn về sông Hằng. Bên kia bờ sông là một câu lạc bộ với những 
      ánh đền màu cùng tiếng nhạc dập dìu. Y thở dài : 
      - Đó là nơi 
      hội họp của một hội đồng thương mại. Hội này quy tụ toàn các thương gia, 
      các bậc thượng lưu, trí thức, giàu có bậc nhất thành phố này. Tuần nào họ 
      cũng hội họp ăn uống. Đa số đều đã ngoài 60 mà vẫn còn ham vui. Cơ thể họ 
      đã suy nhược, nhưng lòng hưởng thụ vật chất còn mãnh liệt. Họ tụ tập nhau 
      để nói chuyện mưa gió, thời tiết, thú vui đời người. Không ai ý thức được 
      rằng chỉ ít lâu nữa, ai cũng phải từ giã cõi trần. Nghe họ vui đùa, tưởng 
      như họ có thể lột da như giống rắn để sống mãi mãi như thế. 
      Babu nhìn lên 
      bầu trời đầy sao trầm ngâm : 
      Mọi vật trong 
      vũ trụ đều quân bình tuyệt đối, không dư, không thiếu, từ hạt bụi bé nhỏ 
      đến những dãy thiên hà vĩ đại. Đời người quá ngắn, và luôn bị lôi cuốn vào 
      sinh hoạt quay cuồng. Đâu mấy ai ý thức được sự phung phí hôm nay, dọn 
      đưòong cho sự đau khổ ngày mai. Tất cả chỉ là những ảo ảnh chập chờn, thế 
      mà người ta cứ coi như thật. Nếu biết thức tỉnh quan sát, ta có thể học 
      hỏi biết bao điều haỵ Tiếc rằng khi đắc thời người ta quên đi quá khứ rất 
      nhanh. Chỉ trong đau khổ, nhục nhã ê chề mới chịu học. Có thể đó cũng là 
      lý do luôn luôn có các biến động vô thường, thúc dục con người học hỏi.
      
      - Ông nghĩ 
      rằng con người sẽ học hỏi trong đau khổ. 
      Babu thở dài 
      : 
      - Đúng thế, 
      chúng ta có tính hay quên, nên cứ phải học đi, học lại cái bài học khổ. 
      Chỉ khi bị khổ sở, bị đàn áp, tự do bị chà đạp, con người mới quay về với 
      niềm hy vọng cuối cùng là đức tin. Khi sung sướng ít ai nghĩ đến việc tu 
      thân cầu giải thoát. Khi cơ thể bệnh hoạn, ta mới thấy khoẻ mạnh là hạnh 
      phúc. Khi bị tù đày, ta mới thấy giá trị của tự dọ Tiếc rằng khi khỏi 
      bệnh, ta không ý thức nguyên nhân đã gây nên bệnh đó, mà lại tiếp tục một 
      đời sống như trước; do đó, ta cứ bị bệnh hoài. 
      - Nhưng con 
      người cũng học hỏi rất nhiều, và đã có tiến bộ lớn lao. 
      Babu ngắt lời 
      : 
      - Các ông gọi 
      như thế nào là tiến bộ ? Trên phương diện vật chất, con người ta đã tiến 
      bộ chút ít so với những thế kỷ trước. Nhưng phương diện tinh thần vẫn 
      nghèo nàn như xưa, chả tiến được chút nào, bằng cớ là họ vẫn tiếp tục các 
      lỗi lầm quá khứ. 
      - Ông muốn 
      nói đến chiến tranh ư ? 
      Babu im lặng 
      nhìn lên bầu trời đầy tinh tú, ngẫm nghĩ một điều gì. 
      Toàn thể mọi 
      người im lặng chờ đợi. Sau cùng, giáo sư Allen lên tiếng : 
      - Theo ông, 
      thì hoà bình có thể thực hiện một ngày gần đây không ? 
      Babu mỉm cười 
      trả lời : 
      - Các ông 
      nghĩ rằng, với khả năng bé nhỏ của tôi mà có thể biết hết được ư ? Từ khi 
      con người có mặt trên trái đất này, đã có hết cuộc chiến này đến cuộc 
      chiến khác. Chiến tranh có bao giờ chấm dứt được ? Thực ra chiến tranh chỉ 
      là sự biểu lộ trạng thái bên trong chúng ta, là sự phóng đại các động tác 
      hàng ngày của chúng tạ Sở dĩ mỗi ngày, nó một trầm trọng hơn, là do kết 
      quả các hoạt động kỹ nghệ, và óc sáng tạo của con người. Chiến tranh không 
      thể chấm dứt nếu các nguyên nhân gây nên cuộc chiến vẫn còn. Nếu có một 
      cây cổ thụ thật lớn và ta muốn tiêu diệt nó. Ta không thể leo lên vặt hết 
      lá cây được, vặt lá này nó lại mọc lá khác phải không các bạn ? Cách duy 
      nhất là đốn tận gốc rễ. Nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn từ các tham 
      vọng, giận dữ, oán hận, đầu óc quốc gia, bộ lạc, tinh thần phe phái, đố 
      kỵ, ganh ghét, v…v… Tận diệt được các thói xấu này là chấm dứt chiến 
      tranh. Phương pháp duy nhất là làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn. Chỉ 
      khi nào loài người ý thức điều này và thay đổi quan niệm sống, xoá bỏ lòng 
      thù hận, thì họ sẽ thấy bình an. Tiếc rằng ai cũng chỉ nhìn thấy sự sai 
      quấy nơi người khác, nên mới có tình trạng ngày naỵ Hoà bình và thiện chí 
      cần đi đôi với nhau, nên không ai có thể thực hiện hoà bình khi lòng còn 
      đầy oán thù, ghen ghét, muốn bốc lột kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân mình 
      hay phe phái mình. Tất cả các hội nghị, các mưu tính để mang lại hoà bình 
      cho nhân loại đều thất bại, vì con người không chịu thực hiện hoà bình ở 
      chính mình. 
      Babu mỉm cười 
      nhìn tất cả mọi người một lúc, rồi trầm giọng : 
      - Các ông đều 
      biết Đại đế Alexander, người đã chinh phục thế giới. Trong việc xây dựng 
      hoà bình cho Hy Lạp, ông đã càn quét, tiêu diệt tất cả những nước láng 
      giềng, có thể đe doa. xứ sở của ông. Rồi cứ thắng xong trận này, lại phải 
      lo đến trận khác, và cuộc chiến tranh để mang lại hoà bình cứ kéo dài. 
      Alexander là một người thông minh theo học với hiền triết Aristotlẹ Khi 
      lên ngôi hoàng đế, ông đã tâm sự với thầy, “con sẽ chiến thắng Ai cập và 
      Thổ nhĩ kỳ”. Aristotle hỏi, “Rồi sao nữa?”. Alexander suy nghĩ, “Sau đó, 
      con có thể ngủ một cách bình an”. ( Thời đó người Hy Lạp chỉ biết đến Ấn 
      độ, chưa biết đến các nước khác ở Á châu). Aristotle mỉm cười, “ Con hỡi, 
      tại sao con không ngủ bình an ngay đêm nay có hơn không?”. 
      Babu kết luận 
      : 
      - Tôi nghĩ 
      con người cần đặt cho mình một câu hỏi tương tự. Hãy quan sát lòng mình 
      một cách thành thật xem mình muốn gì ? Chúng ta muốn bình an hay kích động 
      ? Phải chăng chúng ta đều náo nức muốn cái gì ? Mỗi buổi sáng, chúng ta 
      vội vã cầm lấy tờ báo để tìm các tin tức sôi nổi nhất. Nếu không có tin gì 
      về chiến tranh, thiên tai, xáo trộn, khó khăn kinh tế - - thì chúng ta vất 
      tờ báo xuống đất, và than rằng chả có gì đáng xem. Có phải thế không ? 
      Chúng ta muốn sống yên ổn, không thích xáo trộn, nhưng rất thích thú nghe 
      nói về các sự xáo trộn của kẻ khác. Chúng ta dành nhiều giờ để bàn cãi sôi 
      nổi về người này, người nọ, chê bai ông này, diễu cợt bà kia. Phải chăng 
      chúng ta vẫn làm thế ? Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi, tại sao chúng ta 
      lại làm thế không ? Lòng ta còn ham tiền bạc, danh vọng, địa vị, sức khoẻ, 
      và chỉ cầu bình an cho chính mình thôi, nên chẳng bao giờ thoa? mãn. Nếu 
      ai có hỏi thì ta cũng sẽ chối quanh như đại đế Alexander chỉ xin một giấc 
      ngủ bình an mà thôi. Giấc ngủ bình an nào có khó, nào xa xôi diệu vợi, tốn 
      công nhọc sức mới có. Làm sao ta có thể lao đầu vào vật chất phù du, xây 
      dựng danh vọng địa vị, thỏa mãn cái phàm ngã hữu hình hoại đồng thời tìm 
      sự bình an, yên tĩnh ? Chính các điều trên đã phá vỡ sự yên tĩnh sung mãn 
      của nội tâm tạ Phiền não là do chính ta tạo nên, chứ đâu phải hoàn cảnh 
      phải không các bạn ? Ngày hôm nay chúng ta đã nói chuyện rất lâu rồi. Các 
      bạn sẽ còn trải qua một hành trình dài, gặp gỡ nhiều bậc danh sư, hiền 
      triết. Tôi chúc các bạn tìm được niềm an tĩnh của tâm hồn. 
      Babu mỉm 
      cười, dơ tay tiễn khách, vầng trăng đã lên cao, lấp loáng phản chiếu trên 
      sông Hằng