Niệm tưởng tăng trưởng các thiện căn dù nhỏ bé
Kèm theo điều mà chúng ta vừa mới nghe, chúng ta cũng có thể khuếch đại 
các nghiệp thiện mà chúng ta đã tích lũy, còn gọi là các "thiện căn". 
Một hành vi tốt, nhưng trước mắt thì thấy chỉ có một tầm ảnh hưởng nhỏ, 
có thể đạt được một phạm vi rất lớn nếu nó được kèm theo những phương 
thức thích hợp: phát nguyện và hồi hướng.
Hãy lấy thí dụ một hành động tầm thường, hoàn toàn không có gì đáng kể, 
với tầm ảnh hưởng dường như không được bao nhiêu. Nếu chúng ta chu đáo 
phát lên một tâm nguyện bao gồm toàn thể chúng sinh (thí dụ chúng ta 
muốn đem lại lợi lạc cho tất cả mọi loài .v.v...) và nếu cuối cùng chúng
 ta không quên phát lời hồi hướng sâu rộng không kém – thí dụ hồi hướng 
những gì chúng ta đã làm cho hạnh phúc của mọi loài không trừ một loài 
nào –, thì điều này sẽ tạo công đức cho chúng ta – tức là những nghiệp 
thiện – theo tỷ lệ thuận với số lượng chúng sinh mà chúng ta đã nghĩ 
đến. Nếu tâm hồi hướng cũng như tâm phát nguyện bao gồm tất cả chúng 
sinh – vốn là vô lượng, thì hành động nói trên cũng có một phạm vi vô 
biên, dầu nó là hành động gì đi nữa.
Chắc chắn chúng ta ai cũng đã từng làm một việc tốt, nhưng thiện căn của
 chúng ta thường yếu ớt vì không có tâm nguyện và đối tượng hồi hướng 
thích hợp. Để tăng cường các thiện căn sau đó, Phật giáo khuyên thực 
hành hạnh tùy hỷ công đức của việc thiện đã làm. Đặc biệt là lúc lâm 
chung, việc nhớ lại những điều tốt đẹp mà mình đã làm trong hiện đời là 
vô cùng lợi ích. Dẫu lúc làm thì thấy rất nhỏ bé, nhưng đừng nghĩ là nó 
không đáng kể. Nếu nhớ lại và hoan hỉ vì đã làm việc thiện, thì điều này
 sẽ giúp tăng trưởng công đức của việc ấy.
8. Niệm tưởng không sợ sệt trước các kiếp tái sinh tương lai
Trong các trường hợp có thể hình dung được, trước hết hãy lấy trường hợp
 một người tin tưởng chắc chắn rằng chỉ có vỏn vẹn một kiếp sống mà 
thôi, tức là kiếp sống hiện tại. Đúng lý thì người này được miễn trừ mọi
 sự sợ hãi trước các kiếp tái sinh tương lai, vì họ không tin có tái 
sinh. Nhưng điều này không có nghĩa là họ hoàn toàn tránh được mọi sợ 
hãi, vì họ có thể kinh hoàng trước ý nghĩ là mình sắp biến mất, và sắp 
đối diện với sự tiêu diệt trong giây lát. Dầu sao đi nữa, do tin tưởng 
như vậy, đáng lẽ họ không có gì phải lo sợ cho tương lai. Nhưng có chắc 
là họ giữ nguyên quan niệm của mình cho tới hơi thở cuối cùng không? 
Điều đó còn tùy. Một số người thấy niềm tin kiên cố của mình bị chao 
động, và từ đó cảm thấy lo sợ; một số người khác thì không.
Bây giờ hãy lấy trường hợp của những người có tín ngưỡng tôn giáo và 
công nhận cái chết có thể không phải là một sự hủy diệt toàn diện. Phật 
tử gọi đó là sự tái sinh; trong các truyền thống khác, người ta có những
 ý niệm khác và dùng những ngôn từ khác, nhưng có một sự tương đồng lớn 
về cái "đằng sau cửa tử". Làm thế nào để đừng sợ hãi lúc bước qua ngưỡng
 cửa tử ấy?
Trong số các phương pháp, nếu ta có thể cảm thấy tương đối vững tâm nhờ 
có hành trì tu tập và nhờ những nghiệp thiện đã tạo, thì đó là một niềm 
an ủi lớn. Thí dụ, nếu lương tâm ta an ổn và nếu ta ý thức đã làm hết 
sức mình để hành xử một cách thích đáng và hiền thiện, thì ta có khả 
năng tự nhủ: "Ta sắp chết trong giây phút tới. Ta không thể trốn tránh 
cái chết, nhưng ta có một số vốn thiện và có thể nương tựa vào đó." Nếu 
thật sự ta đã làm hết sức mình thì ta không có lý do gì để lo sợ cả.
Đối với một người có lòng tin, thì phương pháp khác bảo đảm cho mình 
không sợ lúc lâm chung, dĩ nhiên là tín ngưỡng của mình. Phật tử đã đặt 
lòng tin vào Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng và đại sư của họ. Người Thiên 
chúa giáo nương tựa vào Chúa. Tín đồ các tôn giáo khác cũng có đấng 
thượng đế mà họ thường thỉnh cầu và tôn vinh. Khi ta thành tâm tin tưởng
 thì ta có thể chắc chắn đạt được sự bảo hộ mà ta mong cầu. Tin chắc 
mình không bị bỏ rơi thì tránh được mọi nghi vấn, mọi sợ hãi.
Nói thế nhưng ít nhất là theo Phật giáo thì sự sợ hãi không phải lúc nào
 cũng là một tâm phiền não. Đó không bắt buộc phải là một điều bất 
thiện. Hiển nhiên, sự sợ hãi thường là một nền tảng để phát sinh phiền 
não, nghĩa là sự sợ hãi khởi lên trong tâm ta những phản ứng nguy hại. 
Nhưng không phải vì thế mà đánh đồng tất cả mọi việc được. Phật giáo 
không phân tích sự sợ hãi như một điều tự nó xấu xa và nhất thiết phải 
là bất thiện và có hại. Thí dụ, sự sợ hãi trước các phiền não như oán 
hận, tật đố, giải đãi hay vô minh, hoặc là sự sợ hãi trước những hành vi
 tác hại như giết hại hay trộm cắp, những nỗi sợ hãi như thế được coi là
 có ích và hiền thiện. Chính sự sợ hãi đối với cõi Ta-bà sẽ thôi thúc ta
 thoát ly và truyền cho chúng ta lòng can đảm cần thiết. Tuy nhiên, 
trong nhiều trường hợp, sự sợ hãi vẫn là mảnh đất tốt cho những ý nghĩ 
và hành vi bất thiện nảy mầm.
9. Niệm tưởng về sự vô thường của tất cả các pháp hữu vi
Các pháp nào được gọi là hữu vi thì có nghĩa là các pháp ấy vô thường. Ý
 thức được điều đó không khó. Chỉ cần đào sâu vấn đề một chút thì thấy 
ngay rằng tất cả những sự hữu nhờ nhân và duyên mà hiện hữu, thì chúng 
chỉ có thể hiện hữu trong một thời gian ngắn. Tất cả các hiện tượng 
duyên sinh đều xuất hiện và tiêu diệt trong từng niệm, tức là chúng 
không thể hiện hữu trong niệm kế tiếp. Chúng không thể hiện hữu một cách
 hoàn toàn giống y như nhau trong hai niệm liên tục.
Phật giáo cho rằng hiểu được như thế rất có lợi, bởi hai lý do: 
– Thứ nhất, nhận thức như thế là đúng và thực tế, và Phật giáo nghĩ rằng một nhận thức đúng chỉ có thể đem lại lợi lạc mà thôi.
Đồng ý là như thế. Nhưng một vài người trong quý vị có thể tự hỏi rằng, 
nằm trên giường bệnh chờ chết mà nghĩ tưởng đến bản thể vô thường của 
các pháp thì có ích lợi gì?
– Thứ hai, người nào tư duy một cách chắc chắn rằng các pháp hữu vi 
không có gì khác hơn là những hiện tượng vô thường, sẽ tự nhiên tránh 
khỏi tâm chấp trước, tâm bực bội và các phiền não khác. Đừng quên rằng 
đây là một nhận thức chân chính. Vì chân chính nên nhận thức này sẽ chặn
 đứng các nhận thức sai lầm, trong đó có tâm chấp trước, tâm buồn bực 
v.v... vì các tâm thức sai lầm này không thể cùng một lúc phát sinh với 
nhận thức chân chính nói trên. Một người phàm phu không thể có hai niệm 
tưởng cùng một lúc. Họ có thể có nhiều ý tưởng, nhưng các ý tưởng này 
phải tuần tự mà phát sinh. Nói cách khác, khi một người duy trì ý tưởng 
bản chất các pháp là vô thường, thì không có ý tưởng dị biệt nào khác có
 thể đồng thời phát sinh trong tâm họ, nhất là các ý tưởng nhiễm sắc 
thái chấp trước hay sân hận. Các ý tưởng này có thể rất gần và chớm khởi
 lên, nhưng chúng bị ý tưởng chân chính kia chặn lại, nghĩa là ý tưởng 
chân chính ấy có một tác dụng phòng thủ.
Giản dị hơn, khi chúng ta công nhận bản chất vô thường của các pháp hữu 
vi, nếu chúng ta tiếp tục phân tích thì sẽ thấy rằng chính bản thân mình
 cũng là một hiện tượng hữu vi, do nhân và duyên hợp thành. Đi đến tận 
cùng của sự hiểu biết thì chúng ta phải có khả năng, lúc giờ chết gần 
kề, tự nhủ rằng sự chết là một điều hoàn toàn bình thường, đó là lẽ tự 
nhiên của vạn hữu. Thật ra thì chúng ta đặt mình trên bình diện quy ước 
thô: đúng thế, Phật giáo phân biệt bản chất thô và tế của pháp vô 
thường. Cái chết của một hữu tình hay sự tan vỡ của một đồ vật thuộc về 
bản chất vô thường thô. Trong khi đó, sự thay đổi trong từng sát-na của 
vạn pháp là bản chất vô thường vi tế của chúng.
Tóm lại, vấn đề là ít nhất cũng nên công nhận chết là một hiện tượng tự 
nhiên không thể tránh, và không có việc gì phải kinh ngạc hay đặc biệt 
sợ hãi. Hãy ghi nhận rằng đó chỉ là một trạng thái tâm thức thực tế mà 
thôi, không có gì khác hơn là sự vật như thế nào thì chúng ta nhận biết 
chúng đúng như thế ấy.
Thật ra, việc hiểu được mọi sự đều vô thường có thể bảo vệ ta khỏi rơi 
vào thường kiến, tức là cái ý nghĩ mà chúng ta nuôi dưỡng trong đáy tâm 
thức của mình rằng chúng ta bất diệt. Tự bẩm sinh, chúng ta mê lầm tưởng
 rằng cái cá nhân là chúng ta đây, hay ít nhất là một phần của cá nhân 
ấy, là một [thực thể duy nhất], thường hằng và độc lập. Việc hiểu ngược 
lại sẽ phá vỡ định kiến ấy và đồng thời phá vỡ tất cả những gì phát sinh
 từ đó, mà trước hết là tâm vọng chấp.
10. Niệm tưởng các pháp đều vô ngã
Việc hiểu rằng các pháp đều vô ngã, [hay] sự vắng mặt của một cái "ngã" 
trong tất cả những gì hiện hữu, là một ý niệm hơi khó giải bày và cũng 
khó mà hiểu thấu đáo. Không thể phủ nhận việc ý niệm này khó hiểu, nhưng
 nó cũng rất hấp dẫn. Nói chung, người ta thích nghe nói về vô ngã, về 
tánh Không.
Bởi vì cơ hội đến với chúng ta, hãy bắt đầu bằng cách tự đặt câu hỏi: 
Trong những thuật ngữ mà tôi vừa mới dùng, chữ "ngã" có nghĩa là gì?
Để dịch từ chữ phạn "atman", và chữ Tây Tạng "bdag", các dịch giả thường
 dùng nhiều chữ như "ngã", "cái tôi", "cá nhân" v.v... tùy theo ngữ 
cảnh, tuy những chữ ấy không đồng nghĩa. Chúng ta chỉ cần nhớ rằng theo 
cách nhìn của Phật giáo, chữ "ngã" và "tôi", theo quy ước là chỉ cho 
cùng một khái niệm.
Như vậy, ý niệm "ngã" gợi cho chúng ta điều gì trước tiên? Không nghi ngờ gì nữa, đó là ý niệm "tha nhân", "kẻ khác".
Hãy tóm lại: một bên là chính mình, gọi là "ngã"; một bên là "tha nhân",
 "kẻ khác". Điều này thật là hiển nhiên, không ai nghĩ đến chuyện chối 
bỏ. Thế nhưng, trong các kinh điển và luận văn Phật giáo, chúng ta thấy 
một cụm từ trở đi trở lại mãi, đó là hai chữ "vô ngã". Điều này thật 
đáng cho chúng ta đào sâu và thử tìm hiểu. Chính vì không được giải 
thích nên trước kia ở Âu - Mỹ, một số lớn các nhà tư tưởng đã cho rằng 
Phật giáo là một tôn giáo bi quan và theo thuyết hư vô. Vì hiểu từ ngữ 
ấy theo nghĩa đen nên họ đã tưởng tượng rằng Phật giáo phủ nhận sự hiện 
hữu của vạn pháp. Không phải như thế. Chúng ta sẽ cố gắng phân biệt giữa
 cái "tôi", cái "ngã" vốn hiện hữu, và chữ "ngã" trong cụm từ "vô ngã" 
đã bị phản bác như trên.
Điểm đầu tiên phải ghi nhớ là khi nói "vô ngã", chữ này không chỉ cho 
bất cứ cái gì hoặc chỉ cho cái gì cũng được. Cái ngã bị chối bỏ là một 
cái ngã được xem là tuyệt đối. Nó được tưởng tượng như một cái gì tự nó 
sinh khởi, hoàn toàn độc lập, không liên hệ với bất cứ điều gì khác, 
không lệ thuộc vào gì khác. Một cái "ngã" tự sinh như thế thì Phật giáo 
quả thật có phủ nhận.
Ngược lại thì Phật giáo xác nhận điều gì? Phật giáo xác nhận là mọi sự 
tuy có mặt đấy, nhưng tùy thuộc vào nhau để mà có. Nói cách khác, Phật 
giáo công nhận sự hiện hữu theo thể thức duyên sinh: các hiện tượng sinh
 khởi [trong điều kiện] cái này đối đãi với cái kia, chứ không riêng rẽ 
độc lập.
Khổ thay, khi trình bày rằng Phật giáo công nhận sự hiện hữu nhưng theo 
thể thức duyên sinh, thì điều này lại làm nảy sinh một sự hiểu lầm mới. 
Người ta thay thế hiểu lầm này bằng một hiểu lầm khác. Thật thế, có 
người tin rằng lần này Phật giáo cho rằng, để mà có, thì một hiện tượng 
phải tùy thuộc vào tất cả các hiện tượng khác. Nói như thế thì có hơi 
phóng đại.
Cái nghĩa phải nhớ là khi nói một pháp phải tùy thuộc vào pháp khác để 
mà có, điều này không hề ngụ ý rằng nó phải tùy thuộc vào tất cả các 
pháp khác. Thí dụ nếu chúng ta quan sát một bên là một con mèo và bên 
kia là một con chó, thì chúng ta sẽ không xác nhận rằng con mèo phải tùy
 thuộc vào sự có mặt của con chó mới hiện hữu được. Hỏi nó đi! Nó sẽ 
không đồng ý chút nào. Trên thực tế, con mèo hoàn toàn có thể hiện hữu 
mà không cần con chó.
Ngược lại có những hiện tượng hiển nhiên là tùy thuộc vào nhau mà có. 
Đúng thế, làm sao chúng ta nhận thức được "người khác", nếu không phải 
là trong mối tương quan với chính chúng ta? Cũng thế, "tay trái" phải 
được nhận thức trong mối tương quan của nó đối với "tay phải" và ngược 
lại v.v...
Bây giờ, để có thể chính xác hơn nữa, khi Phật giáo nói đến sự hiện hữu 
duyên sinh, điều này có nghĩa là muốn hiện hữu, tất cả các pháp đều tùy 
thuộc vào hiện lượng của người nhận thức. Trong thực tế, chúng ta có thể
 chấp nhận một vật hiện hữu chỉ khi nào nó được chứng thật bởi một nhận 
thức. Và nhận thức đó phải đúng, phải phù hợp với những tiêu chuẩn đã 
được định sẵn. Thế thì để hiện hữu, tất cả các pháp đều phải tùy thuộc 
vào một sự nhận thức chân chính, khiến cho nó trở nên chính thức.
11. Niệm tưởng Niết-bàn là tịch tĩnh an lạc
Chắc hẳn đây là một phát biểu không được sáng sủa tí nào, vì phải công 
nhận là nó hoàn toàn thuộc về Phật giáo. Chúng ta phải giải thích câu 
này như thế nào? Chúng ta sẽ không thể đi vào chi tiết vì đây là một 
phạm trù rất rộng.
Tóm lại đối với một Phật tử, việc nghĩ rằng Niết-bàn là tịch tĩnh đồng 
nghĩa với sự quy y Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, chính xác hơn là quy y 
Pháp bảo, tức là những giáo lý mà đức Phật đã thuyết giảng. Hãy ghi nhận
 rằng những giáo lý ấy có hai mặt, tức là giáo pháp được Phật thuyết và 
thành quả của sự thực hành giáo pháp ấy: những đức hạnh đã được phát 
triển như tâm từ bi, trí tuệ hay bố thí... đi đôi với sự trừ bỏ các 
khuyết điểm hay sai lầm đối nghịch như sân hận, vô minh hay xan lận.
Tuy có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trước hết "Niết-bàn" có nghĩa là 
"siêu việt đau khổ" nhờ công phu tu tập. Khi một người đã hạ thủ công 
phu tu tâm cho đến mức tiêu trừ tất cả các yếu tố gây phiền não, kể cả 
vô minh, thì ta nói vị ấy đã chứng Niết-bàn: một trạng thái siêu việt 
mọi khổ đau, cũng gọi là một trạng thái an lạc.
Kết luận
Nói tóm lại, trong quyển kinh mà chúng ta đã đọc lướt qua, đức Phật có 
liệt kê 11 thiện tâm và khuyến khích phải làm sao để đến giờ lâm chung 
ta phát khởi được [ít nhất là] một trong những thiện tâm đó. Nói chung 
thì tất cả giáo pháp của đức Phật đều quy về một điểm, tất cả đều là 
những phương thức giúp cho hành giả có thể tu tập và dần dần tự chế phục
 tâm mình.