14-KÊU DÀI MỘT TIẾNG LẠNH HƯ KHÔNG
  Một
 thiền sinh khi cảm hứng đã làm một bài thơ trong đó có câu: “Sau lưng, 
trước mặt, hư không một trời”. Nghe thật lạc loài, buồn bã. Ngược lại, 
thiền sư Không Lộ cũng có câu thơ:  
“Hữu thời, trực thướng cô phong lãnh 
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”. 
(Có lúc lên đỉnh núi cao vút,  
kêu dài một tiếng lạnh cả hư không).  
 
 
Nghe
 thực trầm hùng, siêu thoát. Cũng đều ám chỉ khoảng không bát ngát, mà 
sao câu thơ của thiền sinh âm hưởng nỗi cô đơn vời vợi của một tâm hồn 
hụt hẫng, còn câu thơ của thiền sư lại toát ra vẻ hiên ngang của Người 
đã chinh phục được tự tâm, và do vậy chinh phục cả vũ trụ? Vì một bên 
còn thấy “cái tôi” ở trung tâm bầu thái hư, từ trung tâm đó có ra sau 
trước hai bên, trên dưới, rồi hốt hoảng thấy mình choáng ngợp giữa hư 
không. Một bên đhòa tan cái “tôi” cùng vũ trụ nên không còn cảm thấy cô 
đơn ngược lại, thấy mỗi hơi thở của mình đều tác động vào vũ trụ, đến 
nỗi khi cao hứng (chứ không phải buồn!) mà hét lên một tiếng chơi, thì 
cả bầu thái hư trên đỉnh nín cũng lạnh theo hơi thở mình. 
 
Đạo
 Phật thường được gọi là “Cửa Không”, rồi thiền sư lại còn làm cho ta 
rối mù thêm nữa với một khái mệm “Cửa Không cửa” (Vô môn quan–  la Porte
 sans entrée hay l'Entrée sans porte – doorless entry) nghĩa là cái cửa 
không có lối vào. Không có lối vào thì tại sao lại có tên gọi là “cửa”? 
Vì rằng muốn vào thì phải hiểu nghĩa “Không”. Nếu không hiểu nghĩa 
Không, sẽ bị hư vô nuốt chửng như thiền sinh nọ trong một giai đoạn của 
đời tu. Thực ra không ai tu hành mà không trải qua giai đoạn ấy, gọi là 
giai đoạn “chấp không”. 
 
Sắc,
 Không trong Bát nhã là hai khái niệm mà người đời và triết học Tây 
phương đều cho là hai cực đoan tiêu diệt lẫn nhau, như vật chất và tinh 
thần, có và không vân vân. Nhưng với cái thấy của Phật thì sắc và không 
“duyên sinh” lẫn nhau, làm điều kiện cho nhau, nên không phải là hai 
chuyện khác nhau, do vậy bài Tâm kinh có câu: “Sắc bất dị không, không 
bất dị sắc”, (vật chất chẳng khác chân không, chân không chẳng khác vật 
chất). Để nhấn mạnh thêm sự “không khác”, câu sau còn nói: “sắc tức thị 
không, không tức thị sắc” (Vật chất chính là chân không, chân không 
chính là vật chất). Có người đưa ra thuyết lượng tử của vật lý hiện đại 
để chứng minh lời Phật, trích dẫn nhà vật lý David Bohm nói vật chất khi
 phân tích tới cùng thì thành một cái vừa động vừa tĩnh, chợt biến chợt 
hiện, khi thì như ánh sáng, khi thì như năng lượng, và cho rằng khám phá
 này rất gần với thuyết sắc không của nhà Phật. Nhưng ta không cần đợi 
khám phá khoa học mới thấy “Sắc, không” vốn đi liền nhau không rời. 
Thực
 tế ta không bao giờ nói “không” về một cái chưa từng có, ví dụ ta chỉ 
nói “hôm nay trời không mây” chứ không nói “đất không mây”, vì mây chỉ 
có ở trên trời. Như vậy, có ở đâu thì không ở đấy. Một người ham sách 
thì than phiền “lâu nay tôi không có sách đọc”, người ham tiền sẽ nói 
“lâu nay tôi không làm ra tiền”. Bởi thế, mỗi cái không nói lên một cái 
có khác nhau. 
Không
 mà Phật dạy trong Bát nhã được gọi là Chân không vì nó không tất cả 
những cái có theo tiêu chuẩn phàm phu chúng ta đã nói trên, nhưng từ 
Chân không đó mà có tất cả mọi sự từ vật chất đến tinh thần. Chân không 
ấy có những đặc tính là: trước hết, nó luôn luôn đi liền, tàng ẩn trong 
 mọi sự vật. Đặc tính thứ hai là nó không biến đổi, sinh diệt như sự 
vật. Đặc tính thứ ba và cuối cùng, là nó vượt ngoài mọi khái niệm mô tả 
của chúng ta như sạch dơ, to nhỏ, nhiều ít, v.v.. 
Một 
vật được nhận biết trước hết nhờ khoảng không mà nó chiếm chỗ. Hãy tưởng
 tượng một cái chum và một cái hủ. Ta nói chum to, hủ nhỏ, bởi vì chum 
chiếm một không gian lớn hơn hủ, và nhờ vậy chum chứa được nhiều vật 
chất hơn hủ. Nhưng ta không thể nói hư không trong chum lớn hơn hư không
 trong hủ, vì ta chỉ thấy cái thành vây quanh chum để thành chum, vây 
quanh hủ để thành hủ, chứ hư không trong chum với hư không trong hủ, hay
 hư không bên ngoài cả chum lẫn hủ, vẫn là một thứ hư không đó mà thôi, 
vượt ngoài khái mệm lớn nhỏ. Vậy là vì có vật chất (sắc) – cái làm nên 
tên chum, tên hủ – mà có ra những khái niệm lớn nhỏ, sạch dơ, v.v.. còn 
hư không thì không có những khái niệm đối lập ấy. Lại nữa, cái chum, cái
 hủ thì bị hủy hoại theo thời gian, nhưng hư không trong đó thì không hề
 đổi khác, dù chum có bị vỡ ta cũng không thấy hư không tan vỡ, mà dù 
trong chum có chứa gạo hay chứa nước thì cũng chính nhờ cái không của 
chum mới có thể chứa đựng.  
Một 
bình chứa sữa được gọi là bình sữa, chứa nước gọi là bình nước, cắm hoa 
thì gọi là bình hoa, nhưng khi không có gì trong đó cả đáng lẽ ta phải 
gọi là bình chứa hư không mới phải, tại sao danh từ đó nghe buồn cười, 
thừa thãi? Là vì nếu chứa hư không thì cũng như không chứa gì, vì hư 
không 
trong bình và ngoài bình nào có 
khác gì nhau. Thế nhưng cái bình hữu dụng chỉ nhờ khoảng không của nó để
 chứa đựng, dù nó làm bằng pha lê cẩm thạch hay làm bằng đất nung. 
Tâm 
mỗi người cũng như hư không trong mỗi bình chứa, thành trì làm nên bình 
chứa to nhỏ, xấu đẹp chính là bức thành ngã chấp, là cái “tôi”. Ta gọi 
một người “lành” khi ba nghiệp thân miệng ý nơi họ tốt lành, không hại 
ai, và “dữ” là do ba nghiệp nơi họ hung ác. Nhưng ba nghiệp có thể 
chuyển được, và đó là mục đích của việc tu hành: sửa đổi thói quen xấu 
thành thói quen tốt; như cái bình xưa nay chứa nước mắm, nay đổ hết nước
 mắm ra, súc thật sạch, ngâm rửa lâu ngày sẽ hết mùi thối, có thể chứa 
nước hoa và được gọi là bình nước hoa. Bình nước hoa hay bình nước mắm 
chỉ khác nhau ở cái tên gọi và cách dùng, chứ phần cốt cán là khoảng 
không để chứa đựng vốn không khác nhau. Nên Bát nhã dạy, Chân Không 
không có sạch dơ, thêm bớt, sinh diệt... 
Một 
bình chứa nước mắm quá lâu, khi đổ ra mà đựng nước hoa vào liền thì nước
 hoa ấy sẽ không thơm mùi nước hoa mà ta chỉ ngửi thấy toàn mùi nước 
mắm, không thể sử dụng vào việc gì được: xịt vào áo thì thối cả áo, mà 
cũng không thể dùng để nêm thức ăn như nước mắm. Người hành đạo còn tâm 
thế gian cũng vậy, như một cái bình chưa được súc rửa sạch sẽ, vẫn còn 
toát ra mùi nước mắm bám vào trong bình đã quá lâu. 
Khi 
ngồi thiền, là ta trở về với cái nền tảng Chân Không từ đó phát xuất tất
 cả ý nghĩ thiện ác thánh phàm, Phật và chúng sinh... mà Phật gọi là 
Chân tâm, Như lai tạng, Bản lai diện mục hay Chân như v.v.., có rất 
nhiều tên gọi. Nghĩa là ta lưu ý đến cái bình (container) thay vì những 
vật chứa trong bình (contained). Có khi ta cảm thấy tâm tĩnh lặng, thư 
thái, tưởng như ý nghĩ hay VỌNG TƯỞNG lặng mất, hơi thở cũng như chấm 
dứt theo với tư tưởng, và có người đâm hoảng sợ. 
Nhưng
 giây phút đó dù kéo dài bao lâu cũng có lúc chấm dứt, và thói quen tư 
tưởng lại nổi lên trở lại như cũ; ví như từ cái thành bình, lại toát ra 
mùi thối của nước mắm, hoặc mùi thơln của nước hoa tùy theo lâu nay bình
 chứa chất gì trội nhất, mà Duy thức học gọi là những hạt giống nghiệp. 
Như vậy sự tĩnh lặng mà ta lầm tường là Chân không đó không phải là chân
 không thứ thiệt, mà chỉ là một giai đoạn nghỉ mệt của cái tâm thức đã 
quen bon chen từ vô lượng kiếp, nay nhờ thực tập, nó tạm lắng yên xuống 
đáy sâu, thời gian vắng lặng an tịnh này kéo dài lâu mau do thực tập 
quen hay chưa quen. Cái “thấy thanh tịnh này”, một cái thấy do duyên 
sinh, nhờ thực tập, nhờ ngồi lâu mà thấy, thì không phải cái ta cần đạt,
 vì nó rất nguy hiểm. Phật gọi nó là một ma chướng cho giải thoát, vì ta
 sẽ cho mình có thần thông và bám vào những sở đắc do thần thông mang 
lại, như tài sản danh vọng. Biết bao người tu phải đọa vì chứng đạo nửa 
vời như thế. Bởi thế Phật dạy cần phải tu chỉ quán song hành, hay “định 
tuệ song tu” chứ không nên chấp nhặt vào việc ngồi mà cũng không được bỏ
 qua việc ngồi. Làm sao kéo dài thời thiền định trong suốt cả ngày hoạt 
động của ta, nghĩa là “vào trong thanh sắc không bị thanh sắc lừa dối”, 
luôn luôn thấy được vô thường, vô ngã, chân không, dù có chạm xúc bất cứ
 kinh nghiệm gì trong cuộc sống, vì chân không có mặt khắp mọi sự trong 
ta và ngoài ta, không đợi ngồi thiền mới thấy. Ngồi thiền là để thấy cho
 rõ hơn mà thôi.  
Hạt 
giống nghiệp phát xuất từ nền tảng ngã chấp, ví như mùi thơm hay thối 
toát ra từ cái thành của bình chứa nước hoa hay nước mắm. Nên nghiệp 
lành nhiều thì sinh cõi trời, hưởng phước dài lâu và gặp hoàn cảnh sung 
sướng, giống như một cái bình chứa nước hoa đương nhiên được ở chỗ cao, 
được nâng niu vì đựng đồ quý; còn một hủ phân thì để ở chỗ thấp xấu, lăn
 lóc trong những chỗ tồi tàn... Nhưng tất cả hai thứ đồ đựng ấy đều phải
 bị hủy diệt bởi thời gian, và bình nước hoa dễ có ngày bị sử dụng bậy 
mà thành đồ phế thải. Những việc lành còn chấp ngã cũng rơi vào nguy cơ 
là hưởng phước hữu lậu, nghĩa là có quả báo hạnh phúc, nhưng chính hạnh 
phúc đó lại trở thành nguồn gốc đau khổ cho người được hưởng nó: như 
người trúng số độc đắc đi lãnh tiền về lại bị giết vì túi tiền mình 
mang. Vì lẽ đó, người tu hành cần có chính kiến để thấy mọi quả báo khổ 
vui không thực, để đừng chấp quả báo mới mong giải thoát Cái tôi vốn 
không thực, nhưng do vì từ vô lượng kiếp ta dã lầm thấy là thực, và do 
thấy lầm, nên đã tạo vô số ác nghiệp và ân oán giang hồ. 
Bây 
giờ giải tán cái tập đoàn ấy không phải đơn giản, cũng như không thể súc
 sạch bình nước mắm trong sớm chiều. Khi tu tập một thời gian lâu dài, 
tránh tất cả ác làm tất cả lành, trong tinh thần vô ngã không cầu quả 
báo, thì cũng như súc cái bình thực sạch không còn một mùi nào nữa dù 
nước mắm hay nước hoa (vì người tu đại thừa khi hành thiện không thấy có
 ta, người, ví như không để nước hoa dính vào mình, không tô bồi cho cái
 thành trì bản ngã). Khi ấy cái bình (tâm) luôn luôn trống rỗng, và 
khoảng chân không bên trong không khác gì khoảng không bao la bên ngoài,
 thành trì bản ngã – tức cái thành vây quanh một không gian nhỏ hẹp làm 
nên cái “tôi” dần mỏng đi và biến mất, hòa thành nhất thể với thái hư to
 rộng, ấy là niết bàn giải thoát ngay trên đời này, không đợi chết rồi 
mớt đạt được. Nhưng theo pháp thiền Dzogchen của mật tông, thì giây phút
 chết đối với một người như vậy (luôn luôn tuệ quán về Chân Không) là 
cao điểm của giác ngộ, vì chỉ khi ấy ánh sáng căn bản, tức điểm linh 
quang hay tinh chất của ngũ uẩn đã được chuyển hóa, mới hiển hiện nguyên
 vẹn, rực rỡ, vì không còn bị che lấp bởi thân xác và sự chấp thủ thân 
xác. Người tu tịnh độ thì thấy ánh sáng ấy như là hào quang của Phật A 
Di Đà, nhưng mật tông thì thấy đó là ngũ uẩn đang tan vào thể chất uyên 
nguyên của nó, nghĩa là tràn khắp vũ trụ và trở thành tia vũ trụ.