KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI 
Lê Sỹ Minh Tùng 
PL. 2556 DL. 2012
Chương Thứ Sáu
		Phẩm THỌ KÝ
		Download Giọng Đọc: Nguyên Hà & Mỹ Ngân
 
	          Trong Phật giáo có tất cả mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp:
	1)Khế kinh: Còn được gọi là Trường hàng tức là thể loại văn xuôi, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật.
	2)Trùng tụng: Tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói.
	3)Thọ ký: Vốn là các đoạn văn giải thích 
về giáo nghĩa , đời sau đặc biệt chỉ cho lời ấn chứng trước của Phật đối
 với việc làm ở vị lai của các đệ tử.
	4)Phúng tụng hay Cô khởi: Tức là phần kệ 
tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của đức Phật mà không lập 
lại ý của văn trường hàng trước đó.
	5)Tự thuyết hay Vô vấn: Đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo thuyết.
	6)Nhân duyên: Ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa của kinh này.
	7)Thí dụ: Dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa như phẩm này.
	8)Bổn sự: Các bản kinh nói về hành nghi ở
 đời quá khứ của Phật và đệ tử. Những kinh mở đầu bằng câu:”Phật như thị
 thuyết” cũng thuộc loại Bổn sự.
	9)Bổn sanh: Thể loại kinh nói về các hạnh đại bi mà đức Phật tu hành vào thời quá khứ.
	10)Phương quảng: Các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.
	11)Vị tằng hữu: Nói về những việc ít có của Phật và các đệ tử.
	12)Luận nghị: Đức Phật luận nghị phân biệt thể tính các pháp, làm sáng tỏ các pháp.
	Trong 12 thể loại kinh được phân biệt ở 
trên thì chỉ có Đại thừa là có đủ 12 loại. Còn Tiểu thừa chỉ có 9 loại 
nghĩa là kinh điển Tiểu thừa không có thể loại Thọ ký, Tự thuyết và 
Phương quảng.
	-Thọ ký chỉ có trong kinh Pháp Hoa bởi vì
 Phật dựa vào tý týởng “mọi chúng sinh ðều có Phật tánh, tri kiến Phật 
nên Phật mới thọ ký vào vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật.
	-Tự thuyết là Phật tự ý nói chớ không 
phải do đệ tử hỏi. Đó là những kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ. Thể loại
 Tự thuyết không có trong Phật giáo Nguyên thủy vì Phật thuyết là do 
nhân duyên, do sự thưa thỉnh của đệ tử, của đại chúng về đề tài liên 
quan đến hoàn cảnh, tâm trạng và thời điểm lúc bấy giờ. Vì thế đức Phật A
 Di Đà hay chư Bồ tát không hề có trong giáo lý Nguyên thủy là như vậy.
	-Phương quảng hay còn gọi là phương đẳng 
là các kinh nói về nghĩa bình đẳng, rộng lớn sâu xa. Đó là các bộ Bảo 
Tích và Đại Tập.  Phương đẳng chia làm hai phần là Phương đẳng Hiển 
thuyết và Phương đẳng Mật chú. Hiển thuyết gồm có các kinh như Bảo Tích 
và Mật chú kinh thì có kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu
 Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm và Mật chú Nghi quỹ gồm các 
kinh Kim Cương Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiển 
Chứng Đại Giáo Vương. Hiển và Mật hợp chung được 735 bộ, 1749 quyển.
	          Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm, nhưng
 riêng các phẩm có chữ Thọ Ký đã chiếm hơn ba phẩm. Đầu tiên Phật thọ ký
 cho ngài Xá Lợi Phất trong phẩm Thí Dụ, rồi đến các đại đệ tử trong 
chương thứ sáu này. Kế đến Phật Thọ Ký cho năm trăm đệ tử trong chương 
thứ tám và sau cùng Phật Thọ Ký cho các vị Vô Học và Hữu Học trong 
chương thứ chín.
	          Thế nào là thọ ký? Nếu cho rằng
 thọ ký là tiên tri nghĩa đức Phật biết trước người đệ tử nào sau này sẽ
 thành Phật ở đâu, Phật hiệu là gì, có bao nhiêu đệ tử…cũng không đúng. 
Bởi vì tiên tri là sự tiên đoán một hiện tượng nào đó sắp xảy ra. Hiện 
tượng này có thể xảy ra và cũng không bao giờ xảy ra cho nên tiên tri 
một sự việc nào đó chỉ là sự đoán trước không có gì bảo đảm sự việc đó 
chắc chắn sẽ xảy ra. Thí dụ vào những lúc gần đây có ông Harold Camping,
 a Christian Radio Broadcaster, một nhà truyền giáo Tin lành đã tiên 
đoán ngày tận thế của nhân loại dựa theo Thánh kinh mà ông nghiên cứu. 
Đó là ngày 21 tháng 5 năm 1988. Sau đó ông lại tiên đoán ngày 7 tháng 9 
năm 1994. Gần đây nhất ông tiên đoán ngày tận thế là 21 tháng 5 năm 
2011. Tháng năm năm 2011 đến rồi đi, nhân loại vẫn sống sờ sờ thì bây 
giờ ông lại tiên đoán lần chót là ngày 21 tháng 10 năm 2011. Tháng 10 
năm 2011 một lần nữa đến rồi lại đi mà chúng ta vẫn sống, vẫn sinh hoạt 
như thường. Do đó thành tích tiên đoán của ông là 0-4 nghĩa là trật lất 
100%, chỉ là nói nhăng nói cuội. Tại sao giáo lý của những đạo thờ Chúa 
lúc nào cũng nghĩ và nói đến tận thế? Tại vì họ luôn gieo vào trong đầu 
tín đồ của họ niềm lo âu sợ hãi cho nên Thượng đế sẽ là cứu cánh để 
nương tựa. Ngược lại đối với Phật giáo tất cả vạn pháp kể cả sự sống 
chết chỉ là hiện tượng duyên sinh nghĩa là duyên kết thì sống, duyên tan
 thì chết. Nhưng chết không phải là mất hẳn vì khi duyên mới kết tạo thì
 sẽ tái sinh trở lại chớ có mất cái gì mà phải lo sợ cho nên biết đạo 
thì sống thảnh thơi, tự tại, chết nhẹ nhàng thanh thoát tức là sinh 
thuận, tử an vậy.  Thêm nửa, Phật giáo phủ nhận hoàn toàn chủ thuyết 
Thượng đế vì nếu Thượng đế sinh ra ta thì ai sinh ra Thượng đế? Cho nên 
chính ta mới là Thượng đế của chính mình chớ không ai khác. Vì thế Phật 
giáo không dạy chúng sinh hướng tâm ra ngoài cầu tha lực mà phải quay về
 nội tâm của chính mình để làm chủ nó thì cuộc đời sẽ vô cùng an vui, tự
 tại. Nói thế thì thọ ký không phải là tiên tri bởi vì tiên tri có thể 
đúng, có thể sai.
	          Phải chăng thọ ký là dự đoán?  
Khi thấy một người nào đó tinh tấn tu hành thì chúng ta dự đoán một ngày
 nào đó ông ta sẽ thành Phật. Dự đoán có thể đúng, nhưng có thể sai bởi 
vì nếu một duyên cớ nào đó xảy đến khiến ông ta trở thành giải đãi hay 
không tu hành nữa thì làm sao thành Phật. Khi nộp đơn xin đi du lịch ở 
Hoa kỳ, thân nhân của chúng ta dự đoán sẽ được đi. Nhưng quyết định cho 
đi hay không là do nhân viên sở di trú cho nên nếu hợp thức hóa họ cho 
đi, bằng không họ bác đơn. Vì thế thọ ký cũng không phải là dự đoán.
	          Vậy phải chăng thọ ký là mệnh 
lệnh của một đấng chí tôn toàn năng? Cũng không phải vậy bởi vì đức Phật
 Thích Ca không phải là đấng thần linh tối thượng có toàn quyền phán 
quyết hễ thương ai thì cho người đó thành Phật, ghét ai thì đày họ vào 
địa ngục A tỳ. Vì đức Phật  thực chứng chân lý, thấu triệt tam minh nên 
có trí tuệ sáng suốt và cốt cách siêu phàm, nhưng không phải Ngài là 
đấng tối linh cho nên chính Ngài cũng xác định rằng: ”Ta không là Thượng đế, cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con người đã chiến thắng thế gian”.
 Đức Phật chiến thắng thế gian, nhưng cái chiến thắng này không cần phải
 giết hàng vạn địch quân, thậm chí không cần phải giết một con kiến hay 
chiếm đóng quốc gia nào. Tuy là kẻ chiến thắng  nhưng Ngài sống rất đạm 
bạc với ba mảnh y và một bình bát cho nên  chiến thắng được tâm mình để 
sống với Chơn tánh mới là cái chiến thắng vĩ đại của bậc Đại giác, Đại 
hùng vậy. Vì thế toàn bộ giáo lý Phật Đà, bao nhiêu pháp tu của đạo Phật
 không ngoài mục đích giúp chúng sinh làm chủ tâm mình.
	          Thế thì không thể nào định 
nghĩa được từ “thọ ký” mà thọ ký có thể được hiểu là để nói lên một sự 
thật. Sụ thật đó dựa vào nền giáo lý thâm sâu tận cùng của tư tưởng tinh
 hoa Pháp Hoa nghĩa là tất cả mọi người đều là Phật. Đặc biệt trong phẩm
 Phương Tiện khẳng định rằng mọi người là Phật đã thành bất chấp chúng 
sinh là hạng người nào, từ kẻ tu hành đạo đức đến bạc địa phàm phu vì ai
 ai cũng đều có Phật tánh, Tri Kiến Phật giống y như Phật rồi. Tại sao? 
Bởi vì nếu trong chúng sinh không có sẵn chất Phật (Phật tánh) thì Phật 
không bao giờ dám thọ ký cho ai cả cho nên bất cứ ai nếu biết rữa sạch 
bùn nhơ bám lấy chất Phật của mình thì chất Phật hiển bày, Phật tánh 
hiển lộ tức là thành Phật.
	          Nhắc lại phẩm Tựa diễn bày tổng
 quát toàn bộ kinh. Đến phẩm Phương Tiện Phật nói lên cái bản hoài của 
chư Phật thị hiện trong thế gian này là để chúng sinh “khai,thị,ngộ,nhập Phật tri kiến”nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập
 cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa vốn 
đã có sẵn trong tất cả mọi người.Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai 
ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như 
Phật.Bây giờ trong Pháp Hội chỉ có bậc thượng căn thượng trí như ngài Xá
 Lợi Phất nhận ra Tri Kiến Phật của mình. Còn những bậc thượng căn trung
 căn khác như các Tôn giả Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Phú Lâu 
Na…Phật phải đưa ra phẩm Thí Dụ thì các ngài mới ngộ được Tri Kiến Phật.
 Sau khi thấu hiểu tường tận, các ngài bạch lên đức Phật sở ngộ của mình
 trong phẩm Tín Giải. Đáng lý ra đức Phật bắt đầu thọ ký, nhưng Ngài 
thấy trong Pháp Hội vẫn còn một số người chưa thâm nhập nên Ngài mới nói
 thêm phẩm Dược Thảo Dụ để cho họ thấu rõ thâm ý của Ngài. Giáo lý Phật 
Đà là bình đẳng cũng như trận mưa tưới nước đều cho tất cả cây cỏ. Chỉ 
vì cây cỏ kích thước không giống nhau, lớn nhỏ không đều cho nên khả 
năng hấp thụ nước khác nhau chớ lượng nước từ trận mưa tưới xuống đều 
giống nhau. Đến đây Phật bắt đầu thọ ký cho những đại đệ tử như Đại Ca 
Diếp, Tu Bồ Đề, Mục Kiền Liên, Ca Chiên Diên.
	Bấy giờ Thế Tôn bảo đại chúng: 
	-Ma-ha-ca-diếp ở đời vị lai sẽ 
phụng thờ 300 muôn ức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen 
và nói vô lượng đại pháp của chư Phật. Thân rốt sau được thành Phật hiệu
 là Quang Minh đủ mười đức hiệu. Nước tên là Quang Đức. Kiếp tên Đại 
Trang Nghiêm. Phật thọ 12 tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế 20 tiểu 
kiếp. Cõi nước tốt đẹp không có các thứ dơ xấu, không sạch. Đất đai bằng
 thẳng, lưu ly trong suốt, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây trang 
trí bên đường, hoa báo thơm đẹp tung rải khắp nơi. Bồ tát và Thanh văn 
số đông vô lượng. Dầu có ma và dân ma, nhưng không có việc ma, họ luôn 
luôn hộ trì Phật pháp. 
	Trong chương thứ ba phẩm Thí Dụ, đức Phật
 đã thọ ký cho ngài Xá lợi Phất sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai 
trong thế giới Ly Cấu. Đến phẩm này, đức Phật dạy ông Đại Ca Diếp phụng 
thờ 300 muôn ức Phật thì mới được thành Phật. Thâm ý Phật như thế nào? 
Lẽ nào có thể tìm ra được chừng ấy đức Phật trong cõi tam thiên đại 
thiên thế giới được hay sao? 300 muôn ức Phật là con số gần như vô lượng
 thì làm sao có được, không lẽ kinh viết sai? Tinh thần Pháp Hoa là tư 
tưởng thâm diệu tức là nói về Lý Thể chớ không phải Sự Tướng. Vì thế 
không có vần đề phải đi tìm từ vị Phật này đến vị Phật kia cho đến khi 
phụng thờ, cúng dường đủ 300 muôn ức Phật thì mới chính thức thành Phật.
 Nếu thế thì ý nghĩa thế nào? Phật mà kinh nói ở đây chính là Phật tánh,
 là Tri Kiến Phật, là Chơn tâm thường trú - Thể Tánh Tịnh Minh, là Như 
Lai Viên Giác Diệu Tâm thường trụ ở trong ta cho nên chúng sinh khỏi cần
 phải đến hành tinh nầy hay thế giới nọ để tìm bất cứ vị Phật nào cả. 
Thêm nữa, bản hoài của chư Phật thị hiện trong bất cứ thế giới nào không
 phải là để cho chúng sinh cúng dường, cung kính, ngợi khen mà nguyên 
nhân các Ngài ra đời là để khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri 
kiến của chính mình và nương theo Phật thừa mà tu thành Phật. Dựa theo 
giáo lý Phật Đà, mặc dù chúng sinh có cúng dường vô lượng phẩm vật cho 
chư Phật thì các Ngài cũng không có chú nguyện ban phước gì cho ai được.
 Thật vậy, Phật không ban phước cho chúng sinh, nhưng vì chúng sinh tự 
mình gieo biết bao nhân lành (phước đức) thì theo luật nhân quả một ngày
 nào đó họ sẽ thọ lãnh quả lành chớ không phải phước đức là do Phật ban 
cho. 
	Cái cốt lũy ở đây là những hạnh nghiệp 
như cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và nói vô lượng đại pháp
 của chư Phật chẳng qua là đang đi trên con đường giải thoát mà nhà Phật
 gọi là “xứng tánh khởi tu” nghĩa là tất cả những việc làm lành, làm 
thiện đó phù hợp với chân lý tức là “tùy thuận pháp tánh” cho nên con 
người quay về sống gần, sống đúng với Chơn tánh của mình. Vì thế phụng 
thờ 300 muôn ức Phật có nghĩa là thể hiện vô lượng vô biên những hạnh 
nghiệp hướng về Chân tánh của mình đó. Thế thì ý nghĩ tốt, lời nói 
thiện, việc làm lành là những hạnh nghiệp đưa chúng sinh sớm trở thành 
Phật chớ không phải đi hết chùa này rồi đến chùa nọ để cúng Phật mà tham
 sân si không bỏ, tập khí không chừa thì biết đến bao giờ mới thành 
Phật. Tại sao? Bởi vì Tánh của vạn pháp không hề có tham sân si, không 
có phiền não cho nên làm tất cả việc lành, việc thiện, việc phước là 
thực hành đúng và hợp với chân lý tức là mình đang sống tùy thuận với 
pháp tánh đó. Còn nếu chúng sinh thực hành rốt ráo lục độ vạn hạnh như 
Bố thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Tuệ thì chính họ 
đã trở về với Phật tánh thanh tịnh vốn sẵn có của mình chớ không thành 
cái gì hết. Vì vậy cho dù có làm bao nhiêu việc lành, có giảng bao kinh 
Phật, có bố thí, trì giới…một cách trọn vẹn chẳng qua là trở về với Phật
 tánh vốn có của mình nên mới gọi là xứng tánh khởi tu tức là tự mình 
trở về với đức tánh thánh thiện của mình vậy thôi chớ không có vị Phật 
nào ban phước gì cho ai hết. Nói cách khác cúng dường Phật ở đây là cung
 dưỡng Pháp tánh, cung dưỡng Phật tánh, là tánh thanh tịnh bản nhiên vốn
 có của mình chớ không tìm vị Phật xa xôi nào ở đâu cả. 
	Dưới con mắt của phàm nhân thì có thành 
Phật vì Phật có Vô thượng Bồ Đề, Vô thượng Niết bàn tức là có giải thoát
 tự tại,  nhưng thật chất thì thành Phật là trở về với Phật tánh vốn có 
của mình sau khi đã hóa giải hết vô minh phiền não thế thôi cũng như một
 khi rữa sạch hết bùn nhơ thì chất vàng hiện ra bởi vì chất vàng bị che 
lấp bởi bùn nhơ vô minh phiền não. Vì thế, nói thành Phật chớ kỳ thật 
không thành cái gì hết, chỉ là trở về với Phật tánh thanh tịnh vốn có 
của mình vậy thôi. Điều này đã được xác định trong kinh Bát Nhã, Duy Ma 
Cật, Viên Giác, Kim Cang, đặc biệt câu:”Dĩ vô sở đắc cố” trong Tâm Kinh 
đó sao. Tất cả hiện tượng vạn pháp đều phát nguyên từ bản thể chơn như 
mầu nhiệm, nhưng con người phải lìa văn tự, ly ngữ ngôn, hồi quang phản 
chiếu để thấy được bản tâm thanh tịnh thì Bồ-đề, Niết bàn mới hiển lộ. 
Tuy nhiên, người đệ tử Phật khi tu hành thì muốn được chứng đắc nên dùng
 tâm muốn lấy, muốn kiến, muốn đắc cho nên họ lại lọt vào vọng rồi. Thí 
dụ, tham thiền để muốn được kiến tánh tức là kiến tánh thành Phật hay 
niệm Phật để muốn được nhất tâm thì tâm này là vọng tâm. Tại sao? Bởi vì
 Phật của mình đã thành sẵn rồi chớ không phải khi kiến tánh mới đắc 
được, do vậy mà chư Tổ đã dạy rằng : ”Vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ” là
 vậy. Nếu còn hy vọng chứng đắc là vọng.Người đệ tử Phật phải tin rằng 
mình đã sẵn có diệu tâm, Tri Kiến Phật sáng tỏ, không phải do tu mới 
thành, do chứng mới đắc. Tất cả kinh điển của Phật chỉ là phương tiện 
dùng để phá tư tưởng chấp thật của mình. Vì thế, khi thức tỉnh thì mới 
biết mình có tất cả. Tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết bàn thì lúc nào cũng 
sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như mây tan thì trời sáng hay 
đào ao có nước thì ánh trăng sẽ hiện mà không cần phải trông chờ mong 
đợi gì hết. 
	Khi Tôn giả Đại Ca Diếp thành Phật hiệu 
là Quang Minh nghĩa là thân Ngài phóng ra kim quang và cõi nước tên là 
Quang Đức vì nhân dân trong nước đó đều có quang minh và đức hạnh. Phật 
Quang Minh tuổi thọ 12 tiểu kiếp và Chánh pháp trụ 20 tiểu kiếp. Mỗi 
tiểu kiếp là 16.8 triệu năm cho nên 12 tiểu kiếp là 201.6 triệu năm. 
Không lẽ Phật Quang Minh sống lâu đến trên 200 triệu năm? Kinh có nói 
quá không vì không có con người nào sống lâu như vậy chẳng những không 
phù hợp với khoa học mà còn thiếu thực tế? Đó là chưa kể đất đai bằng 
lưu ly, nhà cửa làm bằng vàng ròng, trân châu, mã não…Vàng bạc kim cương
 ở đâu mà nhiều thế? Thế giới diễn tả trong đoạn kinh này giống y như 
cảnh tượng trong thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Vậy hư thật thế nào?
	1)Trong thế giới Ta Bà chúng ta đang sống
 thì những loại như vàng bạc, pha lê, kim cương, mã não, san hô, xà 
xừ…trở thành quý báu bởi vì chúng rất hiếm, rất khó kiếm, rất mắc tiền. 
Chỉ có những người giàu, quyền quý, vương gia vọng tộc mới có thể mua 
sắm những thứ đó. Nhưng thử nghĩ lại, nếu tất cả nhà cửa, đường xá, lầu 
đài, cỏ hoa, xe cộ, bát chén đều làm bằng vàng bạc, pha lê, kim cương, 
mã não thì nó đâu còn quý hiếm nữa. Thí dụ, ngày xưa vua Lê than thở với
 Trạng Quỳnh rằng ngày nào cũng ăn toàn cao lương mỹ vị và những món 
hiếm có trên đời nên ăn mãi đâm ra chán, chẳng thiết tha đến nó nữa. 
Nghe thế Trạng Quỳnh mời nhà vua ngày mai đến nhà, thiết đãi một món ăn 
rất đặc biệt sẽ làm nhà vua hài lòng. Y hẹn, nhà vua đến từ sáng sớm rồi
 chờ. Trạng Quỳnh nói món này rất hiếm nên phải nấu lâu nhà vua cảm 
phiền uống trà đợi. Sáng qua, chiều đến mà món ăn quý chưa dâng lên cho 
vua. Chiều qua tối sắp đến, bụng nhà vua cồn cào như sóng vỗ trường 
giang vì từ sáng đến giờ chỉ uống toàn nước trà. Tối đến, nhà vua chịu 
hết nổi mới bảo Trạng Quỳnh đem đại bất cứ món nào cũng được. Khi ấy 
người nhà mới đem ra tương rau cải luộc. Quá đói nên nhà vua ăn rất 
ngon. Vì thế cái quý không phải là vàng bạc mà vì nó hiếm có cho nên nếu
 rau luộc mà khó kiếm thì nó sẽ trở thành quý báu chớ không nhất thiết 
phải là vàng bạc. Bây giờ nếu nhìn sâu một chút thì cho dù là vàng bạc, 
kim cương, hột xoàn hay là gì đi chăng nữa thì tất cả vẫn là pháp hữu 
vi. Hãy lắng nghe bài kệ Phật nói trong kinh Kim Cang rằng:
	          “Nhất thiết hữu vi pháp,
	Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
	Như lộ diệc như điện,
	Ưng tác như thị quán”.
	Dịch là
	Tất cả pháp hữu vi,
	Như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng
	Như sương, như điện chớp,
	Nên quán tưởng như thế.
	Thế thì vàng bạc, kim cương, hột xoàn, 
lưu ly, trân châu, mã não...chẳng khác nào như giấc mộng, như huyễn hóa,
 như bọt nước, như bong bóng trời mưa, như làn sương buổi sáng, như ánh 
điện chóp nhanh, có đó rồi mất đó, rốt cuộc chẳng có gì. Người giác ngộ 
nào chẳng biết điều này.
	Tóm lại, ở đây Phật dùng phương tiện, nói
 cho đẹp lòng vừa ý để dẫn dụ chúng sinh ham thích mà cố gắng tu hành. 
Bởi vì khi đã thâm nhập giáo lý Phật Đà thì “Tùy kỳ tâm tịnh, Tắc Phật độ tịnh. Dục tịnh Phật độ, tiên tịnh kỳ tâm”
 nghĩa là một khi có tâm thanh tịnh thì thế giới mình đang sống chính là
 cõi Tịnh độ. Mà muốn có cõi Phật thanh tịnh như thế, trước hết phải gạn
 lọc cho hết vô minh phiền não thì tâm mới thanh tịnh được. Bằng chứng 
là đức Phật Thích Ca vẫn sống trong thế giới này mà Ngài vẫn có Vô 
thượng Bồ Đề, Vô thượng Niết bàn đấy chứ. Thế giới này đối với Ngài là 
cõi Phật Tịnh độ đấy chứ. Ngày xưa đức Phật xuất thân là vị Thái tử 
quyền uy danh vọng cao sang thế mà khi xuất gia thì Ngài bố thí tất cả 
để trở thành người khất sĩ. Do đó triết lý cao thượng của đạo Phật là đi
 ngược lại với cuộc sống của thế tình. Những gì thế gian xem là cao quý 
thì nhà Phật coi như cỏ rác. Còn những gì mà thế nhân khó thực hành thì 
nhà Phật mới cho là cao quý. Do đó, nếu nói về vật chất thế gian thì bảy
 báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô và mã não. Nhưng 
diệu ý ở đây, bảy báu là bảy con đường thiện xão chuyển con người từ mê 
đến giác, từ phàm đến Thánh. Đây chính là Thất Thánh Tài và gồm có: 
Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xả và Trí tuệ.
	Vànglà vật cao quý chẳng khác gì Giới
	Bạclà sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng tin  vào Phật pháp, không còn nghi ngại.
	Lưu lylà lưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe.
	Xà cừcó hình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối.
	Trân châulà thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.
	San hôthì tượng trưng cho Buông xả.
	Mã nãothì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.
	Thất Thánh tài nói lên quá trình tiến tu 
của người Phật tử bằng cách giữ gìn giới hạnh để tâm được thanh tịnh rồi
 mới phát khởi lòng tin vào Chánh Pháp vì Phật đã khẳng định rằng ai ai 
cũng có khả năng thành Phật nếu tinh tấn tu hành. Nếu có được công đức 
thì nên buông xả, pháp thí hết bằng cách hồi hướng cho tất cả chúng 
sinh. Con đường Phật đạo viên mãn là người Phật tử phải biết ăn năn sám 
hối làm lành tránh dữ và vung bồi công đức thì trí tuệ sẽ phát sinh. Có 
trí tuệ tức là thấy được Chân lý. Mà muốn thấy được Chân lý thì con 
người phải có đủ nghị lực để lìa bỏ, buông xả và hy sinh những của cải 
cao quý tạm bợ của trần gian để vào Thánh đạo bằng cách tích tụ hằng hà 
công đức, giữ tâm thanh tịnh và dựa theo Thất Thánh Tài thì mới thành 
tựu.
	2)Phật Quang Minh có thể sống trên 200 triệu năm?
	Dựa theo tư tưởng của kinh Hoa Nghiêm 
(Gandavyuha), đức Phật bây giờ không còn là người sống trong thế giới có
 nhận ra giữa những giới hạn của thời gian và không gian. Trong thế giới
 tâm linh này, khái niệm về thời gian hoàn toàn bị xóa bỏ. Phật trong 
Hoa Nghiêm là không có trong thời gian liên tục nghĩa là quá khứ, hiện 
tại và vị lại được cuộn tròn trong cái khoảnh khắc giác ngộ hiện tại 
này. Đây chính là Trí Huệ Phật (Phật tánh) của tất cả mọi người. Vì Phật
 nói ở đây là Trí Huệ Phật thuộc về thế giới vô vi mà ở đó thời gian là 
vô nghĩa nên kinh có thể nói Phật thọ một trăm triệu, hai trăm triệu năm
 hay bao nhiêu triệu năm cũng được.
	Do đó đối với kinh điển Đại thừa, không thể dựa vào văn tự mà hiểu ngay được cho nên các bậc tôn đức ngày xưa nói rằng:”Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”
 nghĩa là dựa vào văn tự của kinh điển mà nói theo đó là oan cho ba đời 
chư Phật, còn rời bỏ kinh điển mà nói cho dù là một chữ cũng là ma nói. 
Vì thế khi nghe kinh nói vị Phật này thọ trên mấy trăm triệu năm hay 
quốc độ toàn là vàng bạc trân châu quý báu thì đừng hiểu thẳng như vậy 
là hàm oan cho ba đời chư Phật bởi vì các Ngài chỉ dùng phương tiện để 
diễn bày Phật tánh (Trí Huệ Phật) và thâm nghĩa của Thất Thánh Tài chớ 
trên vũ trụ này không ai sống thọ đến mấy trăm triệu năm bao giờ và cũng
 không có thế giới nào làm toàn bằng vàng bạc pha lê như thế trong càn 
khôn vũ trụ này cả, chẳng những nó không phù hợp với khoa học ngày nay 
mà còn đưa con người sống trong ảo tưởng hoang đường (tưởng tri). Đức 
Phật chỉ dạy con người phát triển tuệ tri (trí tuệ sáng suốt) chớ không 
dạy tưởng tri. 
	Khi nói đến tư tưởng Hoa Nghiêm, cũng nên
 nhắc đến bài pháp của Lâm Tế Thiền sư nói về về Văn-thù (Mañjuśrī), Phổ
 Hiền (Samantabha) và Quán Thế Âm (Avalokiteśvara). Ngài nói:
	-Có một số tăng đồ tìm kiếm Văn-thù trên 
Ngũ đài sơn, nhưng họ đã bước sai đường rồi. Chẳng có Văn-thù nào trên 
Ngũ đài sơn. Các người muốn biết ngài ở đâu không? Ngay tại lúc này, cái
 gì đó nó đang hành sự trong các ngươi, vững vàng không lay động, tin 
chắc không nghi ngờ, cái đó chính là Văn-thù sống vậy. Ánh sáng vô phân 
biệt chớp lên trong một niệm của các ngươi, đấy là ngài Phổ Hiền của các
 ngươi thường trụ chân thật. Mỗi một niệm của các ngươi, mà biết cách bẻ
 gãy xiềng xích, được giải thoát trong mọi thời, đó là đang thâm nhập 
vào Chánh định của Quan Thế Âm. Mỗi vị cũng hiện hành đồng thời và đồng 
xứ, tuy ba mà một. 
	Ma thì có nội ma (Phiền não ma, Ngũ uẩn 
ma, Pháp hành ma, Tứ diệt ma, Tử ma) và ngoại ma (Chư thiên ma). Tuy 
ngoại ma đôi khi hóa hiện nhiều hình tướng ma quái khác nhau để hảm hại 
hay hù dọa con người, nhưng thật ra nội ma thì quan trọng hơn nhiều. Nội
 ma thì không hình không tướng mà có đủ nội lực để sai khiến và thúc đẩy
 con người vào hố thẳm của tội lỗi đau thương nên đạo Phật chỉ chú trọng
 đến nó để thanh lọc thanh tâm của mình. Người đạo tâm yếu thì bị ma 
quái chọc ghẹo, quấy phá và đôi khi còn bị hảm hại nữa. Còn những bậc 
đức độ cao dầy và ý chí sắt đá chẳng những không khiếp nhược trước bọn 
ma quỷ nầy mà họ còn đem lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình để hóa độ chúng 
trở về với chánh đạo.
	Như thế đức Phật Thích Ca đã giải bày rất
 rõ ràng rằng bất cứ ai thực sự thấu hiểu và hành trì đứng đắn chân lý 
của Ngài thì sẽ thành một vị Phật như Ngài. Có thể khẳng định rằng không
 có nhân bản nào hơn nhân bản kinh Pháp Hoa, không có nhân vị nào hơn 
nhân vị kinh Pháp Hoa, không có dân chủ nào hơn dân chủ kinh Pháp Hoa và
 không có bình đẳng nào hơn tinh thần bình đẳng của kinh Pháp Hoa. Đây 
chính là tinh hoa của đạo Phật, đưa Phật giáo lên vút tận ngàn khơi 
trong khi những tôn khác trên thế giới vẫn còn leo đeo nếu không muốn 
nói là dậm chân tại chỗ vì những giáo điều bất công, bất bình đẳng của 
họ.
	Nói xong, Phật thuyết một bài kệ lập lại ý trên.
	Lúc bấy giờ ngài Đại-mục-kiền-liên, 
Tu-bồ-đề, Ca Chiên Diên… thảy đều run sợ. Chấp tay chiêm ngưỡng Phập và 
cùng có chung tâm niệm đại ý như sau: Thế Tôn, nếu thấu rõ lòng chúng 
con, xin ban cho chúng con lời thọ ký để được an lòng. Chúng con biết 
lỗi của Tiểu thừa, nhưng chưa tin  khả năng của mình có thể được Phật 
tuệ. Chúng con ví như người đói gặp bữa tiệc vua, nhưng chưa dám ăn. Dù 
nghe Phật nói tất cả sẽ thành Phật, nhưng chưa được Phật thọ ký thì lòng
 chúng con vẫn còn lo ngại. Phật thọ ký rồi, lòng chúng con thỏa mãn, 
như kẻ đói được bảo ăn. 
	Khi Tôn giả Đại Ca Diếp được Phật thọ ký 
sẽ thành Phật thì các ngài Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên nóng 
nảy, bồi hồi, lo sợ không biết Phật có thọ ký cho mình chăng. Các ngài 
nghĩ rằng trình độ tu chứng của mình cũng ngang hàng với ngài Ca Diếp, 
thời gian theo chân đức Phật hoằng pháp độ sanh cũng chẳng thua kém gì 
ngài Ca Diếp. Đại Ca Diếp là đại đệ tử, các ngài cũng là đại đệ tử của 
Phật, Đại Ca Diếp được Phật thọ ký, không lẽ Phật không thọ ký cho mình?
 Vì thế nếu được Phật thọ ký thì cũng như được rưới nước cam lồ khiến 
cho tâm các ngài được mát mẻ, nhẹ nhàng thanh thoát. Hàng Thanh Văn thì 
chấp có tu, chấp có chứng đắc, chấp có Niết bàn…cho nên ở đây các Ngài 
chấp phải được nghe chính Phật thọ ký thì mới an lòng. Vì còn chấp, còn 
tùy thuộc vào khuôn khổ nên các ngài tự ví mình như người đói được vua 
ban cho đủ thứ thức ăn sang trọng bày la liệt trên bàn, nhưng lòng còn 
lo sợ không dám ăn vì chưa được mời. Đến khi vua mời, các ngài mới dám 
ăn. Tuy thấy các Tôn giả Xá Lợi Phất và Đại Ca Diếp được Phật thọ ký, 
nhưng chưa dám tin rằng mình sẽ được Phật thọ ký thành Phật cho đến khi 
chính thức được đức Phật thọ ký thì các ngài mới an lòng, mới tin chắc.
	Khi Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung 
Hoa thì Thiền tông cũng nối tiếp tư tưởng thọ ký này cho việc ấn chứng 
của các thiền sư ngộ đạo.
	Lục Tổ Huệ Năng sau khi làm bài kệ:
	Bồ Đề bổn vô thọ
	Minh cảnh diệt phi đài
	Bồn lai vô nhất vật
	Hà xứ nhạ trần ai
	Dịch là:
	          Bồ Đề chẳng phải cây
	Chơn tâm chẳng phải đài (gương)
	          Xưa nay không một vật
	          Chỗ nào dính bụi trần.
	          Liền được Tổ Hoằng Nhẫn ấn 
chứng (ngộ đạo) và trở thành Lục Tổ. Về sau, khiLục Tổ trụ trì ở chùa 
Nam Hoa, Vĩnh Gia Đại sư nghe lối truyền “tâm ấn”  của Thiền tông. Đó là
 “Nhĩ đề diện mệnh, khẩu thọ tâm hội” nghĩa là “đối diện rỉ tai, lời trao tâm lãnh” nên Sư không ngại ngàn dặm đường xa tìm đến Lục Tổ để cầu ấn chứng.
	Lúc Sư đến thì cùng lúc Lục Tổ đang 
thuyết pháp. Sư đắp y, tay cầm tích trượng tiến lên pháp tòa, đi nhiễu 
bên phải ba vòng, rồi đứng trước Lục Tổ, không cúi đầu đảnh lễ mà quát 
lớn một tiếng. Tổ hỏi :
	- Người xuất gia gọi là Sa-môn phải có 
phép tắc, phải đủ ba trăm oai nghi, ba ngàn tế hạnh. Tại sao ông tới đây
 mà lại có thái độ thô lỗ như vậy, một chút lễ phép cũng không có?
	Vĩnh Gia đáp :
	- Sanh tử là việc lớn, vô thường quá mau.
	Ý Sư muốn nói rằng việc dụng công tu tập 
quá cấp bách nên không còn thời gian để làm lễ. Chuyện sống chết quá to 
lớn, con quỷ vô thường nó đến bất cứ lúc nào nên không có thì giờ hành 
lễ hay nghiên cứu cái gì là ba trăm oai nghi hay ba ngàn tế hạnh cả.
	Tổ bèn nói :
	- Sao chẳng thể giải cái không sanh và liễu ngộ cái không mau chóng?
	Ý Tổ muốn nói rằng tại sao Sư không 
nghiên cứu pháp vô sanh là để đối lại với sanh tử? Tạo sao không thấu 
hiểu đạo lý của cái không mau là để đối lại với cái vô thường quá mau.
	Sư thưa lại :
	- Thể giải tự tánh tức là không sanh, liễu ngộ tự tánh rồi thì vốn không có mau chóng.
	Ý Sư nói rằng khi đã quay về với thể tánh
 thanh tịnh tức là sống với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh 
của mình thì làm gì còn sống chết tức là vô sanh. Và một khi sống với 
cái tự tánh thanh tịnh đó thì không còn quá khứ, hiện tại hay vị lai tức
 là tâm không còn bị thời gian (ngoại trần) giả dối chi phối.
	Tổ bảo :
	- Nếu ông đã nói rằng thể giải tức vô sanh, ngộ rồi thì vốn không có mau chậm, vậy ai là kẻ phân biệt?
	Ý của Tổ là: tuy biết rằng hễ liễu ngộ 
chơn tâm Phật tánh thì bất sanh bất tử, không còn già trẻ sống chết đổi 
thay, nhưng ai là người nói? Vì hễ có nói là hư vọng, đâu còn là chân 
thật cho nên chơn tâm biến mất.
	Sư đáp :
	- Phân biệt cũng chẳng phải ý. Nghĩa là không có tâm niệm ở chỗ phân biệt.
	Ý của Sư là biết chớ chẳng nói ra. Nói là
 nói vậy thôi chớ không có ý niệm nói. Vì thế mà ngày xưa chính đức Phật
 tuy thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, nhưng Ngài nói “Ta chưa hề nói một
 chữ” bởi vì cái mà nói được thì không thật.
	Liền đó, Lục Tổ bèn ấn chứng cho Vĩnh Gia Đại sư.
	- Đúng thế! Đúng thế!
	Sư thấy Tổ đã ấn chứng cho mình, bèn dùng đầy đủ oai nghi lễ tạ Tổ. Sau đó Sư xin cáo từ.
	Tổ thấy Sư tới nơi chỉ nói mấy câu rồi ra đi, mới hỏi rằng:
	- Sao lại ra đi quá mau như vậy?
	Sư thưa :
	- Vốn tự không động, há có mau ư?
	Ý Sư muốn nói bổn lai không đến không đi thì làm gì có mau có  chậm?
	- Ông thật đã chứng được vô sanh!
	- Vô sanh có ý sao?
	- Không ý, cái gì phân biệt được?
	- Phân biệt cũng không phải ý.
	- Ông có thể liễu, nhưng không nên đi.
	Lúc đó Sư biết Lục Tổ quả đã ấn chứng cho
 mình nên Sư ở lại chùa Nam Hoa một đêm. Vì thế mà người đương thời gọi 
Sư là “Nhất túc giác” nghĩa là ngộ một đêm. Vĩnh Gia Đại sư là người đã 
nghiêm trì kinh Duy Ma Cật đến chỗ liễu ngộ và về sau viết ra “Chứng Đạo
 Ca”.
	Phật giáo Đại thừa không chấp có chứng 
đắc nên Tâm kinh có câu “Vô Trí diệc Vô đắc” và “Dĩ vô sở đắc cố” nghĩa 
là kinh dùng chữ “VÔ” để quét sạch cái chấp của chúng sinh tức là chấp 
có cũng bỏ, chấp không cũng bỏ, nhưng Vĩnh Gia Đại Sư làm những bài ca 
(bài kệ) để nói lên chỗ chứng đắc của mình thế thì ngài nói chỗ chứng 
đắc gì? Nếu đã ngộ đạo thì tại sao ngài vẫn còn chấp? Đã không có chỗ 
chứng đắc thì cần gì phải đi ngàn dặm, vượt núi trèo non cầu người ấn 
chứng? Ngài có tự mâu thuẫn với chính mình chăng? Trong Chân Không Diệu 
Tánh, Phật tánh luôn sẵn có cho nên chứng đắc chỉ là cách nói, là giả 
danh để tìm về với con người thật tức là Bản Lai Diện Mục của chính 
mình.
	          Tóm lại, những đệ tử Phật khi 
xưa trông mong được Phật thọ ký như thế nào thì các Thiền sư Đại thừa 
đời sau cũng khao khát được thầy ấn chứng cũng như vậy. Vì thế mới có 
những mẩu chuyện nói về các Thiền sư sau khi ngộ đạo rồi liền đi tìm các
 vị Thiện hữu tri thức để trình lại sở ngộ của mình và cầu ấn chứng để 
yên tâm tu hành. Nên nhớ ngộ đạo chỉ là bước đầu tiên trong tiến trình 
hướng về giải thoát giác ngộ mà cứu cánh phải là thành đạo. Cũng như 
kiến tánh chỉ là nhận được Phật nhân của mình còn đến Phật quả tức là 
thành Phật đòi hỏi hành giả dụng công tu hành trải qua nhiều đời nhiều 
kiếp nữa. 
	Biết tâm niệm của các đệ tử, Thế Tôn bèn bảo: 
	-Ông Tu-bồ-đề, đời vị lai phụng 
thờ 300 muôn ức na-do-tha Phật cúng dường,  cung kính, tôn trọng, ngợi 
khen, thường tu hạnh thanh tịnh, tròn đủ đạo Bồ tát. Thân rốt sau thành 
Phật hiệu danh tướng Như Lai, đầy đủ mười đức hịêu. Kiếp tên Hữu-Bảo, 
nước tên Bảo Sanh, quốc độ bằng thẳng, đất lưu ly, cây báo trang nghiêm,
 hoa báu khắp đất.  Không có các thứ nhiễm ô bất tịnh. Dân cõi nước đó 
chỗ ở đẹp đẽ, nguy nga, tráng lệ. Hàng đệ tử Thanh Văn đông không kể 
xiết. Chúng Bồ tát vô số ức na-do-tha. Đức Phật thọ 12 tiểu kiếp. Chánh 
pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp. Phật thường trụ trong hư không thuyết pháp 
độ thoát vô lượng Bồ tát và Thanh văn. 
	Ở đây, đức Phật dùng chữ na-do-tha nghĩa 
là hằng hà sa số, bất khả thuyết tức là nhiều vô lượng không thể nói hết
 ra được. Ý nghĩa đoạn kinh này cũng giống như đoạn kinh trước. Đức Phật
 dạy Tôn giả Tu Bồ Đề cúng dường, cung kính, tôn trong, khen ngợi vô 
lượng chư Phật và tu trọn vẹn lục độ vạn hạnh thì ngài sẽ thành Phật 
hiệu là Hữu Bảo Như Lai, có quốc độ tên là Bảo Sanh. Trong thế giới có 
đủ Tam Bảo nên gọi là Hữu Bảo và Tam Bảo sinh vào quốc độ của ngài nên 
gọi là Bảo Sanh.
	Chư Phật ở đây chính là Phật tánh thanh 
tịnh vĩnh hằng trong tâm của tất cả chúng sinh. Vì vậy, cung kính, cúng 
dường nghĩa là phải quay về với Chơn tâm, Phật tánh, tự tánh thanh tịnh 
bản nhiên vốn có của mình mà sinh hoạt trong đó. Nói cách khác cúng 
dường, cung kính Phật ở đây là giữ gỉn thân khẩu ý cho được thanh tịnh, 
tránh xa điều bất thiện và vun bồi xây đắp các việc lành. Làm chủ sáu 
căn đừng cho chạy theo khách trần phiền não, chặt đứt thập triền thập sử
 khiến cho tâm luôn thanh tịnh, có khinh an tự tại thì đây là sự cúng 
dường vô vàng chư Phật rồi vậy. Hàng Thanh Văn, Bồ Tát trong quốc độ này
 nhiều vô số kể nghĩa là tiến trình đến Phật quả phải trải qua nhiều 
giai đoạn, đòi hỏi công phu tu hành vô lượng vô biên tiêu trừ kiến hoặc,
 tư hoặc, vô minh hoặc và thực hành lục độ vạn hạnh viên mãn cho đến khi
 đạo quả viên tròn thì thành Phật. Do đó không có vấn đề cầu nguyện van 
xin trong đạo Phật mà chỉ có một con đường duy nhất để viên thành Phật 
đạo là vận công tu hành, loại bỏ dần dần cho hết tất cả tập khí ngã mạn,
 ly ác pháp, lìa tham dục thì tâm sẽ chuyển từ từ về hướng thanh tịnh 
Niết bàn. Vì thế cho dù là tu theo Tiểu thừa, Đại thừa hay Nhất thừa thì
 cứu cánh vẫn là loại cho hết cái gốc tham sân si bằng không cho dù có 
kiến tánh hay ngộ gì đi chăng nữa thì trong tâm vẫn còn tranh chấp, chạy
 theo thời thế, ham muốn lợi danh tức là vẫn là phàm nhân thế tục, không
 phải là Thánh giả.
	Rồi đức Thế Tôn cũng nói bài kệ lập lại ý nghĩa trên nghĩa là trùng tụng. 
	Đức Thế Tôn dạy tiếp:  
	-Ông Ca-chiên-diên đời vị lai 
dùng các đồ cúng dường và phụng thờ 8.000 ức Phật. Sau khi chư Phật diệt
 độ, ông dựng tháp cao 1.000 do tuần, rộng 500 do tuần, toàn bằng vàng 
bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, san hô,  hổ phách, còn 
cúng các thứ hoa thơm, chuỗi ngọc, hương xoa, hương đốt, lọng nhiểu, 
tràng phan… làm cho tháp miếu  huy hoàng tráng lệ. Sau đó lại cúng dường
 20 muôn ức Phật nữa. Bấy giờ đầy đủ đạo Bồ tát, ông sẽ được thành Phật 
hiệu Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai đủ mười đức hiệu. Quốc độ của Phật
 tòan thất bảo hợp thành. Lan can trang trí  bằng vàng ròng, châu ngọc 
báu lạ, cõi nước của Phật Kim Quang Như Lai không có 4 đường dữ: Địa 
ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la. Chỉ có Trời, Người, và vô lượng 
Thanh Văn, Bồ Tát. Phật thọ mạng 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ thế 20 
tiểu kiếp, tượng pháp cũng vậy. 
	Kinh dạy rằng sau khi chư Phật nhập diệt,
 Tôn giả Ca Chiên Diên xây tháp cao 1000 do tuần, rộng 500 do tuần toàn 
bằng vàng bạc, lưu ly, rân châu, mã não…Mỗi do tuần là một dặm tức là 
trên 1.6 cây số. Thử nghĩ làm sao Tôn giả Ca Chiên xây được một cái tháp
 cao trên 1600 cây số, có chu vi khoảng 2500 cây số vuông và làm toàn 
bằng những thứ vàng bạc quý báu. Vàng bạc ở đâu mà có thể quyên về để 
xây một cái tháp quá lớn như vậy? Giả sử xây được như thế, nhưng với mục
 đích gì? Đức Phật Thích Ca bỏ cả cung thành tráng lệ, bỏ cả vợ đẹp con 
xinh, bỏ cả uy quyền danh vọng, bỏ tất cả để trở thành người Khất sĩ rồi
 mới thành Phật. Do đó giáo lý tuyệt vời của đạo Phật là buông xả chớ 
đâu phải đi tu là phải xây chùa, xây tháp cho thật to, thật lớn để mang 
thêm nỗi khổ cho mình, cho người.
	Nhưng thâm ý của kinh khi nói xây dựng 
bảo tháp to lớn, đẹp đẻ là muốn trao dồi trang nghiêm về Pháp tánh. Bởi 
vì những thứ như vàng bạc, pha lê, trân châu, mã não…vốn có tự tánh 
thanh tịnh bản nhiên, không hề bị ô nhiễm. Sau ðó cúng dýờng vô lýợng 
chý Phật là trao dồi Phật tánh của chính mình. Đó là mỗi ngày phải bồi 
dưỡng trí tuệ, phát triển từ bi để sống gần với Chơn tánh trong sáng của
 mình. Khi đã thấu triệt Pháp tánh của vạn pháp và Phật tánh của chính 
mình thì con đường thành tựu Phật quả sẽ không còn xa nữa. Người tu theo
 Đại thừa phải biết rằng thật tướng của vạn pháp là tướng “Không” ngay 
cả duyên sanh như “Huyễn” nên không chấp cái gì là thật cả. Vì thế cho 
dù bảo tháp làm bằng vàng bạc, trang trí  huy hoàng tráng lệ thì nó vẫn 
là “Không”, do duyên giả hợp chẳng khác nào như giấc mộng, như huyễn 
hóa, như bọt nước, như bong bóng trời mưa, như làn sương buổi sáng, như 
ánh điện chóp nhanh, có đó rồi mất đó, rốt cuộc chẳng có gì.
	Kinh điển tối thượng thừa không dạy chúng
 sinh xây chùa to, tháp lớn chỉ làm tổn hại sức bá tánh, tăng thêm tập 
khí ngã mạn (chùa tôi lớn hơn chùa thầy) mà chỉ dạy họ quay về sống 
người sống theo chân lý, sống đúng với chân lý và sống phù hợp với chân 
lý.Con người vìchạy theo trần cảnh, sáu căn luôn dính mắc sáu trần nên 
quên đi cái tánh giác, Phật tánh sáng suốt của mình. Nhưng tuy bị lãng 
quên tánh giác vẫn luôn sáng soi chiếu rọi qua sáu căn mà con người 
không bao giờ để ý đến. Vì thế nếu chúng sinh quay về hồi quang phản 
chiếu, soi sáng tự tánh để sống với chơn tánh hằng sáng của mình thì vô 
minh tan biến, phiền não tiêu trừ, thân tâm thường an lạc.
	Đức Thế Tôn tuyên lại ý nghĩa trên bằng một bài kệ. 
	Sau hết, đức Phật thọ ký cho ông 
Đại-mục-kiền-liên rằng ông Đại-mục-kiền-liên sau nầy sẽ cúng dường 8.000
 ức Phật.  Sau các Phật diệt độ, dựng tháp miếu cao 1.000 do tuần, rộng 
500 do tuần, cũng toàn bằng thất bảo. Trang trí hương hoa, chuỗi ngọc 
vàng ròng, lọng nhiểu, tràng phan…để cúng dường trang nghiêm tháp miếu. 
Sau đó, lại cúng dường 200 muôn ức Phật, rồi được thành Phật hiệu 
Đa-ma-la-bạt-chiên-đàn-hương đủ mười đức hiệu. Kiếp tên Hỉ Mãn, nước tên
 Ý Lạc. Quốc độ bằng thẳng. Đất pha lê cây vàng, lá bạc, hoa trân châu, 
khắp nơi sạch sẽ, ai thấy cũng hoan hỉ. Trời Người vô số, Thanh Văn, Bồ 
Tát không thể đếm xiết. Phật thọ 24 tiếu kiếp, tượng pháp cũng vậy. 
	Sau cùng, Phật thọ ký cho ngài Mục Kiền 
Liên sau này sẽ thành Phật, hiệu là Đa-Ma-La-Bạt Chiên-Đà-Hương Như Lai.
 Đa-Ma-La-Bạt nghĩa tự tánh thanh tịnh, chẳng nhiễm bụi trần. Chiên Đàn 
Hương là tên của một thứ gỗ thơm nhất đời. Thế giới của Ngài là Hỉ Mãn 
ngụ ý là trong thế giới này, toàn là sự an vui cho nên cũng còn có tên 
là Ý Lạc. Cúng dường cho 8000 ức Phật nghĩa là bồi dưỡng, cung cấp trí 
tuệ giải thoát giác ngộ của mình. Cũng giống như những thế giới của 
những vị Phật ở trên, cõi Phật của ngài Mục Kiền Liên có rất nhiều kim 
cương, châu báu, lầu vàng gác tía, nhưng đây chỉ là dẫn dụ để chúng sinh
 ham thích mà tu đạo chớ cho dù là gì đi chăng nữa thì vẫn là sinh diệt 
vô thường. Thí dụ, chúng sinh nhìn đóa hoa thì cho là hoa lan màu trắng 
rất đẹp, rất thơm, nhưng đức Phật không nhìn đoa hoa bằng hình tướng, 
màu sắc bên ngoài mà Ngài nhìn nó là như thị tướng, như thị tánh, như 
thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị 
quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh nghĩa là Ngài nhìn thẳng vào 
thật tướng của đóa hoa chớ không nhìn hình tướng biến đổi sinh diệt như 
phàm nhân. Tại sao? Bởi vì tên hoa lan là những danh ngôn giả lập do con
 người đặt ra để gọi vậy thôi chớ tên hoa lan không bao giờ có trong đóa
 hoa đó. Một thí dụ khác, nhìn vào chiều dài của lịch sử nước Việt Nam 
bắt đầu từ thời Văn Lang các vua Hùng Vương (2809-258 trước công nguyên 
tức là trước tây lịch), đến Âu Lạc thành Cổ Loa (257-207 trước công 
nguyên tức là trước tây lịch), đến Nam Việt gồm Lưỡng Quảng (207-111 
trước công nguyên tức là trước tây lịch), đến thời Hai Bà Trưng (40-43 
sau công nguyên tức là trước tây lịch), đến thời đại Vạn Xuân tiền Lý 
(544-602), rồi đến An Nam (671-…), đến thời đại Đại Cồ Việt (968-980), 
rồi đến Đại Việt (1010-1527), sau đó đổi sang Đại Ngu (Nghiêu) 
(1400-1407) Hồ Quý Ly diệt nhà Trần, rồi đến Đại Nam (1820-1945) rồi sau
 cùng đến Việt Nam cho đến ngày nay. Gọi nhiều tên như thế vậy tên nào 
là tên thật cho đất nước Việt Nam? Không có tên nào là tên thật cả vì nó
 là giả danh do con người đặt ra vậy thôi. Mỗi triều đại gọi một cái tên
 khác nhau, nhưng đất nước Việt Nam muôn đời vẫn là đất nước Việt Nam, 
không thay đổi.
	Tuy kinh điển Đại thừa thường nói có nói 
thế giới này, thế giới nọ, nhưng pháp giới là nhất chân, là bất nhị nên 
thế giới này cũng là thế giới kia. Vì thế trong kinh Duy Ma Cật, Bồ-tát 
trụ bất tư nghì giải thoát, có thể lấy nước biển cả để vào lỗ chân lông 
mà nước biển cả vẫn y nhiên. Các loài thủy tộc cá, tôm, rùa, rạch…không 
bị khuấy động. Long vương, quỷ thần, A tu la…không hề hay biết và họ 
chẳng bị nhiễu hại chút nào. Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, còn xắn 
lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay và ném qua hằng hà sa thế
 giới, rồi thu về đặt lại chỗ củ mà thế giới vẫn y nhiên. Người người ở 
trong các thế giới kia không hề hay biết về sự đi lại của mình.
	Kinh điển Đại thừa thuộc loại quyền giáo 
nghĩa là đức Phật dùng những thí dụ để diễn tả Chân lý cao siêu huyền 
diệu mà không thể nào diễn đạt được bằng ngôn ngữ bình thường của con 
người. Vì thế trong phẩm thọ ký này, vị Phật nào cũng sống trên mấy trăn
 triệu năm, quốc độ thì toàn là vàng bạc, trân châu, mã não. Nhưng thâm ý
 của kinh là khuyến khích chúng sinh phải quay về bồi dưỡng trí tuệ, 
tăng trưởng tâm từ bi tức là sống với Phật tánh sáng suốt vĩnh hằng sẵn 
có trong họ. Càng sống đúng, sống phù hợp với chân lý là càng vun bồi 
tăng trưởng công đức, phước đức của mình thì cũng như cúng dường, phụng 
thờ cho hằng hà vô số chư Phật vậy. Đừng hiểu rằng đức Phật Thích Ca 
thiếu phức đức nên sinh vào thế giới Ta Bà toàn là gò đống, đất bùn sình
 nhơ nhớp, chúng sinh thì nhiều phiền não khổ đau. Còn Thanh Văn Bồ Tát 
thì chỉ võn vẹn có 1250 vị. Đó là chưa kể tuổi thọ chỉ có 80 tuổi, chánh
 pháp của Ngài chỉ trụ thế có 500 năm và tượng pháp 1000 năm. Phật là 
bình đẳng cho nên vị Phật nào cũng thế, ở đâu cũng vậy, không có vị Phật
 nào nhiều phước đức, hay công đức hơn vị Phật nào cả. Khi đến những 
chương sau, kinh nói đến tuổi thọ Phật vô lượng vô biên là chỉ cho Pháp 
thân bất sinh bất diệt sẵn có trong mỗi chúng sinh chớ đâu nhất thiết 
chỉ có vài trăm triệu năm cho nên trong Phật tánh, không có khái niệm về
 thời gian.
	Phật giáo Đại thừa quan niệm rằng khi nào
 có duyên thì từ Pháp thân liền ứng Hóa thân để độ sanh và khi hết duyên
 thì trở về Pháp thân cũng như bọt tan về biển vậy. Cho nên nói Phật 
sanh là chỉ cho Hóa thân. Nhưng Hóa thân thì không thật, mà không thật 
thì sanh cũng như không sanh.
	Đức Phật Thích Ca là một Hóa thân như vậy hiện giờ thân của chúng ta là thân gì? Thân
 của tất cả chúng sinh hiện hữu là Báo thân. Tại sao? Con người sống 
trên thế gian là theo “Nghiệp cảm” mà duyên khởi tức là nghiệp mình như 
thế nào thì phải cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy. Vì thế Báo là theo
 quả báo mà có. Người quả báo lành thì hạnh phúc, thân thể xinh đẹp và 
ít đau ốm còn người quả báo dữ thì cuộc đời có nhiều sóng gió, không 
toại nguyện. Thân của chúng ta là do quả nghiệp mà thành nên không giống
 nhau. Mà đã là báo thân thì tùy nghiệp cho nên hết nghiệp thì thân phải
 đi.
	Đức Phật có Hóa thân vậy chúng ta có Hóa thân chăng? 
	Hằng ngày chạy theo vọng tưởng có nghĩa 
là tâm của chúng ta luôn chạy theo sắc dục bên ngoài khiến Hóa thân phải
 chạy ngược chạy xuôi để thỏa mãn những sắc dục đó. Chừng nào Hóa thân 
tức những vọng niệm dừng lặng thì bấy giờ Pháp thân của chúng ta mới 
hiện ra.
	Bản chất của tâm thể là lặng lẽ tràn đầy 
trong sáng và nó ẩn tàng trong tất cả mọi người nên được gọi là bản 
nguyên hay tự tánh. Hằng ngày vì vọng tưởng dấy khởi liên miên nên con 
người chỉ thấy vọng tưởng mà không thấy được tâm thể của mình. Tệ hại 
hơn nữa họ còn lầm lẫn vọng tưởng là tâm của mình nên cả đời chạy theo 
nghiệp mà không hay không biết. Cũng như mặt biển lặng lẽ êm ái, nhưng 
một ngọn gió mạnh thổi qua làm giết chết sự yên lặng trầm tĩnh nầy tạo 
thành những lượn sóng nhấp nhô gầm thét thay thế sự yên lặng trong sáng 
ban đầu. Muốn đánh tan những làn sóng kia thì phải chận ngay ngọn gió 
mạnh. Con người thì cũng thế, nếu tâm dừng vọng tưởng, yên tịnh chỉ khi 
nào gió nghiệp lặng. Mà ngã là đối tượng chủ yếu của vọng tưởng. Khi 
thấy thân nầy là duyên hợp như huyễn, cảnh cũng duyên hợp như huyễn thì 
con người khỏi phải bận lòng về cái Ta của mình và cái Ta của vạn vật. 
Không chấp có cái Ta thì không sanh nghiệp tức là gió nghiệp yên và sóng
 vọng niệm cũng từ từ im bặt. Và bây giờ mặt biển tâm sẽ trở về với sự 
lặng lẽ tràn đầy trong sáng như xưa.
	Thật vậy tâm của Phật và tâm của chúng 
sinh thật ra không hề khác nhau. Cái tâm nầy có thể ví như mặt nước hồ 
thu vắng lặng êm đềm. Tâm của Phật thì như mặt nước yên tĩnh, trên đó 
mặt trăng chân lý có thể phản chiếu một cách toàn vẹn. Trong khi tâm của
 chúng sinh thì giống như mặt nước đang bị các làn sóng vô minh khuấy 
động không thể phản chiếu được gì. Muốn đánh tan những làn sóng vô minh 
đó con người phải sáng suốt dùng trí tuệ bát nhã để thấy được cái bản 
thể chân như bất sinh bất diệt trong mỗi chúng ta cũng như thấy rằng tất
 cả con người, vạn vật chẳng qua chỉ là hiện tượng duyên sanh tức là giả
 Có mà thôi.
	Mã Minh Bồ Tát có nói trong Luận Đại Thừa Khởi Tín rằng: “Nhất thiết chư pháp tùng bổn dĩ lai, ly danh tự tướng ly ngôn thuyết”
 nghĩa là muốn biết được thật tướng của các pháp thì phải xa lìa văn tự 
ngôn ngữ của con người. Ngay cả Mã Minh mà còn không chấp vào những pháp
 hữu vi như vàng bạc, pha  lê, mã não vì chúng là giả huyễn mà chỉ quay 
về với thật tướng, chân tướng của nó vì thế nếu nói quốc độ của chư Phật
 phải làm bằng bàng bạc… thì chẳng khác nào nói rằng trí tuệ chư Phật 
còn thua Mã Minh hay sao?
	Nhắc lại trong khoảng 600 năm sau ngày 
đức Phật nhập diệt, tình hình Phật giáo ở Ấn Độ trở thành đen tối rối 
răm. Bên trong Phật giáo Nguyên thủy phân chia thành nhiều bộ phái và 
tẩy chay không tin Đại thừa. Bên ngoài các tà thuyết ngoại đạo tìm cách 
phá hoại Chánh pháp. Vì thế Mã Minh soạn ra bộ Luận Đại Thừa Khởi Tín 
với mục đích xô tà đở chánh, trừ những nghi ngờ của Tiểu thừa, phá ác tà
 thuyết của ngoại đạo và làm cho mọi ngời phát khởi lòng tin Đại thừa. 
	Thông thường trong lục độ có Bố thí, Trí 
giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.  Lục độ chia riêng ra 
Thiền định và Trí tuệ là muốn cho hành giả thấy rõ hành tướng, công dụng
 và kết quả của hai pháp môn khác nhau. Nhưng trong  bộ Luận này, Mã 
Minh cũng dạy tu Lục độ, nhưng ngài góp chúng lại thành một và không gọi
 tu Định, Tuệ mà gọi là tu Chỉ, Quán. Tu Chỉ, Quán tức là tu Thiền định 
và Trí tuệ. Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng tức là Định. Quán là quan sát
 để thấu rõ chân lý của các pháp tức là Trí tuệ. Do đó tu Chỉ, Quán sẽ 
được Định, Tuệ bởi vì Chỉ, Quán là nhân mà Định, Tuệ là quả.
	Thế nào là trong Chỉ có Quán?
	Muốn ngăn ngừa, đình chỉ không cho các vọng tưởng nổi lên thì hành giả phải quan sát các pháp là không bởi vì các pháp là không nên hành giả chẳng chấp có khiến tâm không khởi tham sân si.
	Thế náo là trong Quán có Chỉ?
	Khi quan sát các pháp do nhân duyên hòa hợp, sanh không phải thật sanh, mà diệt cũng không phải thật diệt nên các pháp là giả có thì hành giả chẳng chấp không và từ đó các phiền não không sanh.
	Về sau, Trí Giả Đại sư trong thời gian ở 
tại Tu Thiền Tự (Yu Chuan Ssu) vào những năm 594 TL cũng đã viết tác 
phẩm Ma Ha Chỉ Quán. Lối giải thích tương đối khá phức tạp.
	Do đó người tham thiền, trong phải thoát 
ly thân tâm, ngoài xa lìa cảnh giới nghĩa là phải rời tâm, ý, thức mà 
tham cứu, phải ra khỏi con đường Thánh phàm mà tu học, phải viễn lý các 
cảnh giới vọng tưởng mà cầu đạo. Tóm lại, muốn thấy được chân lý thì 
phải phóng xả tất cả. Vì thế Lục Tổ nói rằng:”Phật Pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác” là như vậy.
	Để tuyên lại ý nghĩa trên đức Thế Tôn nói một bài kệ: 
	… Các đệ tử của ta 
	Bậc oai đức đầy đủ 
	Số đó năm trăm người 
	Ta đều sẽ thọ ký 
	Ở nơi đời vị lai 
	Đều sẽ được thành Phật 
	Ta cùng với các ông 
	Đời trước kết nhân duyên 
	Ta nay đã thuật nói 
	Các ông khéo lắng nghe.
	          Sau khi thọ ký cho những đại đệ
 tử ở trên, đức Phật hứa khả sẽ thọ ký cho năm trăm người nữa, ở đời vị 
lai sẽ thành Phật. Đức Phật và chúng sinh vì đã có nhân duyên trong quá 
khứ cho nên đến nay Ngài mới nói pháp vì thế chúng đệ tử hãy lắng nghe.