
Tưởng niệm Cố Trưởng lão Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn 
( 1931-2013 )
Trong
 một thời gian ngắn, Phật giáo Việt Nam đã mất đi năm cây đại thụ của 
Phật giáo:  Trưởng lão Hòa Thượng Thích Thanh Bích, Phó Pháp chủ GHPGVN -
 Hòa Thượng Thích Đắc Pháp - TBTS Phật giáo tỉnh Vĩnh Long . HT. Thích 
Giác Viên - TBTS Phật giáo thành phố Đà Nẵng . HT. Thích Chơn Thành - 
TBTS Phật giáo tỉnh Bình Thuận. HT. Thích Giác Dũng - Thành viên HĐCM, 
chứng minh BTS Phật giáo tỉnh Đăk Lăk và nay: 
																
								( ảnh được chụp tại quán cơm chay Khải Tường - Hà Nội, do Phật tử Nhài cung cấp cho BBT chuabuuminh.vn)
 
 Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn,   Ủy viên 
Thường trực Hội đồng Chứng minh GHPGVN,  Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN,
 Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Định.   Ủy viên Ủy Ban MTTQVN tỉnh 
Bình Định,  Viện chủ Tổ đình Thiên Đức, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Hòa Thượng thế danh : Hồ Thanh Tùng, sinh năm 1931 (Tân mùi). Hạ lạp 63 năm. Trụ thế 83 năm.
 
Tôi có cơ duyên gần gũi Hòa Thượng trong
 nhiều giai đoạn: Trước năm 1975 Hòa Thượng làm chánh đại diện Phật giáo
 tỉnh Pleiku, Kon Tum và Quảng Ngãi. Thời gian Ngài ở Chùa Tỉnh hội Phật
 giáo Pleiku (chùa Bửu Thắng) tôi cũng có ở chung với Ngài, 
Ngài ít khi có mặt ở chùa Bửu Thắng, bởi phật sự đa đoan, Ngài đi như 
chim bay bốn phương trời, thoạt đến thoạt đi. Sáng Pleiku, trưa Kon Tum,
 tối Quảng Ngãi....Uy đức của Ngài tăng chúng kính nể nép phục không dám
 gần, riêng tôi thì Ngài rất thương, thường xoa đầu và cười hiền. Thuở 
còn làm điệu tôi luôn nhớ đến Ngài bởi chút kỷ niệm được xoa đầu và nụ 
cười hiền dành  cho mình.
Sau một thời gian tôi không ở chùa Bửu 
Thắng Pleiku nữa, Sư Phụ Từ Hương gởi đi học Nha Trang, Phan Thiết, mỗi 
nơi tích cóp cho mình một chút kiến thức thế gian, một chút kiến thức 
phật học. Phần Ngài, Ngài vẫn luôn giong ruỗi hoằng hóa Phật pháp theo 
cách riêng của minh. Với Ngài hình như không có kẻ thù, ai cũng là bạn, 
giúp được thì giúp không phân biệt bên này bên kia, rất nhiều người đã 
thoát chết đoàn tụ với gia đình nhờ sự chở che bảo bọc của Ngài.
Trong chiến tranh vệ quốc, giành lại nền
 độc lập tự do cho dân tộc, hai miền Nam Bắc Việt Nam đã có rất nhiều 
trường hợp con ở Nam cha ở Bắc, anh ở Bắc em ở Nam, vợ ở Nam chồng ở Bắc
 với hai chính thể khác nhau. Với cách làm đạo của Ngài, Ngài đã thân 
cận chính quyền trước 1975, chính nhờ sự thân cận đó mà Ngài đã giúp cho
 nhiều người thoát chết vì tội yêu nước, giải phóng dân tộc, trong đó có
 anh Ba Sơn.
Bởi chính điều đó cho nên sau 1975 Ngài 
cũng  giống như Tô Đông Pha bị biếm trích nơi núi rừng hoang vắng. Thời 
gian này những người mang ơn Ngài cũng ít ai đến thăm viếng, chỉ còn có 
mẹ già luôn nhớ đến con tìm thăm chia sẻ đắng cay ngọt bùi. Ngày mẹ Ngài
 mất tôi có về Bình Định thăm và phúng viếng câu liễng với bài thơ ngắn:
Chiều nay mây trắng vương vương tóc,
Nhớ đến mẹ già quá lao lung.
Nghĩ đến tình đời nên con khóc,
 Nguyện mẹ tiêu dao chốn vô cùng.
 
Quan hệ với bốn phương trời, giúp đỡ rất
 nhiều người thoát án chết, nhưng đến khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn cô 
độc, chỉ còn có mẹ.
Trong thời gian biếm trích Ngài vẫn luôn
 cười tự tại, vẫn giảng đạo vẫn làm lễ Quy y cho những người bạn hữu 
duyên cùng cảnh ngộ. Hết thời gian biếm trích Ngài về lại chùa Pháp Hải 
Quy Nhơn hoằng đạo. Thời gian Ngài ở chùa Pháp Hải tôi có về thăm một 
lần, chứng kiến cảnh Ngài kéo xe cải tiến chở các vật dụng sinh hoạt 
chùa in tựa một lão nông mà rơi nước mắt. Đời Ngài thăng trầm in hệt 
tướng công Nguyễn Công Trứ, khi thì làm Thượng thư, khi thì làm lính 
trơn.
Đời Ngài không có bỉ thử, bên này bên 
kia. Đối tượng Ngài phụng sự giúp đỡ là chúng sinh, Tổ quốc Ngài phụng 
sự là Việt Nam, và cũng giống như Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ từng 
nói: " Những gì chúng tôi làm cho Phật giáo cũng có nghĩa là làm cho dân tộc, những gì chúng tôi  làm cho dân tộc cũng có nghĩa là làm cho Phật giáo".
 Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định thành lập, với tâm  nguyện 
phụng sự đạo pháp dân tộc Ngài được cung thỉnh chức vụ Trưởng ban trị sự
 hai nhiệm kỳ, Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh GHPGVN,  Ủy viên 
Hội đồng Trị sự GHPGVN.....
Thời gian này Ngài là Viện chủ Tổ đình 
Thiên Đức xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Tuy là Viện 
chủ, Ngài để lại Tổ đình cho đệ tử chăm sóc, tiếp tục vân du hoằng hóa 
bốn phương, khắp các tỉnh thành nơi nào cũng có dấu chân Ngài để lại: 
Huế,  Sài gòn, Hà Nội, Khánh Hòa, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Nông, Đăk Lăk, 
Phú Yên, Ninh Bình.... Hoa Kỳ, Úc, Myanmar.... Đến nơi nào Ngài cũng cứ 
nói chuyện đời xưa, chuyện đời nay, chuyện hài thấm đẫm thiền vị, cười 
ra nước mắt, và cuối cùng vẫn khuyên mọi người Quy y Tam Bảo. Trong thời
 gian đi hoằng hóa, nơi nào có đàn tràng kỳ siêu Liệt Sĩ, đồng bào tử 
nạn là Ngài luôn có mặt chứng minh. Thương anh linh những người trai trẻ
 hy sinh thân mình cho nền độc lập dân tộc, Ngài chú nguyện khai thị với
 tất cả tấm lòng bi mẫn nhất.  Vẫn luôn nhắc anh linh các liệt sĩ hãy 
buông bỏ hình hài đừng cố chấp bám víu những vật ngoài thân, mà phát tâm
 Quy Y Tam Bảo để sớm siêu thoát vãng sinh về cảnh giới an lành.
Những lần được may mắn gần gũi Hòa 
Thượng tôi đã ghi nhớ rất nhiều về những câu chuyện kể của Ngài, chuyện 
đời chuyện đạo, chuyện u mặc nghe xong cứ tủm tỉm mà cười. Nhất là những
 chuyện, những kỷ niệm về  các vị cao tăng cùng thời với Ngài: Như Hòa 
Thượng Trí Quang, Hòa Thượng Thiện Siêu, Hòa Thượng Đức Nghiệp, Hòa 
Thượng Thiện Bình, Hòa Thượng Tâm Giác, Hòa Thượng Thanh Long ....
 
“Vài mươi năm trước thì ta chưa có,
 
Vài mươi năm sau có cũng hoàn không,
 
Cuộc đời có có không không,
 
Chỉ còn đọng lại tấm lòng quê hương”.
 
Với Hòa thượng: Quê hương và Đạo pháp là
 trên hết. Với Quê hương không nơi nào trên trái đất mà gần gũi thân 
thương như Tổ quốc Việt Nam, do vậy tuy có đủ điều kiện để định cư ở 
nước ngoài Hòa thượng vẫn không đi. Với Đạo pháp mọi chức danh cũng chỉ 
là phương tiện để thuận duyên hành đạo. Khi thì làm Thư ký Phật giáo cứu
 quốc Liên khu 5. Khi thì làm Chánh đại diện Phật giáo các tỉnh Pleiku, 
Kon Tum, Quảng Ngãi. Khi thì Trưởng ban trị sự  PG tỉnh Bình Định - 
thành viên HĐCM Phật giáo Việt Nam. Ngài cũng thích nghe nhạc Trịnh Công
 Sơn và tâm đắc lời nhạc:" Nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp". Quan 
trọng là biết nhìn, tất cả quyền chức thế gian hay trong đạo cũng chỉ là
 phương tiện để đạt mục đích là phụng sự, phụng sự cho đời cho đạo. Nắm 
giữ cũng tự tại và buông cũng tự tại, cũng mỉm cười được như nụ cười của
 Ngài. Ngài có nụ cười rất đẹp và hỷ xả. Chúng ta hãy nhìn chân dung 
Ngài với nụ cười trầm lặng và luôn thường trực trên môi, và có phải đây 
là chân dung cao tăng Phật giáo Việt Nam trong thời hiện đại ?
Năm ngoái đi dự một Đại lễ tại Hà Nội 
tôi ở cùng phòng với Hòa Thượng, tối hôm đó Thầy trò uống nước trà trò 
chuyện có cả Phật tử Vinh, Phật tử Nhài, Phật tử Vinh rất có khả năng 
văn học nói với tôi: " Trí nhớ của Hòa Thượng như một bộ sử thi, con
 với thầy sắp xếp thời gian về ở bên cạnh Hòa Thượng để Hòa Thượng kể và
 ghi chép lại những câu chuyện về quá khứ, hiện tại, của Phật giáo trước
 và sau năm 1975, mà trong chính sử không thể nào ghi chép hết được, và 
nếu được sẽ viết thay hồi ký cho Hòa Thượng". Cứ nghĩ rẳng Hòa 
Thượng còn khỏe còn sống lâu, từ từ rồi thực hiện. Nhưng rồi vô thường 
đến, Ngài mỉm cười ra đi, ra đi mang theo tất cả biên niên sử của thời 
đại. Tiếc thay cho Phật giáo Việt Nam mất đi một Tòng lâm thạch trụ, Tổ 
quốc Việt Nam mất đi một công dân suốt đời hy sinh vì dân tộc. Với tấm 
gương nghị lực vô biên cả đời không chùng bước trước nguy nan thử thách,
 với cách tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên của Ngài trong cách 
hành đạo, chúng con nguyện nối bước học hỏi, đi theo hạnh nguyện của 
Ngài.
Với tất cả tấm lòng kính yêu thương tiếc, con kính viếng Giác linh Hòa Thượng một  bài thơ nhỏ:
Cứ vậy sống cứ vậy thương trầm tĩnh. 
Thản nhiên cười nhìn cuộc thế hợp tan.
 Lặng lẽ thở với thời gian Không Tính.
 Đóa hoa sen bừng nở gợi mơ màng.
 
Cầu nguyện Giác linh Hòa Thượng Cao đăng Phật Quốc, hội nhập Ta Bà hóa độ chúng sinh.
--------------------
Đệ tử: Thích Giác Tâm
Chùa Bửu Minh, Gia Lai.
Ngày 12 tháng 03 năm Quý Tỵ