Làm
 thế nào để tất cả chúng ta có được hạnh phúc? Ông cho  rằng, chúng ta  
có thể huấn luyện tâm trí mình theo những thói quen đem  lại hạnh phúc  
để có được cảm giác thanh thản và mãn nguyện thật sự.
Con đường từ một nhà  khoa học tài ba trở thành một tỳ kheo thông tuệ
    
        
            |  | 
        
            | Matthieu Ricard | 
    
Matthieu
 Ricard sinh ngày 15/2/1946 tại  Aix-les-Bains (Savoie,  Pháp), là con 
trai của ông Jean-François Revel -  một triết gia Pháp nổi  tiếng, và bà
 Yahne Le Toumelin - một nữ họa sĩ  theo trường phái trừu  tượng đã đi 
theo tiếng gọi của Phật giáo từ năm  1968. Sinh trưởng trong  một môi 
trường như vậy, Matthieu Ricard đã sớm  hình thành những tư  tưởng triết
 học và Phật giáo và mang trong mình niềm  đam mê và khát  khao được tìm
 hiểu về cuộc sống tu hành chốn thiền môn.
Bởi
 vậy, sau khi theo đuổi ngành Sinh  vật phân tử học tại trường đại  học,
 làm việc tại Viện Pasteur và hoàn  thành luận án tiến sĩ Sinh vật  học 
của Đại học Sorbonne vào năm 1972,  chàng trai Matthieu Ricard khi  ấy 
mới 26 tuổi đã thông báo với cha mẹ,  các thầy giáo và bạn bè về  quyết 
định sẽ từ bỏ sự nghiệp khảo cứu khoa  học, bỏ học bổng sang Hoa  Kỳ 
nghiên cứu thêm về Sinh vật học, bỏ cả  tương lai của một nhà khoa  học 
có hạng phía trước để xuống tóc đi tu,  làm một tỳ kheo học đạo tại  
vùng đất Tây Tạng.
Đây
 quả là một tin quá bất ngờ khiến tất  cả mọi người đều vô cùng  ngạc 
nhiên, nhất là đối với cha mẹ của  Matthieu Ricard – những người đã  đặt
 biết bao kỳ vọng vào cậu con trai  tài giỏi của mình.
Để
 giải thích về quyết định được cho là  khó hiểu này, Matthieu  Ricard đã
 có một cuộc nói chuyện thú vị với cha  mình, giữa một nhà tu  hành Phật
 giáo và một triết gia, trong đó có đoạn:  “Con đã theo đuổi  khoa học 
là vì con thích khảo cứu. Nhưng rồi con thấy  khảo cứu khoa học  có hay 
đến mấy cũng không giải quyết được vấn đề căn  bản của con  người. Con 
đã thấy làm khảo cứu là miên man đi sâu vào mọi  chi tiết, mà  riêng 
con, con thấy không thể làm mãi như thế được.
Trong
 khi đó, con lại để ý đến đời sống  tâm linh. Mới đầu, không có  gì là 
rõ rệt. Khi 15 tuổi, con đã tìm đọc  vài cuốn sách về tôn giáo, về  
Thiên Chúa giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo,  nhưng kỳ thay, không đọc Phật  
giáo. Hồi đó, sách về Phật giáo, khảo cứu  hay dịch thuật rất ít, được  
viết dưới nhãn quan của người Tây phương  hiểu sai Phật giáo là một  
triết học hư vô (nihilism) không màng đến trần  thế…
Nhưng
 thực ra con để tâm vào đạo Phật là  vào năm 1966, khi đó con 20  tuổi, 
còn ở đại học, sắp vào Viện Pasteur.  Con được xem một bộ phim  của một 
người bạn là Arnaud Desjardins về những  vị Lạt Ma Tây Tạng đã  phải di 
cư sang Bhutan khi Trung Cộng tiến chiếm  xứ này. Cũng khoảng  thời gian
 đó, con được nói chuyện với một người bạn  khác - tiến sĩ  Frederick 
Leboyer - mới ở Darjeeling (Ấn Độ) về, kể lại  có gặp mấy vị  Lạt Ma đó.
Chính
 những hình ảnh của Arnaud, của  Frederick và chuyện họ kể lại  đã gặp 
các vị Lạt Ma đó đã giúp con có  quyết định phải sang Hy Mã Lạp  Sơn. Vì
 con có cảm tưởng con đã thấy ở  các vị Lạt Ma đó hình ảnh của  chính 
những điều họ dạy dỗ, khuyên răn mọi  người. Con không hiểu rõ tại  sao,
 chỉ thấy họ đúng là những bậc thánh  nhân toàn hảo, những nhà hiền  
triết mà bây giờ, ở Tây phương rất khó tìm  thấy.
Muốn
 gặp các ngài Socrates hay Plato hay  ngồi dưới chân thánh  Francis 
d’Assisi thì làm sao được? Nhưng sẵn đây  chính các ngài là hiện  thân 
của những bậc thánh hiền. Con tự nhủ, nếu có  ai đạt được đến sự  toàn 
thiện, toàn hảo thì phải là các vị này”.
Vậy
 là, Matthieu Ricard đã thực hiện  chuyến đi đầu tiên của mình tới  Ấn 
Độ vào năm 1967, khi ấy  ông tròn 21  tuổi. Trong chuyến đi định  mệnh, 
ông đã có cơ duyên gặp gỡ với một vị   đại sư Lạt Ma tên là  Kangyur 
Rinpoché đầy lòng nhân ái và từ bi.  Matthieu Ricard được thầy  chỉ dạy 
về tâm linh, nhưng chưa bao giờ  học  một lớp học liên tục về  Phật giáo
 nào cả.
Ricard
 kể lại với cha mình: “Thầy con  nói rằng: “Phật giáo có rất  nhiều điều
 hay để học, nhưng điều quan trọng  là chớ bao giờ chuyên chú  quá vào 
sách vở lý thuyết mà quên mất thực  hành, bởi thực hành mới là  trọng 
tâm của tu tập đạo pháp”. Học với thầy,  con tự khám phá ra điều  căn 
bản của quan hệ thầy/ trò là tâm mình phải  hoà đồng được với tâm  của 
thầy. Có  thế mới học được phép quán tưởng để  đi đến sự hiểu biết  giác
 ngộ”...
Về
 đến Paris thì mệt nhoài nhưng con  thấy chuyến đi đó là một mặc  khải 
đã chi phối ý nghĩa và hướng đi của  đời con, mà con không biết nói  ra 
thế nào. Sau khi ở Ấn  Độ về, học năm  đầu tại Viện Pasteur con mới  
thấy rõ phải gặp lại thầy con là một điều  quan trọng nhường nào. Lúc  
nào, con cũng nghĩ đến điều  ấy”.
Vì 
thế  mà, đến năm 1972, Matthieu  Ricard quyết tâm từ bỏ cuộc sống  hiện 
đại và sự nghiệp đầy hứa hẹn của  một nhà khoa học để lên đường  sang 
Tây Tạng, tập trung vào việc thực  hành Phật giáo. Ông sống ở dãy  
Himalaya, học tập với vị đại sư Kangyur  Rinpoché và một số bậc thầy vĩ 
 đại khác trong giới Phật giáo. Năm 1979,  Ricard chính thức trở thành 
tu  sĩ, là người học trò gần gũi và thân  thiết nhất của đại sư Dilgo  
Khyentse Rinpoché.
Năm 
1980, cũng nhờ có đại sư Khyentse  Riponché, ông đã có cơ hội lần  đầu 
tiên được gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma mà  sau này ông đã trở thành phiên  
dịch viên tiếng Pháp cho ngài bắt đầu từ  năm 1989. Sau khi người thầy  
Khyentse Rinponché qua đời vào năm 1991, kể  từ đó, Ricard đã dành mọi  
tâm huyết và hoạt động của mình để thực hiện  tư tưởng đã được thầy  
truyền dạy.
Bàn về  những bí quyết của hạnh phúc
Matthieu
 Ricard đã sống trên rặng núi  Himalaya từ hơn gần bốn chục  năm nay bên
 những vị thầy tâm linh lớn. Ông  ở tại tự viện Shéchèn  (Nepal), cống 
hiến cuộc  đời cho tu hành, bảo tồn  nền văn hóa Tây Tạng  và cho những 
dự án nhân đạo ở Tây Tạng.
Ngoài
 thời gian thu tập và phiên dịch  tiếng Pháp cho Đức Đạt Lai Lạt  Ma, 
ông còn có nhiều hoạt động khác trong  vai trò của một nhà nhiếp  ảnh, 
dịch giả và đã xuất bản những tác phẩm  bàn về triết lý cuộc sống  của 
nhà Phật cũng như mối tương quan giữa Phật  giáo và khoa học.
Tiêu
 biểu trong số các tác phẩm của ông  là cuốn “Tu sĩ và triết gia”  ghi 
lại cuộc trò chuyện giữa hai cha con  ông được dịch ra 21 thứ  tiếng, 
cuốn “Vô tận trong lòng bàn tay” với đồng  tác giả là giáo sư  Trịnh 
Xuân Thuận - một nhà vật lý thiên văn học nổi  tiếng người Việt  mang 
quốc tịch Mỹ, cuốn “Biện luận về hạnh phúc”,  “Thành tuyết”, “Nghệ  
thuật thiền định” và “Hạnh phúc: Hướng dẫn phát  triển kĩ năng quan  
trọng nhất trong cuộc sống”. Ngoài ra, Ricard còn là  dịch giả của rất  
nhiều sách Phật giáo Tây Tạng.
Bàn
 về chân hạnh phúc, Matthieu Ricard  đã bày tỏ quan điểm của mình  như 
sau: Thực ra, “hạnh phúc” là một khái  niệm mơ hồ và người ta thường  bị
 lẫn lộn giữa hạnh phúc đích thực và  những cảm giác thích thú. Khi  
thích thú, chúng ta nhảy lên, làm động tác  này, động tác nọ, rồi chúng 
 ta ngã xuống, mệt nhoài và chán nản. Sự  thích thú thì tùy thuộc vào  
hoàn cảnh. Nó bị điều kiện hoá. Nếu ăn một  ly kem thì tuyệt, hai ly thì
  cũng được, nhưng ăn đến ly thứ ba thì bạn  sẽ muốn nôn ra. Sự thích 
thú  là thế đấy.
Còn
 hạnh phúc, đó là nhận thức bẩm sinh  của chúng ta. Chúng ta đi  trên 
tuyết, đi dưới bầu trời đầy sao và cảm  thấy rất thích thú, không  có 
một xung đột nội tâm nào cả. Khi bạn có một  cử chỉ thân thương với  một
 đứa bé, không có ràng buộc gì cả, không đòi  hỏi khen hay thưởng gì  
cả, bạn sẽ cảm thấy được tình yêu thương thuần  tuý.
Rồi
 dần dần, bạn bắt đầu phân biệt các  trạng thái khác nhau của tâm  mình,
 gồm những trạng thái mang lại an vui  và những trạng thái mang lại  
phiền não cho mình và  cho người khác. Bạn  tự hỏi không biết mình có   
thể loại bỏ trạng thái gây phiền não để nuôi  dưỡng trạng thái an vui  
hay không. Vấn đề ở chỗ là: Những cảm xúc gây  phiền não đó có phải là  
một phần thực chất của tâm bạn hay không?
Thông
 thường, khi ta có một cảm xúc như  tức giận chẳng hạn, chúng ta  hoàn 
toàn gắn mình với cảm xúc đó: ta là   nỗi tức giận. Rồi chúng ta  tiếp 
tục thoát khỏi mình và đi đến mục tiêu  của nỗi tức giận, chính là  kẻ 
đã làm ta nổi giận. Cứ thế, chúng ta bực  dọc vì nỗi giận. Bất cứ khi  
nào ta nhìn thấy hoặc nhớ đến người đó, cơn  giận lại nổi lên, không  
bao giờ chấm dứt.
Tuy
 nhiên, thay vì nhìn vào mục tiêu của  cơn giận, bạn có thể tách  cái 
tâm của mình ra khỏi cơn giận. Bạn có thể  nhìn cơn giận như nhìn  một 
ngọn lửa hay một ngọn núi lửa. Bạn nhìn vào  nó, quan sát nó như một  
hiện tượng. Nếu bạn làm như vậy, bạn có thể tách  rời nó ra khỏi nguồn  
nhiên liệu của nó, tức là mục tiêu của cơn giận.  Rồi từ từ, cơn giận sẽ
  tan đi, giống như người ta thường nói là sương  mai tan đi khi mặt 
trời  lên. Ta không đè nén cơn giận vào một nơi nào đó  như một quả  bom
 hẹn  giờ. Ta lờ nó đi, không để cho nó nổ. Ta giải  quyết nó theo cách 
làm  cho nó bị vô hiệu hóa.
Có
 một hình ảnh rất hay trong giáo lý  nhà Phật. Tâm của chúng ta  giống 
như bề mặt của tấm gương soi. Tính chất  của tấm gương là phản  chiếu 
tất cả mọi hình ảnh: những nét mặt giận dữ  hoặc tươi cười hay  những 
nét mặt buồn bã, trầm tư. Nhưng những hình ảnh  này không thâm  nhập vào
 trong tấm gương. Chúng không phải là một phần  của tấm gương.  Nếu 
chúng là một phần của tấm gương, chúng sẽ ngăn cản  những hình ảnh  
khác.
Nét
 mặt giận dữ sẽ vẫn nằm lại trong  gương và nét mặt tươi cười sẽ  không 
bao giờ hiện lên được. Tương tự như  vậy, có một sự tỉnh giác  thuần 
khiết, từ đó mọi ý niệm khởi phát. Nếu  quả đúng như vậy thì những  cảm 
xúc gây đau khổ được gắn kết với những  nguyên nhân và những điều  kiện.
Bằng
 cách luyện tâm, sử dụng đúng thuốc  trị, thay thế sự căm ghét  bằng 
lòng yêu thương, thay lòng tham lam bằng  tự do nội tâm, bạn có thể  
thay đổi được cảnh quan của tâm hồn. Đấy là  thiền. Thiền là một từ rất 
 xa lạ, nhưng thật sự, thiền chỉ có nghĩa là  làm quen với một cách hiện
  hữu, nuôi dưỡng những phẩm chất nội tâm của  mình.
Mai Châu (Tổng hợp)
Nguồn: phunutoday.vn