Với câu trả lời cho anh thanh niên,
tôi muốn nhấn mạnh rằng: nếu không đứng từ góc độ Phật giáo Đại thừa,
người ta có thể cho là Bồ tát Quan Âm không có thật. Tuy nhiên hạnh Bồ
tát (làm lợi ích cho mọi người, cho tất cả chúng sinh) trong Phật giáo
là điều có thật. Ý nghĩa này được rút ra từ các kinh điển của Phật giáo
Nam truyền, cụ thể là “Jātaka” (tiền thân) trong “Khuddaka” (Tiểu Bộ),
là một trong 5 bộ Nikāya. Tư tưởng Bồ tát là có thật, hạnh nguyện cứu độ
chúng sinh giúp đỡ mọi người của Bồ tát là có thật, do vậy nếu Bồ tát
không có danh xưng Quan Âm thì cũng có danh xưng khác. Phật giáo Đại
thừa không quan trọng danh xưng, mà chú trọng ở tư tưởng và giá trị thực
tế - hạnh nguyện tốt đẹp, ích mình lợi người. (Hoa hồng hương ấy sá gì
tên chi).
Với tư tưởng đó, Phật giáo Đại thừa
triệt để triển khai tinh thần Bồ tát đạo. Tùy theo hạnh nguyện của mình,
Bồ tát xuất hiện dưới nhiều thân tướng khác nhau, nhằm hóa độ nhiều đối
tượng khác nhau, như Bồ tát Địa Tạng với hạnh nguyện vào địa ngục để
cứu độ những chúng sinh ở đây; Bồ tát Văn Thù với đại trí tuệ hàng phục
những tà ma ngoại đạo; Bồ tát Quan Âm dưới thân tướng trang nghiêm là
người nữ, với lòng đại bi Ngài lại phân thân xuất hiện dưới nhiều thân
tướng khác nhau, không chỉ là người xuất gia mà cả hình thức người tại
gia, có thể là nam hay nữ, quan hay dân…và ở bất cứ nơi đâu miễn nơi ấy
có chúng sanh đau khổ thì Ngài xuất hiện, giống như người mẹ hiền che
chở đàn con thơ.
Hình ảnh Bồ tát Quan Âm xuất hiện dưới
thân tướng là người nữ, ngoài ý nghĩa tôn giáo, còn có ý nghĩa về mặt xã
hội nếu xét đến bối cảnh “trọng nam khinh nữ” của xã hội Ấn Độ thời bấy
giờ.
Ấn Độ và Trung Quốc là hai lục địa lớn
nhất ở Châu Á, cũng là hai cái nôi văn hóa không riêng Châu Á mà của cả
thế giới. Hai quốc gia này đều có chung truyền thống “trọng nam khinh
nữ”, từ đó lan rộng và ảnh hưởng đến các nước phụ cận thuộc Châu Á,
trong đó có Việt Nam. Ở những xã hội có truyền thống văn hóa này, hầu
như trong ý thức của mọi người đều cho rằng, người nữ như là điều xui
xẻo, tai họa, bất hạnh. Họ bị hành hạ, chà đạp nhân phẩm, đem bán, thậm
chí bị tước quyền được sống[1], như những nước ở Trung Đông.
Xã hội ngày nay còn có tiếng nói của
nhân quyền và các tổ chức xã hội lên tiếng can thiệp đối với việc hành
hạ nhục mạ nhân phẩm người nữ, nhưng với thời xa xưa cách đây 2500 năm,
người ta xem như là chuyện bình thường và tự nhiên, không ai lên tiếng
phản đối. Tuy nhiên, Thế Tôn không chấp nhận sự bất bình đẳng giới này,
có thể nói Ngài là người đầu tiên lên tiếng phản đối truyền thống xấu xa
này. Ngài không những chỉ phản đối chế độ giai cấp của Bà La Môn, mà
còn phản đối tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội Ấn Độ. Lời khuyên
của Ngài đối với vua Pasenadi nước Kosala trong “Kinh Tương Ưng” là một
minh chứng cụ thể. Câu chuyện ghi rằng, trong lúc nhà vua cùng đức Phật
trò chuyện thì có tin truyền đến Hoàng hậu đã sinh một người con gái.
Nhà vua không giấu được nỗi buồn trên mặt, do đó đức Phật đã nói bài kệ
khuyên vua:
Này Nhân chủ, ở đời,
Có một số thiếu nữ,
Có thể tốt đẹp hơn,
So sánh với con trai,
Có trí tuệ, giới đức,
Khiến nhạc mẫu thán phục.
Rồi sinh được con trai,
Là anh hùng, quốc chủ,
Người con trai như vậy,
Của người vợ hiền đức,
Thật xứng là Ðạo sư,
Giáo giới cho toàn quốc.[2]
Nội dung và ý nghĩa của bài kệ này gồm
hai ý chính: 1. Xác định Ấn Độ là xã hội có truyền thống tư tưởng “trọng
nam khinh nữ”; 2. Đức Phật không đồng tình quan điểm ấy, Ngài khẳng
định có những người nữ có trí tuệ đức hạnh hơn cả người nam, chớ có
khinh thường người nữ. Ở bối cảnh xã hội Tây phương ngày nay thì quan
điểm bênh vực cho nữ giới là việc được thực hiện rất bình thường và hiển
nhiên, nhưng trong bối cảnh nước Ấn Độ cách đây hơn 2.500 năm, dưới
thời đại quân chủ chuyên chế, và nặng nề tư tưởng trọng nam khinh nữ,
đức Phật đã ngang nhiên trình bày quan điểm của mình trước nhà vua, đó
mới là chuyện bất bình thường hy hữu; có thể nói đó là tiếng nói đầu
tiên bênh vực, bảo vệ giới nữ, đưa vị trí người nữ ngang bằng với nam
giới. Không những chỉ có nói, Ngài thể hiện quan điểm này bằng hành động
cụ thể, tức là cho giới nữ xuất gia; khẳng định người nữ cũng có thể
chứng quả vị tối cao là A la hán[3] (Thời
kỳ Phật giáo Nguyên thủy chỉ có 4 quả, A la hán là quả vị cao nhất),
trên thực tế cũng đã có nhiều vị Tỷ kheo ni đã thành tựu quả vị này.
Việc cho người nữ xuất gia là ngược lại
quan điểm truyền thống Ấn Độ, nên quá trình hợp thức hóa Ni giới trong
Tăng đoàn không dễ dàng, không những bị sức ép từ xã hội, mà ngay trong
Tăng già cũng kịch liệt phản đối, điển hình là ngài Ca Diếp[4].
Có nhiều ý kiến khác nhau về lý do vì sao ngài Ca Diếp không đồng tình
với đức Phật và tôn giả A Nan, nhưng đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ,
vấn đề này cũng cần được nghiên cứu. Trước tình hình đó, dĩ nhiên đức
Thế Tôn phải cân nhắc, và phải chuẩn bị những điều kiện sống cần thiết
(cư trú) trước khi cho người nữ xuất gia. Cuối cùng, người nữ cũng được
xuất gia trong Tăng đoàn, hình thành Ni giới. Điều đó chứng tỏ quan điểm
và sự quyết tâm của đức Phật và A Nan cho người nữ xuất gia là hợp lý,
không những tạo điều kiện cho giới nữ có cơ hội học Phật pháp, tu tập để
thành tựu giác ngộ và giải thoát mà còn mang ý nghĩa kêu gọi xã hội
bình đẳng về giới tính, xóa bỏ thái độ “trọng nam khinh nữ”, giải phóng
biết bao người phụ nữ thoát khỏi nỗi đau khổ tủi nhục do quan niệm sai
lầm này gây ra.
Phật giáo Đại thừa đã kế thừa tư tưởng
này và có công rất lớn trong sự nghiệp cải cách, xóa bỏ sự bất bình đẳng
về giới. Hình tượng Bồ Tát Quán Âm xuất hiện dưới thân hình người nữ,
bằng tình thương vô biên, được mô tả như là người có ngàn tay ngàn mắt,
thần thông quảng đại, xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm, mọi lúc mọi nơi,
thực thi tinh thần cứu độ chúng sinh, với lời nguyện: “Nơi đâu có tiếng
than khổ thì nơi ấy có Ngài” (Kinh Pháp Hoa- Phẩm Phổ Môn). Đó là tình
thương và bản chất của người mẹ, chỉ có người mẹ mới làm được việc ấy.
Trong thế gian không có tình thương nào bằng tình thương của mẹ, không
có lòng bao dung, chịu đựng nào bằng lòng bao dung chịu đựng của người
mẹ, nếu con có ngỗ nghịch, bất hiếu như thế nào đi nữa, khi gặp nạn cần
sự giúp đỡ thì mẹ sẵn lòng tha thứ và chìa tay nâng đỡ con. Bồ tát Quan
Âm cũng thế, Ngài xuất hiện như người mẹ, thương chúng sanh như con
ruột, luôn cận kề vỗ về an ủi xoa dịu nỗi đau của đàn con.
Vì Bồ tát Quan Âm có hạnh nguyện như
thế nên bất cứ ai dù là nam hay nữ, dân hay quan, kẻ ác hay người
thiện...đều có thể đến với Ngài, cầu Ngài cứu độ. Có lẽ chính vì lòng
hiền từ và bao dung ấy, mà người dân Việt Nam gọi Ngài bằng cái tên thân
thiết là “Mẹ Hiền Quan Ấm” hay “Phật Bà Quan Âm”, vì Ngài hiền từ và dễ
thương như người mẹ. Từ đó hình tượng của Ngài được dựng ở khắp mọi
nơi, từ thị thành đến thôn quê, từ non cao đến biển cả, nhất là những
nơi thường xuất hiện bất trắc hiểm nguy.
Hình ảnh Bồ tát Quan Âm xuất hiện dưới
thân hình người nữ, có tình thương bao la, dễ thương gần gũi như người
mẹ và hạnh nguyện của Ngài là biện pháp hữu hiệu nhất để phá vỡ quan
niệm phi đạo lý: “trọng nam khinh nữ” của truyền thống dân tộc Ấn Độ nói
riêng và loài người nói chung, trong đó có cả Việt Nam.
Hình ảnh Ni giới được tu được học và
được thành tựu đạo quả trong đạo Phật cho thấy Phật giáo là một tôn giáo
đi đầu trong việc đề xướng bình đẳng giới, đả phá quan điểm “trọng nam
khinh nữ”. Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa
vị trí giới nữ ngang bằng nam giới.
Hy vọng rằng qua bài viết này chúng ta
thấy được quan điểm tiến bộ và thực tế của đạo Phật, lời đức Phật luôn
luôn đi cùng với con người, với sự thật và lẽ phải. Chúng ta có thể
không tin tưởng Bồ tát Quan Âm là có thật, nhưng hạnh nguyện – tinh thần
từ bi cứu độ chúng sinh, và giá trị xóa bỏ truyền thống tư tưởng “trọng
nam khinh nữ” của xã hội thì không thể phủ nhận.
Vạn Hạnh, rằm tháng Giêng năm Kỷ Sửu
[1] Nhiều
phụ nữ theo đạo Hindu ở một số vùng tại Ấn Độ sẽ tự thiêu sống mình nếu
như chồng họ không may bị chết vì bất cứ lý do gì.
[2] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành, 1993, trang 194.
[3] HT.
Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ”, tập 3, Viện NCPHVN ấn hành, 1996,
trang 653 (Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: Nữ nhân sau khi xuất gia…có thể
chứng quả gì? Này Ananda, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không
gia đình, trong pháp và luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể
chứng được Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai hay A La Hán quả.)
[4] “Tỳ
Ni Mẫu Kinh”(毘尼母經), (CBETA, T24, no. 1463, p. 818, b16-c6). Trong kinh
này, Tôn giả Ca Diếp quở trách A Nan: vì A Nan xin Phật cho người nữ
xuất gia, nên Phật pháp gặp phải 10 việc không may, như vì người nữ xuất
gia cho nên Phật pháp bị hoại diệt trước 500 năm.
Thích Hạnh Bình
(Tuệ Chủng)