đó là thời bình minh của triết học và tư tưởng với những vị đã thiết 
định nên cách thức và đường lối tư duy của nhân loại ở phương Đông và 
phương Tây, như giáo chủ Zarathustra, giáo chủ Mahavira, Phật Thích Ca 
Mâu Ni, Lão Tử, Khổng Tử, Socrates, Plato, Aristotle... 
Những tư tưởng gia đầu 
tiên của Hy Lạp, trong câu hỏi bản thể hay nguyên nhân chất thể của vũ 
trụ là gì, đã được Thales (khoảng 624 – 547 trước TL) nói: “Tất cả là 
Nước”, Anaximandre (610 – 564 TL) cho rằng “Nguyên nhân chất thể và 
nguyên nhân sơ bản của vạn vật là cái Bất định”; với Anaximène (585 – 
528) chất thể ấy là “Khí”, với Pythagore, vũ trụ là sự hòa âm (cosmos, 
chữ cosmos này cũng có nghĩa là vũ trụ) và Heraclite thì nói: “Mọi vật 
đều có thể biến đổi thành Lửa và Lửa cũng biến đổi thành bất cứ sự vật 
gì, cũng như hàng hóa biến đổi thành vàng và vàng biến đổi thành hàng 
hóa vậy”. Parménide xem “hữu thể” (être) là nền tảng của vạn vật. Còn 
Leucipus và Democrite (thế kỷ IV tr. TL) nói rằng chất thể của vũ trụ là
 những “nguyên tử”...
Dĩ nhiên, chúng ta cần 
hiểu nước, lửa, khí... hay hữu thể không phải ngây thơ theo nghĩa đen, 
mà các tư tưởng gia ấy chỉ muốn nói một điều, tất cả vũ trụ vạn vật đều 
sinh ra từ một thực thể, và do đó “vạn vật đồng nhất thể”.
Cho đến Plato (427 – 
347 tr. TL) và nhất là học trò của Plato là Aristotle (384 – 322 tr. TL)
 đã chia rõ ràng sự hiểu biết về vũ trụ thành hai môn học Siêu hình học 
(Metaphysics) và Vật lý học (Physics): siêu hình học là môn học nghiên 
cứu về hữu thể hay bản thể và vật lý học nghiên cứu về sự vật, hiện 
tượng. Khoa vật lý học như chúng ta biết ngày nay phát xuất từ đó.
Từ lúc này trở đi, có 
khoa học và khoa học được phát triển chủ yếu theo hướng vật lý học, 
nghĩa là tìm kiếm sự thực của vật chất (vật chất là “sắc”, uẩn đầu tiên 
trong 5 uẩn của Phật giáo là sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Chúng ta có 
thể kể ra vài khuôn mặt lớn, như Ptolemy (83 – 161) nhà thiên văn học, 
Euclid nhà toán học với tác phẩm Các nguyên tôë (the Elements) (nói theo
 ngôn ngữ Phật giáo là các đại). Sau đó khoa học phương Tây bước vào 
thời Trung cổ, chịu ảnh hưởng của thần học với những tín điều như trái 
đất là trung tâm bất động của vũ trụ. Phải đến thế kỷ XVI với những nhà 
khoa học như Galileo (đưa sự thực nghiệm vào khoa học) và Copernicus 
(người đầu tiên khẳng định bằng khoa học: trái đất quay quanh mặt trời),
 thì khoa học mới dần tách ra khỏi tôn giáo, trở lại vị trí độc lập.
Chỉ sau Galileo chưa 
đầy nửa thế kỷ, Newton (1643 – 1727) với phát hiện về lực hấp dẫn, đã lý
 giải vũ trụ trong trật tự cơ học. Mọi hiện tượng đều được giải thích. 
Vũ trụ là trật tự, một trật tự cơ học, vận hành trên cơ sở định luật hấp
 dẫn. Mơ ước về một thế giới quan thống nhất, quy kết vào những nguyên 
lý thống nhất xem ra đã thành hiện thực. Nhưng vũ trụ cơ học cổ điển của
 Newton vẫn còn thô, “cứng” (cứng và mềm, hiểu theo thuật ngữ hiện đại, 
như của vi tính chẳng hạn) và chưa sâu sắc lắm, vì nó chưa chạm đến 
những phần vi tế của vũ trụ như: bản chất của lực hấp dẫn, bản chất của 
ánh sáng, mô hình của nguyên tử, lực điện từ, tương tác yếu, tương tác 
mạnh trong nguyên tử v.v...
Phải đợi đến đầu thế kỷ
 XX, vật lý học đã tiến một bước lớn, mà chúng ta gọi là vật lý học hiện
 đại, vi tế hơn, "mềm"  hơn, sâu sắc hơn, và chính với nền vật lý này, 
thế giới quan của khoa học mới tiếp cận được với minh triết phương Đông.
 Những cuốn sách Đạo Vật lyá (1977) của Fritjof Capra và Einstein và Đức
 Phật (2002) của J. Mac Farlane (cả hai tác giả đều là những nhà vật lý)
 đã chứng tỏ điều đó. Từ năm 1969, trong cuốn sách Nhà vật lý và những 
nhà đạo học, những tương đồng trong thế giới quan, nhà tâm lý học tiền 
phong Lawrence Le Shan đã làm một điều tra: ông đã để lẫn lộn những câu 
nói của những nhà  vật lý hàng đầu như Einstein, Max Plank, Niels Bohr, 
Heisenberg... với những câu nói của Viverananda, Krishnamurti, Tagore...
 thì ngay cả những người rất trí thức cũng khó mà phân biệt đâu là câu 
nói của nhà vật lý và đâu là câu nói của nhà đạo học.
Năm 1909, Einstein, dĩ 
nhiên dựa vào trào lưu khám phá mới trong vật lý học, đã nêu ra thuyết 
tương đối đặc biệt. Ở đây chúng ta chỉ nhắc đến hai điểm:
- Không gian, thời gian
 trước đây được xem như là hai đại lượng tuyệt đối thì nay chúng trở 
thành tương đối. Không gian, thời gian, khối lượng... nghĩa là tất cả 
mọi vật đều có thể co giãn. Khối lượng thì co lại, thời gian thì chậm 
lại khi chuyển động với tốc độ rất nhanh. Bằng tốc độ ánh sáng, vật tan 
biến thành ánh sáng và thời gian đồng hồ cũng không còn. Trước kia chúng
 ta chỉ sống trong một thế giới giác quan ba chiều, nay Einstein thêm 
vào chiều thời gian, thành ra một tổng hợp bốn chiều, gọi là thời – 
không, và vũ trụ không chỉ có bốn chiều mà có thể có n chiều. Tóm lại, 
tất cả thế giới chúng ta biết đều tương đối vì mỗi cái đều tùy thuộc vào
 những yếu tố khác. “Những từ ngữ đời thường “không gian” và “thời gian”
 ám chỉ một  cấu trúc của không gian và thời gian thực ra là một sự ý 
niệm hóa đơn giản quá mức” (Heisenberg). Và ngành thiên văn khám phá vũ 
trụ không đứng yên mà đang giãn nở sau vụ nổ lớn Big Bang, vụ nổ năng 
lượng đã tạo ra vũ trụ chúng ta.
- Khối lượng có thể 
biến thành năng lượng trong một công thức rất đơn giản E = mc2. Như vậy 
vật chất chỉ là dạng năng lượng cô đặc. Các hạt thì có đời sống biến đổi
 luôn luôn, có hạt chỉ sống chưa đầy một trăm triệu giây. Chúng ta có 
thể hình dung vũ trụ là một biển năng lượng trong đó các hạt từ năng 
lượng sinh ra rồi lại tan biến thành năng lượng, “sinh diệt trong khoảnh
 khắc”, như bọt biển từ nước biển sinh ra rồi tan vào nước biển. Đây 
cũng là một hình ảnh thí dụ về thực tại của Phật giáo Đại thừa.
Năm 1900 Max Plank phát
 hiện năng lượng phát ra không theo một sự liên tục mà theo từng “gói”, 
từng lượng tử. Những gói năng lượng đó chỉ tùy thuộc vào tần số của bức 
xạ và một hằng số gọi là hằng số Plank. Và Heisenberg đã phát minh 
nguyên lý bất định: người ta không thể vừa biết vị trí, vừa biết vận tốc
 của một hạt. Biết chính xác vận tốc thì không thể biết chính xác vị trí
 của nó. Khoa học không còn là khoa học chính xác, mà là xác suất, đó là
 cơ học ma trận (matrix). Capra nói: “Nhìn chung, một hạt thiếu ổn định 
có thể phân hủy biến thành nhiều cách phối hợp khác nhau của những hạt 
khác, và ta lại không biết hạt đó sẽ mang hình dáng phối hợp nào. Chúng 
ta chỉ có thể tiên đoán, trong một số lượng lớn các hạt thì khoảng 60% 
của chúng sẽ biến chuyển ra thế này, 30% sẽ biến chuyển ra thế khác và 
10% sẽ biến chuyển theo kiểu thứ ba”. Tính xác suất này cho ta thấy hạt 
có vẻ “tự do”, không thể dự đoán chính xác “hành vi” của nó.
Quan niệm về lượng tử 
mở đường cho khuynh hướng thứ hai của vật lý hiện đại, đó là vật lý 
lượng tử. Có lẽ điều quan trọng nhất mà vật lý lượng tử khám phá là vật 
chất có hai dạng: vừa là hạt vừa là sóng. Đó là một mâu thuẫn đối với ý 
thức chúng ta: một hạt như electron chẳng hạn vừa là hạt vừa là sóng, và
 những phương trình xem nó là hạt cũng đúng mà những phương trình xem nó
 là sóng cũng đều đúng. Từ đó có thêm một điều khá kỳ lạ là cái mà chúng
 ta quan sát tùy thuộc vào người quan sát, nếu ta quan sát theo hệ thống
 hạt thì vật chất là hạt, nếu quan sát theo hệ thống sóng thì nó là 
sóng. Schrodinger đã viết ra những phương trình sóng xác suất đó. Phương
 trình sóng xác suất được hiểu là khả năng xuất hiện của hạt. Chỉ khi có
 người quan sát, phương trình sóng mới “sụp đổ” (collapse) để sóng biến 
thành hạt.
Heisenberg đã nói: 
“Nguyên tử không phải là vật”. Ông nói tiếp: “Điều mà ta quan sát thấy 
không phải là thể tính đích thực của thiên nhiên mà là cái do thiên 
nhiên xuất hiện ra theo cách tra hỏi của chúng ta”. Và Bohr tóm tắt  vào
 cuối đời mình: “Không hề có một thế giới lượng tử, chỉ có một sự miêu 
tảã lượng tử trừu tượng”.
Tóm lại, với khoa học 
hiện đại, vật chất không còn là một chất thể cứng đặc, nó “mềm” hơn 
nhiều, ít “thật” hơn nhiều, với những chuyển động gần bằng tốc độ ánh 
sáng, với những hạt không ổn định, thoắt hiện thoắt biến. Vật chất chỉ 
là sóng năng lượng, và tùy theo sự “phá vỡ” phương trình sóng đó mà có 
một phương diện của hiện tượng xuất hiện với chúng ta, phù hợp với giác 
quan và ý thức của chúng ta, đó là cái chúng ta gọi là vật chất. 
Hiện nay có gần 10 cách diễn dịch (interpretation) về thế giới vật lý, trong đó có hai đường lối diễn dịch chính.
Đường lối diễn dịch 
Copenhagen do Bohr và Heisenberg khởi xướng. Heisenberg nói: “Khoa học 
tự nhiên không mô tả và lý giải về tự nhiên đúng như tự thân tự nhiên. 
Đúng hơn, khoa học tự nhiên là một phần của tiến trình tương tác qua lại
 giữa tự nhiên và chính chúng ta”. Einstein cũng nói: “Sự vật luôn luôn 
là cái gì được chúng ta sáng tạo ra bằng tâm thức, nghĩa là cái gì chúng
 ta ấn định một cách tự do (trong chiều hướng có luận lý). Những sáng 
tạo như vậy, chúng tiêu biểu, đại diện cho “thực tại” đối với chúng ta, 
chỉ được biện minh bằng tính chất có thể hiểu được những gì giác quan 
đưa đến”. Sự vật không phải là hạt cũng không phải sóng. Sóng hay hạt 
đều là sự xuất hiện của một thể “khả năng” nào đó với nhà quan sát. Khi 
xác định một sự vật, con người đã làm “sụp đổ” phương trình sóng của nó 
và bắt ép nó vào trong một hệ thống định sẵn của mình. Như vậy, khi hỏi 
chất thể của vật là gì, đó là một câu hỏi vô nghĩa (hay “bất định” như 
lối nói của Anaximandre ở trên?).
Đường lối diễn dịch “đa
 thế giới” của lý thuyết “dây” (string theory) hay “siêu màng” (membran)
 được S. Hawking, nhà vật lý lý thuyết được xem là xuất sắc nhất hiện 
nay, và Feynman và Heinberg, cả hai đều được giải Nobel vật lý. Quan 
điểm này nói rằng thực tại là một mạng lưới nhiều chiều (ít nhất là 10 
chiều) và một phần của mạng lưới đó lọt vào cơ cấu không – thời gian bốn
 chiều của chúng ta để thành ra thế giới vật chất như chúng ta kinh 
nghiệm.
Sự tương đồng của khoa học vật lý và Phật giáo
Khi đi sâu vào bản chất
 của sự vật để tìm ra ý nghĩa và giá trị của toàn bộ đời sống, những nhà
 khoa học trở thành những triết gia. Einstein tìm ra giá trị và ý nghĩa 
con người trong những phát biểu tương đồng với Phật giáo: “Giá trị chân 
thực của một con người được xác định chủ yếu bởi mức độ tâm thức trong 
đó nó đã đạt đến giải thoát khỏi bản ngã... Một  con người kinh nghiệm 
chính nó, những tư tưởng và cảm nhận của nó như cái gì tách lìa khỏi 
phần còn lại – một loại ảo tưởng thị giác của ý thức. Sự mê lầm này là 
một loại nhà tù cho chúng ta, hạn cuộc chúng ta trong những tham muốn cá
 nhân và luyến thương vài người gần chúng ta nhất. Công việc của chúng 
ta phải là giải thoát chúng ta ra khỏi ngục tù này bằng cách mở rộng 
phạm vi thấu hiểu và đem tình thương để bao trùm tất cả vạn vật và thiên
 nhiên trong vẻ đẹp của nó”.
Đọc bất cứ cuốn sách 
vật lý nào của thời hiện đại, chúng ta đều có cảm giác thế giới vật lý 
là một cái gì không thực, thậm chí như một ảo ảnh: “Thí dụ như ta hỏi, 
liệu  electron có giữ nguyên vị trí hay không, ta phải trả lời “không”; 
vị trí của electron có thay đổi theo thời gian hay không, ta phải trả 
lời “không”;  electron có đứng yên hay không, ta phải trả lời “không”; 
electron có đang vận động hay không, ta phải trả lời “không”. (R. 
Oppenheimer). Những diễn tả về vật lý như vậy đều quy về một hình ảnh 
như kết luận của kinh Kim Cương:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, ảnh
Như sương, như điện chớp
Nên quán sát như vậy.
Schrodinger, người viết
 ra những phương trình sóng lượng tử đã nói: “Thế giới muôn hình muôn vẻ
 chỉ là sự xuất hiện (appearance, đây cũng là chữ mà các dịch giả dùng 
để dịch chữ “hình tướng” của Phật giáo ra tiếng Anh), nó không thật”. 
Eddington nói: “Khái niệm chất thể vật chất đã biến mất khỏi vật lý 
những hạt căn bản”. Ông nói tiếp: “Gốc rễ chung từ đó sự hiểu biết khoa 
học và mọi hiểu biết khác phát sinh... là nội dung của ý thức tôi”.
Chúng ta, sử dụng năm 
giác quan và ý thức như thế nào thì thế giới hiện ra với chúng ta như 
thế ấy. Đây là điều mà Duy thức tông đã nêu lên thành nguyên lý của tông
 mình: “Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức”. Một thí dụ 
thường gặp trong Phật giáo, khi có người quay tròn một cành củi có đầu 
than đang cháy trong đêm, chúng ta thấy một “thực thể” là một bánh xe 
màu lửa, vật tròn màu lửa ấy hẳn phải cứng đặc, như có thực thể. Cái mà 
chúng ta gọi là vật chất hay nguyên tử (“sắc” theo Phật giáo) hẳn cũng 
giống như vậy.
Nhưng theo Phật giáo, 
mặc dù vũ trụ muôn hình muôn vẻ sai khác như vậy, tất cả vẫn là một, tất
 cả thống nhất với nhau trong sự hòa điệu bí ẩn của “pháp giới nhất 
tâm”. Sự tương tác trong thống nhất như vậy đã tạo thành cái mà Hoa 
Nghiêm tông gọi là pháp giới sự sự vô ngại. Nhà vật lý lý thuyết Trịnh 
Xuân Thuận nói: “Từ thí nghiệm con lắc Foucault, dao động hoàn toàn 
không đếm xỉa gì đến địa phương xung quanh nó, bất chấp cả trái đất, mặt
 trời cho đến các cụm thiên hà địa phương. Nó hiệu chỉnh hành trạng của 
nó theo các thiên hà ở xa hay cũng có nghĩa là theo toàn bộ vũ trụ. Nói 
một cách khác, tất cả những gì đang ngầm diễn ra trong mỗi chúng ta đều 
được quyết định trong khoảng bao la của vũ trụ, mỗi một bộ phận đều mang
 trong đó cái toàn thể và phụ thuộc vào phần còn lại... Dẫu thế nào đi 
nữa, con lắc Foucault cũng buộc chúng ta phải rút ra kết luận rằng, có 
một loại tương tác hoàn toàn khác với những tương tác đã được mô tả bởi 
vật lý học, một loại tương tác bí ẩn không có liên quan với lực hoặc 
trao đổi năng lượng, mà chỉ có tác dụng liên kết toàn bộ vũ trụ” (Giai 
điệu bí ẩn – 1988).
Khi khoa học quy thế 
giới về năng lượng (như vụ nổ lớn Big Bang đã tạo ra vũ trụ chúng ta hẳn
 phải sinh ra từ năng lượng), vật chất là năng lượng cô đặc lại, thì 
Phật giáo quy mọi sự về tính Không. Và tính Không không phải là không có
 gì cả, mà theo những người chứng ngộ trong Phật giáo, như các thành tựu
 giả Ấn Độ hay như Lục Tổ Huệ Năng (xem chương Bát Nhã hay câu nói “Nào 
ngờ tự tính (tính Không) vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tính vốn chẳng 
sinh diệt, nào ngờ tự tính vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tính vốn không lay 
động, nào ngờ tự tính sinh ra muôn pháp”), giải thích thì tính Không là 
thể tính Không chất thể của tất cả mọi sự. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng thế 
giới như thật (pháp giới) xuất sinh từ Phật Tỳ Lô Giá Na, và tính Không 
là một phương diện của Tỳ Lô Giá Na hay Đại Nhật Như Lai. Phật có tính 
vũ trụ, trong kinh Pháp Hoa (phẩm Như Lai thọ lượng và phẩm Như Lai thần
 lực) cũng nói như vậy.
Khi vật lý hiện đại nói
 rằng vật chất là năng lượng thì Bát Nhã Tâm kinh nói rằng sắc (vật 
chất) tức là không. Tính Không này nếu dùng chữ của khoa học là năng 
lượng toàn thể và thuần túy nhất thì cái toàn thể và thuần túy ấy được 
kinh nói tiếp “bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh”. Chúng ta đọc thêm
 cách diễn tả của Trịnh Xuân Thuận: “Vật chất có thể xuất hiện từ chân 
không nếu có năng lượng đủ lớn được tuôn ra. Chân không là cội nguồn của
 tất cả... Sự phóng thích năng lượng của chân không trong vũ trụ ở giai 
đoạn lạm phát còn có một hiệu quả khác cực kỳ quan trọng. Nó sẽ cho ra 
đời các hạt vật chất vũ trụ... Vũ trụ được tắm trong món xúp của các hạt
 quark, electron, nơtrinô, phôton và các phản hạt của chúng”.
Nhưng năng lượng của 
khoa học thì chưa toàn thể và thuần túy, vì đó chỉ là năng lượng của một
 phần vật chất thô con người biết được mà thôi. Hiện nay chúng ta chỉ 
mới biết được chưa tới 10% vật chất vũ trụ, còn hơn 90% kia chưa biết 
được nên khoa học gọi là vật chất tối (dark matter). Nói theo Phật giáo,
 ngoài vật chất (sắc) còn có những thứ vật chất vi tế hơn, đó là thọ, 
tưởng, hành, thức. Phải chăng hơn 90% vật chất tối mà chúng ta chưa biết
 được ấy là những loại hạt mịn hơn, vi tế hơn, mà những máy móc làm bằng
 vật chất thô của khoa học hiện đại không thể “lọc” ra được. Cái sàng để
 thí nghiệm của chúng ta quá thô, nó chỉ giữ lại được đá và sỏi, còn cát
 thì không giữ được, vì không giữ được nên nói là không có, nói là vật 
chất tối. Và ngoài chất tối ra, biết đâu còn có mấy trăm phần trăm “phi 
vật chất” tối khác nữa?
Ở đây chúng ta nhìn 
thấy những giới hạn của khoa học – mà nói theo các nhà vật lý đã trích 
dẫn ở trên, đó cũng là giới hạn của các giác quan và ý thức của con 
người – không chỉ tốc độ ánh sáng là giới hạn của vật chất cõi này (nếu 
bằng tốc độ ánh sáng, vật chất sẽ tiêu tan thành ánh sáng), không chỉ là
 nguyên lý bất định... mà còn những hạt khác, sóng khác, trường khác. 
Như tư tưởng, chúng là hạt nào, có tần số ra sao? Như khi chết, cái thần
 thức (mà người ta thường gọi là linh hồn) đi tái sinh và cảnh giới 
trung ấm của nó, chúng là loại hạt nào, sóng nào? Hay chúng ở trong 
những chiều khác ngoài bốn chiều của thế giới vật lý của chúng ta, những
 chiều mà chúng ta chỉ dự đoán được qua những phương trình toán học, còn
 thì không thể nào biết được khi ngày nào chúng ta còn sống trong bốn 
chiều giác quan hiện thời. Rất nhiều điều chúng ta không biết bằng những
 dụng cụ thí nghiệm làm bằng vật chất thô của khoa học hiện đại, và 
chúng ta cho đó là vật chất tối. Ngay cả những hạt quark là những hạt 
được xem là căn bản nhất của những nguyên tử của cõi này, chúng ta cũng 
không biết chúng có hiện hữu hay không, hay đó chỉ là những tính toán 
trên những phương trình để cân bằng hai vế. Với cái nhìn của lý thuyết 
“màng” hay “dây”, thế giới thực sự thì có nhiều chiều, tiếc thay những 
chiều đó ở ngoài các giác quan và ý thức của chúng ta, nên chúng chỉ nằm
 trên những phương trình giả thiết.
Cũng như sự thống nhất 
vũ trụ mà chúng ta đã nói ở trên, sự thống nhất đó không thể thực hiện 
bằng cách ghép các sự vật với nhau, bằng cách ghép sóng với hạt, hay 
ghép các lực với nhau một cách giả tạo, hay thống nhất bằng những phương
 trình, vì đơn giản người ta không thể sống bằng phương trình, không hít
 thở bằng phương trình. Sự thống nhất đó chỉ có thể thực hiện, theo Phật
 giáo, bằng một tâm thanh tịnh, nghĩa là một tâm vượt khỏi sự phân chia 
chủ thể và đối tượng, thân và tâm, ta và người, ý thức và thế giới, vật 
chất và tinh thần, vật lý học và siêu hình học, tâm lý học và toán học, 
đạo đức học và sinh học... Bởi vì nghĩ cho cùng, chúng ta không có cái 
gì khác hữu hiệu nhất, vi tế nhất, cao cấp nhất ngoài một tâm thanh 
tịnh. Và có thể nói thêm, trong một nguyên lý của Phật giáo, tâm thanh 
tịnh thì tất cả thanh tịnh, tâm thống nhất thì tất cả thống nhất.
Một trong những lý do 
để khoa học gặp gỡ Phật giáo là ngày nay, các nhà vật lý phải đụng chạm 
đến những vấn đề triết học: chủ thể – đối tượng, vật chất – ý thức, tính
 liên tục và không liên tục, ngẫu nhiên và tất yếu... Phật giáo không 
chú trọng lắm đến một hệ thống lý thuyết thỏa mãn trí thức của con người
 mà chỉ chú trọng đến sự thực hành để tiêu diệt khổ đau, phiền não đạt 
đến giải thoát, phá bỏ hai cái che chướng là phiền não chướng và sở tri 
chướng để ngộ nhập thực tại không thể nghĩ bàn (bất khả tư nghì), và lý 
thuyết chỉ có nhiệm vụ phác họa cho thực hành, thực hành thành tựu thì 
lý thuyết cũng bỏ, như cái bè phải bỏ khi đã qua đến bờ bên kia. Phật 
giáo cũng có thể nói là một triết học và lý thuyết triết học đó đã đem 
lại thành công cho nhiều người suốt hơn 2.500 năm nay.
Con đường Phật giáo
Cũng như khoa học, cũng
 như tất cả mọi ngành học thuật và nghệ thuật khác, cũng như tất cả mọi 
lĩnh vực sinh hoạt của con người, Phật giáo cũng đi tìm thực tại tối 
hậu, thể tính tối hậu của con người, của ngoại vật. Chỉ nói riêng một 
phương diện của khoa học là sự thí nghiệm, thì Phật giáo cũng có người 
nghiên cứu thí nghiệm, có dụng cụ thí nghiệm, có đối tượng để thí 
nghiệm. Phòng thí nghiệm chính là thân tâm của chúng ta, người thí 
nghiệm và đối tượng thí nghiệm cũng là thân tâm của chúng ta. Thân tâm 
chúng ta có đủ các nguyên tố căn bản của vũ trụ, từ thô đến tế, cho nên 
thí nghiệm với đối tượng là thân tâm chúng ta cũng tức là thí nghiệm với
 đối tượng là vũ trụ.
Chỉ so sánh một dụng cụ
 hỗ trợ cho thí nghiệm là bộ óc so với máy điện toán, thì như những nhà 
khoa học nói, dù là máy điện toán thế hệ thứ năm, công năng tư duy của 
nó chỉ bằng có vài tế bào não, thế thì với một bộ máy điện toán, lại là 
bộ máy điện toán sinh học, với hàng tỷ tế bào như vậy, hẳn là không một 
bộ máy điện toán nào so sánh được, dù nó có cao lớn bằng một tòa nhà mấy
 mươi tầng. Huống gì còn tâm thức con người, cái “chủ thể” quyết định 
mọi sự, với kinh nghiệm của nhiều kiếp, lại không chỉ là bộ óc, mà chỉ 
dựa vào bộ óc một phần để làm việc.
Vì với phòng thí nghiệm
 là toàn bộ thân tâm như vậy, nên khi cuộc “thí nghiệm” thành công thì 
toàn bộ thân tâm cũng chuyển hóa. Đây là điều khoa học không làm được. 
Một nhà vật lý khi tìm ra một công thức, một lý thuyết, thân tâm họ 
không chuyển hóa, họ vẫn như cũ, với những phiền não như cũ, chỉ có thêm
 được một phần kiến thức mà thôi. Cũng như truyền thuyết của thuật giả 
kim (alchemy), khi người thí nghiệm thành công, đã làm ra được vàng, thì
 kỳ diệu thay người đó cũng được chính tiến trình thí nghiệm chuyển hóa,
 người đó không còn tham sân si để làm ra vàng nữa, bấy giờ toàn bộ thế 
giới trong tâm thức người ấy đã biến thành vàng.
Nhưng không chỉ có một 
dụng cụ siêu việt là bộ óc, hay rộng hơn, là cơ cấu thân tâm, Phật giáo 
còn chỉ dạy làm thế nào đưa cơ cấu thân tâm ấy đến khả năng cao nhất của
 nó. Chúng ta tiếc rằng, ngay cả một nhà bác học cũng không thể sử dụng 
hết bộ óc của mình, mà chỉ vận dụng tối đa chưa tới 10% khả năng bộ óc. 
Phật giáo giúp chúng ta khai triển khả năng của toàn bộ thân tâm bằng 
giới, định, tuệ và rất nhiều cái khác không thể nói hết như tín, hạnh, 
nguyện... tùy từng người với cơ cấu thân tâm mình hợp với những cái nào,
 “pháp môn” nào. Lấy ví dụ đơn giản, muốn nhìn cho rõ (để thấy thực tại)
 thì không thể chạy lăng xăng, không thể buồn ngủ hay dùng chất kích 
thích cho mắt mờ, trí yếu (giới), tâm thức đó phải tập trung (định) và 
phải biết quan sát một cách tinh tế trong sự tịch lặng mà không bị ám 
ảnh bởi thành kiến, bởi chủ thể và đối tượng, ta và vật (tuệ).
Chúng ta không thể nói 
hết về những điều này, chỉ nói chung đường hướng tổng quát của Phật giáo
 là chuyển hóa con người để con người có thể kinh nghiệm được, sống an 
trú trong thực tại. K. Marx đã nói “Triết học không phải để giải thích 
thế giới (như các triết gia trước Marx), mà là để biến đổi thế giới”. 
Trong một cách nói như vậy, chúng ta có thể diễn tả rằng “Phật giáo 
không phải là giải thích về thế giới và con người, mà là để chuyển hóa 
con người, và khi con người được chuyển hóa, thế giới cũng được chuyển 
hóa (cả nội dung lẫn hình thức)”.
Nguyên lý của Phật giáo
 là: hãy làm cho tâm thức mình trong sạch, không phiền não, không biến 
động, không phân chia, khi đó thực tại tối hậu sẽ hiện ra (trong tâm 
ấy). Và tùy mức độ thanh tịnh của tâm thức đến đâu, thế giới như thật sẽ
 hiện ra tới mức độ đó. Mặt gương tâm sạch tới đâu, thế giới sẽ hiện ra 
tới đó. Thiền sư Vô Ngôn Thông, vị khai sáng dòng thiền Vô Ngôn Thông 
Việt Nam đã đại ngộ vì câu nói của Thiền sư Bách Trượng: “Đất tâm nếu 
không, thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu sáng”. Tâm nếu không phân 
chia chủ thể với khách thể, thân tâm và thế giới, tâm và vật, Phật giáo 
và khoa học..., nghĩa là không tự phân tán, không tự làm manh mún chính 
nó, thì mặt trời trí tuệ tự nhiên soi chiếu, thực tại tối hậu sẽ hiện 
tiền (hiện ra trước mắt).
Chúng ta đã biết, chính
 tâm thức và những cơ cấu lý thuyết của nó quyết định sẽ tìm ra cái gì 
(của thực tại). Phật giáo cũng thế, có điều, với Phật giáo, tâm thức cần
 quét sạch mọi thứ  phiền não nhiễm ô của nó (mà Phật giáo gọi là phiền 
não chướng) kể cả những kiến thức lâu ngày đã thành thành kiến và những 
khuôn khổ cơ cấu lý thuyết (mà Phật giáo gọi là sở tri chướng – chúng ta
 chú ý hai chữ “chướng” này, “chướng” có nghĩa là ngăn che, một ý nghĩa 
rất “khoa học”) để cho thực tại hiện bày. Cho nên con đường “khoa học” 
của Phật giáo là Tự tịnh kỳ ý (tự làm thanh tịnh tâm ý mình), đều cuối 
cùng trong ba điều Phật dạy: “Các điều ác chớ làm. Các điều thiện vui 
làm. Tự tịnh tâm ý”.
Và bởi vì Phật giáo đưa
 toàn bộ thân tâm mình – nghĩa là toàn bộ vũ trụ, vì thân tâm mình có đủ
 mọi nguyên tố (các đại) của vũ trụ – vào công cuộc nghiên cứu thí 
nghiệm (mà chúng ta gọi là tu hành, thực hành) như vậy, cho nên thực tại
 mà Phật giáo tìm ra không chỉ là thực tại vật lý của vật lý học, mà còn
 là thực tại của tâm lý học, của đạo đức học, của mỹ học, của xã hội 
học... Một thí dụ, chẳng hạn đối với những tông phái cao nhất của Đại 
thừa, thực tại tối hậu vừa là tính Không (“hữu thể học” hay “thực tại 
luận”) vừa là đại bi hay tính thiện (có thể xem là “đạo đức học”), vừa 
là bản tính hay chân tâm (“tâm lý học”), vừa vốn toàn thiện toàn mỹ từ 
nguyên sơ (mỹ học)... Như vậy, Phật giáo có thể thống nhất tất cả các 
ngành học (và tất cả mọi lĩnh vực xã hội) vào trong con đường của mình, 
con đường đưa đến thực tại tối hậu, đưa đến “thực tướng của tất cả các 
pháp”, thực tướng của tất cả các hiện tượng. Đó là con đường mà theo lời
 Đức Phật, toàn thiện ngay từ lúc khởi đầu, toàn thiện ở chặng giữa, 
toàn thiện ở lúc cuối cùng.
Nguyễn Thế Đăng
Theo: VHPG