Lời bạt: Bài viết vừa được hoàn tất khi tin trận động đất và sóng
thần tại vùng Fukushima Nhật Bản cùng với những thảm hoạ liên quan đến
lò nguyên tử Fukushima được loan báo trên thế giới. Cảnh tàn phá và nỗi
lo sợ mồn một xót xa trên màn hình. Liên cảm về khổ nạn làm nhói tim bởi
kinh hoàng và bàng hoàng.
Sự tình cờ (có lẽ không hẳn là tình cờ) bỗng thành thời sự: chính
bài viết đang đặt vấn đề ý nghĩa chữ KHỔ như là nền tảng của Đạo đức học
Phật giáo, trong chừng mực tìm lại bản chất đích thự của thái độ đạo
đức. Trước tai hoạ do thiên nhiên và do chính con người,”KHỔ” đang càng
lúc trở nên phổ quát không những cho con người mà cho cả thế giới chúng
sinh. Câu hỏi “Làm thế nào để thoát khổ?” trở nên đòi hỏi bức thiết cần
phải thay đổi lối sống, cách sống thế nào để được an lành.
Những suy nghĩ trong bài viết này- dù chưa thấu đáo hết mọi khía
cạnh- xin hướng về những nạn nhân của thảm hoạ kép với chia xẻ và cầu
nguyện an lành.
Huế tháng 3/2011
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT[1]
đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và
của Phật học, ông phát biểu rằng dù hai nhà tư tưởng lớn sống cách nhau
hơn ngàn năm nhưng lời giải của họ lại gặp gỡ nhau, bởi vì cho mỗi câu
hỏi chỉ có một câu trả lời đúng mà thôi.
Bài viết sẽ trình bày những nét khác biệt giữa đạo đức học Phật giáo
và đạo đức học của Kant khởi từ lý thuyết nhân quả.Từ đó ta có thể thấy
được dù đi hai con đường khác nhau, từ hai lối nhìn và cách đặt vấn đề
khác nhau, hai hệ thống tư tưởng này có thể gặp nhau trên những điểm cơ
bản về ý nghĩa cũng như nội dung của thái độ đạo đức.
I.Tương quan nhân quả trong lý thuyết siêu nghiệm của Kant:
Kant phân biệt định luật nhân quả lý thuyết và định luật nhân quả
thực hành. Định luật nhân quả lý thuyết còn được gọi là nhân quả tự
nhiên: Tất cả những hiện tượng trong thiên nhiên đều nằm trong liên hệ
nhân quả và cùng nằm trong qui luật định mệnh (Determinismus). Định mệnh
ở đây trước hết có nghĩa, mọi “quả” đều có “nhân”, và nguyên nhân ấy
nằm ngoài “quả”, định đoạt cho quả phát sinh. Quả thành tựu do nhân
nhưng khác với nhân.
Theo quan niệm thực nghiệm hàng ngày: củi là nguyên nhân của lửa, cơm
là quả của gạo và nước+ hơi nóng, lửa là nguyên nhân của vết cháy bỏng
trên da v.v.
Kant gọi qui luật này là qui luật nhân quả thiên nhiên (natural) và
xếp nó vào lãnh vực lý thuyết tri thức. Khác với triết gia thường nghiệm
D. Hume[2],
Kant cho rằng định luật nhân quả có tính phổ quát tiên thiên chứ không
phải là kết quả của sự quan sát những kinh nghiệm lặp lại thường ngày.
Tính tiên thiên phổ quát này có từ giác tính linh hoạt của con người.
Tuy nhiên định luật nhân quả tự nhiên chỉ áp dụng cho thế giới sự vật và
con người như là những hiện tượng. Trên bình diện tri thức luận, con
người cũng như tất cả mọi sự vật hay sinh vật trong thiên nhiên đều được
đặt định, được chỉ định, tự nó không thể tự đặt định, tự thoát ra khỏi
tương quan nhân quả tự nhiên. Tất cả mọi sinh và sự vật đều chỉ là hiện
tượng (phaenomen), chứ không phải là vật tự thân (Noumenon, Ding an
sich). Trước hết, con người không định đoạt được sự xuất hiện của nó
trên thế gian. Sự ra đời, hiện hữu của con người là do cha mẹ tác thành,
quả ấy trở thành nhân và quả tiếp theo.Như thế sự sinh thành của con
người cũng như của mọi sinh vật trên thế gian đều do những yếu tố (người
và vật) khác quyết định chứ chính con người không thể can thiệp được.
Do đó, theo Kant, trên bình diện lý thuyết con người bị trói buộc trong
nhân quả, chịu nhận qui luật tự nhiên, con người bị động trong tương
quan nhân quả.
Nhưng con người, theo Kant, khác với những sinh vật trong thiên
nhiên, lại có thể tự mình sáng tạo, thay vì trong thế thụ động làm “quả”
và “nhân” hiện tượng, con người có thể trở nên là một nguyên nhân độc
lâp, vượt khỏi qui luật đặt định tự nhiên. Trên bình diện hành động thực
tiễn, con người là kẻ tác tạo hành động, nhất là hành động đạo đức. Bản
chất của đạo đức là tự chủ, là khởi động, không bị động. Theo Kant,
hành động đạo đức thật sự- khác với tri thức lý thuyết,- nằm trong tính
tự chủ, tự nguyện, không bị ép buộc, không chịu sự tác động ngoại tại.
Độc lập với tác động bên ngoài, con người, khi hành động đạo đức, hoàn
toàn tự do quyết định hành động ấy. Với ý chí tự do sáng tạo, con người
trở nên kẻ xây dựng qui luật đạo đức.
Trong hệ thống triết học siêu việt(Transzendentalphilosophie) của
ông, Kant phân biệt hai lãnh vực: lãnh vực của thế giới cảm quan và lãnh
vực thế giới giác tính. Ông cho rằng hành động đạo đức của con người
không phụ thuộc vào thế giới cảm quan - bởi vì thế giới cảm quan là thế
giới bị động (ví dụ cảm giác nóng lạnh tùy thuộc vào đối tượng tác động
lên giác quan của con người) mà thuộc vào lãnh vực của giác tính, của
linh hoạt tự động, của tự giác. Do đấy con người có thể thiết lập cho
mình một tương quan nhân quả đặc thù: chính con người làm ra qui luật
hành động cho chính mình. Qui luật đức lý này có nền tảng trong ý niệm
tự do. Từ đó con người là nguyên nhân tác tạo. Căn cứ vào qui luật đạo
đức, con người có thể đưa ra một qui luật có tính phổ quát cho mọi hành
động đạo đức.
Qua khái niệm tự chủ và tự do trên bình diện đạo đức, con người thoát
khỏi qui luật tương quan nhân quả đang chế ngự thế giới tự nhiên, và
hoạt động trên bình diện tương quan nhân quả của lý tính thực tiễn.
Chính sự tự do này bảo đảm một thứ nguyên nhân mới trong hành động đạo
đức và nâng con người lên ngang hàng với khái niệm chủ thể tuyệt đối
trong triết học Tây phương: ý niệm Thượng đế.
Khái niệm “tự do” làm nên điểm đặc thù của lý tuyết nhân quả do con người và cho con người trong hệ thống triết học của Kant.
Trong lúc trên bình diện lý thuyết tri thức, tương quan nhân quả là
phạm trù tiên thiên (một thứ đặt định tiền nghiệm), trong đo con người
là một mắc xích bị động trong chuỗi nhân quả, thì trên bình diện hành
động thực tiễn, con người quyết định hành động của mình và là nguyên
nhân sáng tạo nên một thế giới theo qui luật đức lý.
Kant cho rằng điểm cách mạng tiêu biểu trong triết học của ông không
chỉ nằm trong lý thuyết siêu việt mà tác phẩm.”Phê phán lý tính thuần
tuý” đã dày công xây dựng, mà nằm trong tác phẩm thứ hai “Phê phán lý
tính thực tiễn”. Trong tác phẩm này, như ông đã hứa hẹn sau khi công bố
tác phẩm thứ nhất, Kant muốn trả lại cho con người quyền tự chủ và sáng
tạo như là chủ thể hành động đạo đức, ý niệm con người hầu như tương
đương với ý niệm Thượng đế, ngược với thân phận giới hạn của nó trong
tương quan nhân quả thiên nhiên.
Đây cũng chính là lý do tại sao khi tác phẩm “Phê phán lý tính thực
tiễn” ra đời, Kant đã bị giới nghiên cứu thần học và tập thể nhà thờ của
thời ông phê phán gắt gao, và ông đã bị xem là kẻ vô thần. Những kẻ ủng
hộ ông vừa ngạc nhiên vừa lo sợ trước tư tưởng táo bạo của ông. Quả
thật trong đời sống thường nhật, Kant không bao giờ đi nhà thờ và đã là
một trong những học giả khai sáng thế kỷ 18 phê phán giới lãnh đạo nhà
thờ triệt để nhất ở điểm, tuân theo giáo điều là giết chết tính tự chủ
và sáng tạo trong hành động đạo đức, sai khiến con người trở nên nô lệ
cho quyền lực siêu nhiên (tiêu biểu trong tiểu luận “Khai sáng là gì?”)
là vi phạm quyền tự chủ, bóp chết sự trưởng thành của con người
Tuy nhiên tư tưởng cách mạng của ông vẫn còn chịu ảnh hưởng của tuyền
thống tư tưởng đương thời. Prometheus, kẻ đánh cắp lửa trên trời đem về
thế gian cuối cùng vẫn bị trừng phạt. Kant không bị trừng phạt, bởi vì
chính ông tự nguyện công nhận ngoài ý niệm Tự do, ý niệm Thượng đế và
linh hồn bất tử là những định đề hướng dẫn hành động đạo đức con người.
II Những dị biệt:
Chúng ta biết, trước Kant hơn nghìn năm, Đức Phật đã đem hi vọng và
trả lại giá trị của con người với lời dạy rằng trong chuỗi luân hồi nhân
quả “Mỗi người là Phật đang thành” và Phật tính nằm trong mỗi một con
người. Cần phải hiểu như thế nào về lý thuyết nhân quả của Phật giáo như
là nền tảng của hành động đạo đức?
Trước khi triển khai lý thuyết nhân quả Phật giáo trong viễn tượng
giải phóng con người ra khỏi chuỗi luân hồi trói buộc, cần nêu lên những
dị biệt trong lý thuyết về tương quan nhân quả của Kant từ những trình
bày trên.
1. Tính nhị nguyên trong tư tưởng của Kant hầu như được hoàn hảo khi
ông cho rằng có hai lãnh vực tương quan nhân quả: lãnh vực tự nhiên cho
thế giới hiện tượng (phaenomen), trong đó con người như một hiện tượng
bị động, được đặt định do những nguyên nhân bên ngoài (trong đó có vai
trò sáng tạo của Thượng đế), và lãnh vực tương quan nhân quả trong hành
động đạo đức thực tiễn, trong đó con người là chủ thể tự do sáng tạo,
làm nên qui luật hành động cho chính mình. Lý thuyết về hai tương quan
nhân quả, tự nhiên (naturell) và nhân bản (human) tiêu biểu cho tư tưởng
nhị nguyên nói trên.
Con người, theo Kant, là một thực thể gồm hai yếu tính: con người bị
qui định trong giới hạn hiện sinh, trong thế giới của cảm nghiệm giác
quan, nhưng lại tự do trong thế giới giác tính, linh tri (intelligent).
Cả hai yếu tố này không khai trừ lẫn nhau.
Bình diện thế giới cảm quan bao gồm tất cả sự vật nằm trong kinh
nghiệm khả thể của chúng ta. Có nghĩa thế giới này là thế giới của hiện
tượng (phaenomen) như Kant nói. Bình diện thế giới giác tính siêu nghiệm
bao gồm những vật tự thân (nouomenon, Ding an sich), vật tự thân này
nằm ngoài tất cả những kinh nghiệm có thể có được và do đấy không thể
được tri thức bởi cảm quan của con người. Con người chỉ tri giác được sự
vật qua lăng kính giới hạn của ngũ quan cho nên chỉ có thể có được
những nhận thức có tính thường nghiệm về các hiện tượng của sự vật.
Tuy nhiên, với trí tuệ của mình, con người còn là một phần tử của thế giới giác tính
(Verstandeswelt).
Trong lúc với tư cách là một phần tử của thế giới cảm tính, thực thể
người cảm nghiệm bằng máu và thịt, do đấy nó phải tuân thủ các qui luật
thiên nhiên. Con người bị giới hạn về thể xác, có những ham muốn và sở
thích cá nhân và bị đặt định, bị sai khiến cũng bởi tất cả những ham
muốn và những sở thích ấy. Với tư cách một phần tử của thế giới giác
tính, con người không do những yếu tố trên qui định, mà linh hoạt, tự
động, tự chủ. Kant gọi khả năng linh hoạt này là lý tính thuần túy. Lý
tính thuần tuý này thuộc vào thế giới trí tuệ (Intelligenz) hay thế giới
giác tính. Với tư cách là phần tử của thế giới này, con người có khả
năng tri thức “vật tự thân” chứ không chỉ nhận thức hiện tượng. Nhưng
tiềm năng liễu tri sự vật trong tận bản chất trọn vẹn của nó khổ thay
không thể có được trên bình diện lý thuyết tri thức luận, do bởi giới
hạn đã định sẵn cho con người (Thân xác, ngũ quan giới hạn, thời gian,
không gian), nhất là thời gian và sự biến đổi, vô thường.
Kant cho rằng liễu tri thấu triệt sự vật chỉ có thể thực hiện được
trên lãnh vực hành động, thực tiễn, trong đó con người, thay vì bị động,
hành động. Chỉ trên bình diện hành động thực tiễn này, con người mới là
nguyên nhân tác tạo, con người làm nên đối tượng tự thân, liễu tri toàn
vẹn đối tượng như hoạ sĩ, nhạc sĩ với tác phẩm của họ. Chỉ trong hành
động, con người tự do – trong nghĩa không bị động - thể hiện tự do, lý
tính thuần tuý trở nên lý tính thực tiễn.
Kant nhận định:
“Tính tất yếu tự nhiên về tương quan của các sự vật (trong đó có con
người) nằm trong qui luật cho biết chúng đã có một nguyên nhân khác (bên
ngoài) tác động lên trong tương quan nhân quả”. Ngược lại với điều đó,
ý chí của lý tính thuần tuý xuất phát trên bình diện của thế giới giác
tính. Ý chí này hoàn toàn tự do không bị những ảnh hưởng bên ngoài chi
phối. Do đó ý chí này là qui luật của chính nó. Dĩ nhiên ý chí cũng lệ
thuộc vào qui luật nhưng ý chí lại chính là người làm ra qui luật mà nó
phải tuân thủ. Sự tự chủ này – AUTONONIE- Kant gọi là sự tự do của ý
chí.
Với tư cách là một thực thể có lý tính và theo đó thuộc vào thế giới
trí tụê, con người không bao giờ có thể nghĩ ra được tương quan nhân quả
của ý chí của chính nó mà không có ý niệm tự do. Với tư cách là một
phần tử của thế giới giác tính, có nghĩa là độc lập với tất cả những
nguyên nhân gây ra do thế giới cảm quan, ý niệm tự do đã được bao hàm
trong nó. Kant không thể chứng minh khái niệm tự do này bởi vì khái niệm
này không thể chứng minh được do những nguyên nhân mà ông thường nói là
lý tính thuần tuý cũng không thể chứng minh được, nhưng Kant nói rằng
chúng ta phải lấy khái niệm tự do như là điều kiện tiên quyết bao lâu
con người với tư cách là con người có lý trí được thiên phú một ý chí.
Kant nói rằng: Khái niệm tự do, trong chừng mực tính tồn tại khách
quan của nó được chứng minh bằng một qui luật của lý tính thực hành,
khái niệm này sẽ tạo nên viên đá kết thúc cả toà nhà của một hệ thống lý
tính thuần tuý ngay cả của lý tính thực hành, và tất cả những khái niệm
khác (Ví dụ khái niệm về Thượng đế và linh hồn bất tử), - những khái
niệm được xem là những ý niệm tồn tại trong lý tính mà không có chỗ đứng
khách quan trong thế giới thường nghiệm, - cũng sẽ đi theo khái niệm tự
do. Với tự do, cũng như nhờ tự do chúng nhận được vị trí và tính thực
tại khách quan, có nghĩa là khả thể của chúng được chứng minh nhờ sự
hiện hữu thật sự của tự do bởi vì ý niệm này được công bố bởi qui luật
đạo đức.
Nhưng tự do cũng là ý niệm duy nhất trong tất cả những ý niệm của lý
tính lý thuyết, mà con người chỉ biết được tính khả thể tiên thiên của
nó nhưng không thấu triệt được nó bởi vì tự do là điều kiện của qui luật
đạo đức, qui luật này chúng ta tri thức được qua hành động. Khái niệm
tự do là viên đá đụng độ khởi đầu của tất cả những nhà theo chủ thuyết
thường nghiệm, nhưng cũng là chìa khoá mở ra những nguyên lý thực tiễn
cao quí nhất cho những nhà đạo đức phê phán, qua đó họ nhận rõ rằng họ
tất yếu phải tiến hành tự do một cách duy lý.
Chúng ta sẽ trở lại khái niệm hành động đạo đức qua mệnh lệnh phạm
trù trong phần tới sau khi lược qua lý thuyết nhân quả của Phật giáo.
Tóm tắt những ý tưởng trên, xin đưa ra lời Kant nhận định như sau
“Như những sự vật, một mặt, con người được xem như là một hiện tượng
thuộc vào thế giới cảm quan, mặt khác con người cũng tự nhận như là thực
thể tự thân thuộc về thế giới tri thức (Intellektuelle Welt). Một thực
thể lý trí (được thiên phú cho khả năng tư duy và linh hoạt trí thức)
được xem như là trí tuệ, thuộc về thế giới giác tính (Verstandeswelt).
Như thế có hai quan điểm để xét con người: “trong chừng mực con người
thuộc về thế giới cảm quan, thì nó phục tòng qui luật tự nhiên (dị phân
Heteronomie), trong chừng mực nó thuộc về thế giới giác linh, thì nó
phục tòng qui luật độc lập với thiên nhiên, bất thường nghiệm, chỉ có
nền tảng trong lý tính”. Với tư cách là một thực thể thuộc về thế giới
trí tuệ, con người không thể nào tư duy liên hệ nhân quả do ý chí riêng
mà không cần đến ý niệm tự do; bởi lẽ sự độc lập đối với những nguyên
nhân quyết định trong thế giới cảm quan (mà lý trí luôn tự đi theo) là
tự do. Không thể tách rời với khái niệm TỰ DO là khái niệm TỰ CHỦ luôn
theo sát. Với khái niệm tự chủ, nguyên lý phổ quát về đức lý được dựng
nên, nguyên lý này là nền tảng cho tất cả những hành động của những thực
thế lý trí cũng giống như nguyên lý tự nhiên làm nền tảng cho mọi hiện
tượng” [3]
Tự do là một khái niệm bất khả liễu tri- bởi vì biết về tự do chưa
hẳn là tự do- Tự do thuộc hành động và sáng tạo, chỉ trong hành động
sáng tạo, tự do được cảm nghiệm và thấu triệt.
Bởi thế Kant cũng phát biểu, một cách tự kiểm soát tư duy cách mạng
của mình: “Tuy chúng ta là những phần tử làm ra qui luật cho thế giới
đức lý nhưng đồng thời không phải là kẻ đứng đầu các qui luật ấy mà là
những kẻ phục tùng chúng”[4]
III. Tương quan nhân quả theo tư tưởng Phật học.
Tương đương với khái niệm lưỡng tính về con người trong triết học của
I. Kant : “Con người không chỉ là hiện tượng của các giác quan, mà qua
thông giác thuần túy con người còn tự biết mình như một thực thể tư duy
và ý chí, một thực thể được bẩm sinh tính tự khởi, mà khả năng tinh thần
của nó hoàn toàn không có cảm tính. Đặc biệt lý tính của con người khác
biệt với những năng lực tùy thuộc thường nghiệm, bởi vì lý tính chỉ
quyết định đối tượng theo ý niệm của nó mà thôi. Và lý tính này sở hữu
tính “nhân quả.”[5]
Đức Phật đã phác hoạ chân dung con người như sau: “Trong tấm thân sáu trượng này cùng với tâm thức của nó có sự khởi đầu của biết (ý thức, tâm, ghi chú của người viết) và khổ đồng thời khả năng thoát khổ”.
Con người- như một tương hợp của ngũ uẩn- nằm trong điều kiện tính của
thập nhị nhân duyên và luân hồi- trầm luân trong bể khổ nhưng chính con
người có khả năng diệt khổ, thoát khỏi trầm luân.
Có thể nói, lý thuyết nhân quả và nghiệp của Đạo Phật là yếu tố phổ
thông và phổ quát nhất trong quá trình tìm hiểu, thực hành, tu chứng của
người nghiên cứu cũng như của Phật tử. Nó quan trọng đến nỗi hầu như
thấy được yếu tính của nó là có thể quán triệt hệ thống tư tưởng Phật
học, như ngài Long Thọ (Nagarjuna)[6] đã xác nhận.
- Tương quan điều kiện tính.
Khác với Kant, đạo Phật chỉ có một mô hình tương quan nhân quả áp
dụng cho tất cả các lĩnh vực thường nghiệm cũng như siêu nghiệm. Thay vì
khái niệm “nhân quả” đường thẳng, từ đó đưa đến ý niệm có một đấng toàn
thể là nguyên nhân cuối cùng, tương quan điều kiện tính hay cũng được
gọi là chuỗi điều kiện hay nhân duyên (Pratītyasamutpāda) trong
đạo Phật được quan niệm như một phức hợp của nhiều điều kiện gây nên
quả. Chuỗi tương quan điều kiện này được áp dụng cả trên bình diện tri
thức (tuệ) lẫn bình diện đạo đức (giới). Cả hai bình diện là hai phần tử
thiết yếu của hệ thống tri thức Phật học.
Thấu triệt chuỗi tương quan nhân quả trong toàn bản thể của nó (tuệ)
là điều kiện hay nguyên nhân để hành động đạo đức được thiết lập. Triết
học Phật giáo không đi từ sự tách rời hai bình diện lý thuyết và thực
hành như Kant đã làm mặc dù sự tách rời này trước tiên được xem như là
bước đầu có tính phương pháp học để khảo sát các đối tượng trong tinh
thần phân tích khoa học. Triết học Phật giáo đi từ lối nhìn toàn diện và
nhất thể bao gồm ba khả năng: Tri, Hành và Định (hội nhập) mà Đức Phật
đã đưa ra làm nền tảng cho phương thức cứu đời hay phương thức chữa lành
khổ não của con người.
|
Định (Samadhi) |
|
Tuệ Prajna (Wissen) |
|
Giới Sila (sittliches Handlung) |
Đức Phật cho rằng tri thức của nhân loại là vô cùng nhưng có một loại
tri thức đúng đắn về sự vật và thế giới giúp ta mở được cánh cửa giải
thoát khỏi điều kiện tín
Trong phương thức trên, “Tuệ” hay khả năng tri thức sự vật hay thực
tại của sự vật đúng thật bản chất của sự vật có thể làm nền tảng cho
hành động đạo đức, hay nói cách khác hành động đạo đức trên quan điểm
của Phật giáo có lý do phát khởi qua sự liễu tri toàn diện về sự vật.
Ta hãy tìm hiểu điều kiện khả thể của khái niệm nhân quả trong Phật
giáo để biết tương quan chặt chẽ giữa tri thức và đạo lý. Hai bình diện
này có một liên quan chặt chẽ- một liên quan có tính nhân quả khác hẳn
với qua điểm nhị nguyên của Kant cho rằng giữa tri thức lý thuyết và
hành động đạo đức có một dị biệt về thể tính không thể vượt qua được và
do đấy phải viện dẫn ý niệm chủ thể tuyệt đối (ý niệm Thượng đế) đầy
quyền năng sáng tạo và bất tử.
2a. Ngược lại với truyền thống tư duy của thời đại ngài sinh
ra, Đức Phật đã sáng tạo ra một phương thức giải thích sự hình thành tri
thức về thế giới mà không cần viện dẫn ý niệm tuyệt đối. Trong lúc
những nhà tư tưởng của hệ thống Upanishaden cho rằng để giải thích sự
hình thành thế giới vốn vô thường và giới hạn, sự hiện hữu của một thực
thể tuyệt đối, bất biến, vô điều kiện là cần thiết. Đức Phật bác bỏ điều
ấy và cho rằng chúng ta không cần phải viện lý một thực thể bất biến
như vậy, chúng ta chỉ cần nhìn thế giới như một toàn thể mà trong đó mỗi
yếu tố là điều kiện phát sinh ra một yếu tố khác: “Nếu cái này có thì
cái kia có, nếu cái này phát sinh ra thì cái kia phát sinh ra. Nếu cái
này không có thì cái kia không có. Nếu cái này được chấm dứt thì cái kia
cũng được chấm dứt” điều đó có nghĩa, thế giới có thể tri thức được một
cách thường nghiệm là một tập thể bao gồm nhiều phần tử, những phần tử
này nằm trong một liên hệ với nhau là nếu một phần tử P hiện diện thì
phần tử Q sẽ phát sinh và ngược lại nếu người ta bỏ P đi thì Q cũng sẽ
không còn nữa.
Trong chuỗi tương quan điều kiện này hai điểm có tính tri thức luận cần nêu rõ là:
- Đức Phật đã khai triển một phương pháp có thể cho phép ngài giải
thích thế giới mà không cần phải dựa dẫm đến ý niệm tuyệt đối hay tương
quan nhân quả tuyệt đối
- Thay vào chỗ những đơn vị tuyệt đối bất biến riêng lẻ, chúng ta
phải nhìn thế giới ở trong chuỗi liên hệ của những điều kiện. Tri thức
về chuỗi điều kiện này là chìa khoá nhận thức bản chất thực của mọi sự
vật trên thế gian: là vô thường và vô ngã, ngay cả cái tôi chủ thể đang
tri thức.
2b.
Đức Phật dạy rằng chúng ta có thể có một khái niệm về thế giới mà
không cần đến ý niệm tuyệt đối. Khám phá của Ngài bác bỏ giả thuyết về
một tiểu ngã bất biến (Atman) mà các nhà lý thuyết Upanishaden chấp
nhận, sau khi loại trừ ý niệm đại ngã của Bà La môn, có thể xem là một
cuộc cách mạng tư tưởng gấp đôi.
Mặt tích cực nằm trên lãnh vực kinh tế: lý thuyết mới này cho phép
chúng ta giải thích thế giới mà không cần đến một đơn vị tuyệt đối, tiết
kiệm bút mực và công sức, bớt đi chướng ngại cản trở con đường đi đến
sự thật và giác ngộ. Với phương thức này tất cả những thử nghiệm tìm cho
được một đơn vị tuyệt đối trong thế giới này và xem nó như là một đơn
vị bất biến là không cần thiết, không những không cần thiết mà còn không
thể đứng vững được.
Đức Phật bác bỏ ngay cả ý niệm tuyệt đối của tiểu ngã của tư tưởng Upanishaden (Upaniṣaden) trong chính lý luận của các triết gia Upanishaden khi họ cho rằng:
Nếu tất cả những gì trong thế giới đều được thấy rõ là phù du vô
thường và không vững chắc trên phương diện tri thức luận; và nếu mặt
khác muốn hiểu thế giới này thì cần phải chấp nhận một thực thể tuyệt
đối hoàn toàn vượt ra khỏi tất cả những vô thường và bất định. Nếu đó
không phải là Đại ngã bên ngoài thì điều gì có thể tuyệt đối hơn và thực
chất hơn là chính người đã đưa ra suy nghĩ này?
Ngoài ra nếu cần thiết nhìn thế giới mà không cần đến sự núp bóng vào
trong một thực thể tuyệt đối thì giả thuyết chính con người là nơi trú
ẩn chắc chắn nhất, duy nhất đối với sự vô thường của thế giới bên ngoài
có thể đứng vững. Nói khác đi, chính con người với tư cách là thực thể
cá nhân đồng thời cũng là thực thể tuyệt đối phổ quát được giả định trên
lý thuyết, đó chính là cái NGÃ bất biến..
Theo Đức Phật, chính giả thuyết này lại là một sai lầm cơ bản, vì đã
xây dựng cả cuộc sống của cá nhân con người trên một tiền đề không được
biện minh. Sự xây dựng toàn thể thế giới và đời người trên cơ sở của một
cái NGÃ bất biến đem đến thất vọng thay vì sự thật và hạnh phúc. Đức
Phật dùng khái niệm KHỔ cho sự thất vọng này. Thất vọng hay khổ phát
sinh do sự chấp trước hay tin tuyêt đối vào NGÃ là cái gì tồn tại vịnh
cữu. Khái niệm KHỔ trong diệu đế thứ nhất và phân tích KHỔ trong diệu đế
thứ hai chỉ rõ tính cách vô thường hay bị điều kiện hoá. Chính tính vô
thường, sự biến đổi của sự vật trên thực tế phản bác lại sự thường còn
ảo tưởng và từ đó sự khổ đến từ ý thức về ngã một cách sai lầm. Khổ chỉ
tồn tại bao lâu người ta không biết tính sai lầm của tiền đề chủ trương
tất cả mọi vật đều là thường còn.
Tri thức về thực chất của sự vật là vô thường và vô ngã là điều
kiện để cho khả thể giải phóng. Giải thoát theo Phật có điều kiện tiên
quyết là trí tuệ. Từ đó tri thức luận và giải thoát luận liên hệ chặt
chẽ với nhau.
Đức Phật cho biết giải thoát cần đến sự liễu tri sự vật trong bản
chất thực sự của nó: chính là sự vật nằm trong điều kiện tính hay trong
chuỗi điều kiện:
2c. Thập nhị nhân duyên
Khởi điểm là một chủ thể, một vô ngã có thói quen chấp ngã như là một
thực thể bất biến trong dòng đời của nó (vô minh). Với chấp trước này,
cái ngã ấy đã được bồi dưỡng một cách giả tạo như là cái gì bất biến
trong thế giới luôn luôn biến đổi. Ngoài ra cái ngã vô minh này còn tìm
mọi cách để đứng vững trong chuổi luân hồi. Ý niệm chủ thể này bao lâu
có ý thức và có sắc thân sẽ được xuất hiện qua sáu giác quan. Nhờ sáu
giác quan nó va chạm với thế giới bên ngoài và huân tập tri thức. Qua
tri thức chủ thể biết được thế giới bên ngoài. Khi biết được thế giới
bên ngoài thì phát sinh sự ham muốn cho rằng cả thế giới đều là một ngã
bất biến. Chính cái ngã bất biến này tìm sự thoả mãn và tránh xa những
khó chịu, những bấp bênh, ví dụ ở với người mà mình không thích, xa
người mà mình thích sẽ đem đến khổ đau, muốn giữ mãi niềm vui vừa có
được, nhưng bất hạnh, là nạn nhân của tai ương, và chiến tranh…Chính sự
chấp trước vào ngã và thế giới bên ngoài đã tạo nên tái sinh và với tái
sinh sinh lão bệnh tử sẽ đi kèm theo. Đó là nội dung của thập nhị nhân
duyên.
Lý thuyết này giải thích toàn bộ sự xuất phát của khổ và bao lâu cái
khổ này không được chấm dứt thì luân hồi sẽ tiếp diễn và toàn bộ luân
hồi là nguyên nhân của khổ. Quan điểm này là nội dung của hai diệu đế
đầu. Diệu đến thứ ba và thứ tư đưa ra viễn tượng giải thoát và phương
pháp thực hiện giải phóng ra khỏi khổ đau. [7]
Chính từ kinh nghiệm KHỔ, hay ý niệm KHỔ, đạo đức học Phật giáo khởi
sự. Có thể nói đạo đức học Phật giáo có hai tầng lớp: đạo đức học về
giải phóng toàn diện nỗi khổ của con người và thực hiện giải thoát. Từ
viễn tượng giải thoát hoàn toàn này Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn cách
sống ở trong vòng luân hồi, cách xử thế và đối xử giữa con người với
nhau cũng như những hướng dẫn sống theo trì giới.
2d. Dị biệt với đạo đức học siêu nghiệm của Kant:
Có thể nói rằng với khổ đế như là khởi điểm và động cơ thúc đẩy con
người hành động đạo đức, theo Kant, chưa phải là nền tảng của đạo đức
học bởi vì nền tảng của đạo đức học như chúng ta đã thấy dựa trên cơ sở
của một chủ thể tự do với một ý chí tự do.
Một nền đạo đức học xây dựng trên ý niệm khổ đối với Kant thật xa lạ,
có vẻ không có tính phổ quát khách quan cũng như còn bị lệ thuộc vào
kinh nghiệm thường nghiệm. Những yếu tố chủ quan như lòng mong muốn xây
dựng tính bản thiện, ước mong hạnh phúc, ước mong được nhiều của cải là
những ước muốn chung của tất cả mọi người, nhưng phương pháp để thực
hiện mục đích này lại khác nhau ở mỗi người. Nếu các qui luật đạo đức
được triển khai một cách thường nghiệm theo sở thích và thị hiếu của mỗi
cá nhân thì không thể được xem như là những qui luật phổ quát. Theo
Kant “Trong tất cả mọi trường hợp, mỗi khi một đối tượng của ý muốn được
đưa ra làm cơ sở hành động cho riêng mình thì qui luật này không gì
khác hơn là dị biệt; tính cách mệnh lệnh bị điều kiện hoá” bởi nó tùy
thuộc vào những động lực thúc đẩy từ bên ngoài.
Theo Kant, môt qui luật được xem là đạo đức phải phổ quát và tiên
thiên. Trước hết nó phải được diễn dịch từ một ý chí độc lập với sở
thích lợi ích cá nhân. Ý chí độc lập theo Kant luôn luôn là một ý chí tự
do. Tất cả những lý do hành động đều đi ngược lại tự do ý chí như: bản
năng, nhu cầu, ham muốn, kiêu ngạo, tự ái, thế lực, độc quyền…những lý
do này không phải là nội dung mà ý chí tự do bao hàm. Theo Kant chúng
chỉ là những động cơ bên ngoài qui định ý chí cho nên chúng chưa phải là
động cơ chính của hành động đạo đức.
Ý chí chính nó trong bản chất không đặt cho mình một mục đích khi nó
muốn cái gì, với tư cách là ý chí tự do, ý chí tự xác nhận mình chỉ khi
nào nó gột rửa tất cả những nội dung. Tự do tự chủ là một đặc tính của ý
chí, được hiểu theo Kant, có nghĩa tự cho mình là qui luật của chính
mình. Kant đã đưa ý niệm tự do như là đặc tính của ý chí cho tất cả
những thực thể có lý tính, theo đó tự do là điều kiện thực hiện của ý
chí. Không có tự do này thì con người sẽ không thể nào đưa ra những qui
luật thoát khỏi những ham muốn. Tự do có nghĩa độc lập khỏi những ham
muốn riêng tư, là một ý niệm phổ quát. Tự do theo Kant là cơ sở của tất
cả những hành động đạo đức.
Ngược lại khi chúng ta quan sát lý thuyết nhân duyên của Đạo Phật,
chúng ta thấy rằng hầu như tất cả mọi ý chí đều hoàn toàn nằm trong
chuỗi điều kiện, do đấy ở đây vắng mặt khái niệm ý chí tự do và ý niệm
tự do tiên thiên. Trong chuỗi điều kiện tính ấy mọi ý muốn đều bị qui
định và thường được xem như là tiêu cực, vì chính ý muốn, theo Đạo Phật,
là nguyên do của tái sinh. Tuy nhiên, Đạo Phật cho rằng, chính trong
chuỗi điều kiện này,- có nghĩa trải nghiệm khổ đế- con người mới cảm
nhận được ý chí muốn thoát khỏi phiền não và luân hồi, như một người
mang bệnh, sống trong bệnh thì ý muốn thoát khỏi bệnh cụ thể hơn tất cả
mọi lý thuyết về bệnh tật.
Chính vì con người, như Đức Phật đã nói, là một thực thể chịu khổ não
nhưng đồng thời con người cũng có khả năng diệt khổ. Khả năng diệt khổ
này con người có được từ tri thức đúng đắn về nguyên nhân của mọi khổ
não mà con người đang hứng chịu. Như trên đã nói chính tri thức về mọi
nguyên nhân của khổ não cho ta cơ hội để diệt khổ, có nghĩa con người có
khả năng hành động đạo đức.
Có thể nói cách khác hay để dùng thuật ngữ của Kant về Ý chí, thì
chính ý muốn giải thoát khỏi khổ não là động lực nội tại để con người
hành động diệt khổ. Nền tảng đạo đức học của Phật Giáo như thế khởi từ ý
chí muốn trở thành tự do hay nói cách khác ý muốn thoát khỏi khổ não là
điều kiện để giải thoát khổ não. Tự do do đấy theo đạo đức học Phật
giáo là viễn tượng thoát khổ, trong đó quá trình giải phóng mới thật sự
là quá trình thực hiện đạo đức học . Xét về cơ cấu của quá trình này ta
có hai điểm chính cần triển khai:
3. Nền tảng đạo đức học Phật giáo.
a) Ý niệm về khổ như là lý do thúc đẩy hành động đạo đức:
Phật giáo quan niệm chữ khổ không chỉ là một cảm giác chủ quan cũng
không phải là một cái nhìn yếm thế, cũng không theo định mệnh bị bắt
buộc trong biển khổ của nhân loại, cũng không phải là sự chán nãn văn
minh đã bị lão hoá.
Theo Đức Phật KHỔ phổ quát hơn cả ý niệm tự do, nếu không có khổ, nếu không bị ràng buộc thì tự do không được biện minh.
1a. Khổ đế có một ý nghĩa bao trùm cả vũ trụ khởi từ suy nghĩ
này: không phải sinh vật nào cũng biết tư duy (chỉ riêng con người hãnh
diện biết suy tư, theo Pascal) nhưng mọi sinh vật có thể trải nghiệm đau
khổ. Ví dụ: lão, bệnh, tử là những kinh nghiệm có thể dùng làm gạch nối
giữa thế giới con người và thế giới loài vật, thế giới cỏ cây. Từ ý
niệm KHỔ, con người trở nên một một “LIÊN CHỦ THỂ”, một thứ vô ngã như
khả năng mở ra với tha nhân và thế giới. Khởi từ cảm nghiệm khổ về thân
xác và khởi từ kinh nghiệm khổ về tinh thần, ước mong diệt khổ không
những chỉ cho cá nhân riêng lẻ hay xã hội loài người mà trở nên một ước
muốn phổ quát và thiết yếu cho tất cả mọi chúng sinh. Kinh nghiệm khổ do
đấy là một kinh nghiệm có thể giúp ta thông cảm với tất cả muôn loài,
từ đó ta có thể hiểu được một nguyên tắc cơ bản thường được nêu ra trong
các học thuyết đạo đức như Đức Phật đã nói trong kinh Pháp cú: “Mỗi
chúng sinh đều không thích đau khổ” và “Mọi chúng sinh đều sợ chết”. Do
đó cần phải tự biết bản lai của mỗi thể tính và hãy đừng hành hạ cũng
như hãy đừng giết chết các sinh vật. AHIMSA (Bất bạo động, không giết
hại) là nguyên lý đạo đức của Đạo Phật
Đó là mệnh lệnh đạo đức tiên thiên và quyết liệt hơn cả “Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân” không xa lạ từ Khổng Tử cho đến Aristote, Kant và
những học thuyết đạo đức Đông Tây:
“Điều gì mình không muốn thì không nên làm điều ấy cho người khác”
”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.”
"Ne faites pas à autrui ce que vous ne voudriez pas qu'on vous fit."
Chính khả năng có thể cảm thông với nỗi khổ người khác qua kinh
nghiệm về cái khổ của bản thân, ta tránh không làm hại người khác. Khổ
không phải là một ý niệm suông mà là một trải nghiệm phổ quát. Có thể
nói đây là khởi điểm của hành động đạo đức trong Phật giáo, trong đó
khái niệm cơ bản về bất bạo động đóng một vai trò chính yếu trong lời
dạy của Đức Phật, không những cho con người mà cho mỗi chúng sinh. Từ
trải nghiệm thấu đáo sự khổ, TỪ BI phát sinh, hành động đạo đức, diệt
dục, giới hạnh phát sinh.
Đạo đức học Phật giáo căn cứ vào hai yếu tố quan trọng là “trí” và
“bi”. Trí cho ta khả năng nhận định nguyên nhân của khổ, đồng thời cho
ta biết được chân tướng hay thể tính của sự vật từ đó tìm ra được con
đường đúng đắn cho đạo đức. “Bi” cho ta khả năng hành động theo đúng với
tinh thần đạo đức (không làm điều ác, thực hiện điều lành) dàn trải cho
tất cả chúng sinh (vật thi ư nhân). Tri thức luận do đó là điều kiện cho giải thoát luận
Ngày hôm nay đạo đức học của Phật giáo, hiểu theo nghĩa năng động của
chính lời dạy Đức Phật về khổ và vô ngã, về liên chủ thể chúng sinh
(-bởi lẽ cảm nghiệm khổ là chứng thực vô ngã, không có một ngã trường
tồn) thích hợp với tư duy khoa học và cảm nghĩ của thời đại hơn những
phán đoán mệnh lệnh có tính tiên thiên về NGÃ, THỰỢNG ĐẾ, BẤT TỬ. Do đó
đạo Phật được truy nhận như một nền đạo đức học chân chính và khả thi.
Nhưng cũng cần nhấn mạnh là đạo đức học Phật giáo không lấy sự phân
biệt giữa thiện và ác làm tiêu chuẩn của hành động giải phóng. Hành động
giải phóng này nằm trong tiêu chuẩn lành và không lành (có tính cách
trị liệu bệnh lý chứ không có tính cách phán xét thiện ác).
2a. Ý niệm chuyển nghiệp:
Khái niệm KHỔ được phân tích gồm khổ thân xác (lão, bệnh, tử), khổ
tinh thần, và nhất là khổ trên bình diện thể tính, con người nằm trong
điều kiện tính, mắc xích của sự trở thành, biến đổi, có nghĩa vô thường
và vô ngã nhưng lại chấp ngã do vô minh. Nằm trong chuỗi thập nhị nhân
duyên, điều kiện sống của con người là quả của nghiệp (hành động) do con
người tạo ra. Con người chịu nhận nghiệp quả nhưng đồng thời tạo nên
nghiệp quả trong quá trình biến đổi, vô thường. Nghiệp không phải là một
khái niệm định mệnh, nghiệp bao gồm cả quả lẫn nhân, trong nghĩa con
người nhận nghiệp quả của mình tạo ra nhưng cũng có thể là nguyên nhân
của chuyển nghiệp, chính nhờ sự biến đổi như là vô thường và vô ngã.
Như thế khác hẳn với lối giải thích hành động đạo đức tiên thiên từ
một ý niệm tuyệt đối và mệnh lệnh của đấng toàn năng, mà Đức Phật cho là
có hại cho việc tu chứng giác ngộ, diệu đế thứ nhất hay Khổ đế của Đức
Phật đã xây dựng tiền đề cho một nền tảng đức lý từ chuỗi tương quan
nhân quả hay từ điều kiện tính của chúng sinh trên thế gian.
Liễu tri bản thể của tương quan nhân quả (như là hiện tượng vô ngã,
vô thường) là điều kiện nội tại cho tiến trình chuyển nghiệp.Ý muốn
chuyển nghiệp (thoát dữ làm lành) là khởi điểm để con người có thể thay
đổi nghiệp cũ. Muốn thay đổi nghiệp cần có trí tuệ phá vô minh, chuyển
đổi ngã chấp và tạo nên nghiệp lành cho những quả về sau. Có thể nói
tiến trình thay đổi GÓC NHÌN (tri thức) để phá tất cả những ảo tưởng, ảo
vọng, ảo hoá từ chấp NGÃ là một tiến trình thực hiện giải phóng khỏi
mọi ràng buộc mà con người hứng chịu để thực hiện tự do.
Như thế mô hình đạo đức học Phật giáo không viện dẫn đến một đấng
tuyệt đối toàn hảo làm khởi điểm, mà ngược lại chủ trương chính cuộc đời
vô thường vừa là nguyên nhân và môi trường cho sự thực hiện đạo đức cứu
khổ. Với khái niệm chuyển nghiệp trong dòng biến đổi luân hồi, ý muốn
tự do và cùng với nó, ý chí tự do phát khởi nhằm xây dựng con đường hành
động giải phóng khổ đau, giác ngộ chân lý mà diệu đế thứ ba và thứ tư
đã đưa ra. Tự do như thế vừa là nền tảng vừa là mục đích của đạo đức học
Phật giáo.
Ở đây ta thấy, nếu bỏ những vướng mắc về ý niệm Thượng đế, Linh hồn
bất tử, tư tưởng của Kant có thể gặp Phật giáo khi cho rằng tương quan
nhân quả là hòn đá tảng của tri thức lý thuyết và hành động con người.
b. Hành động đạo đức
1b.
Tuy nhiên Kant có thể không công nhận khái niệm “khổ” như là động cơ
cho hành động đạo đức. Bởi vì “khổ”, khác với tự do, là một cảm giác chủ
quan, riêng lẻ cho từng cá nhân, không thể là động cơ thực sự cho hành
động đạo đức. Ngay cả khái niệm hạnh phúc theo nghĩa mục đích luận đạo
đức của Aristote cũng không được Kant công nhận là động cơ và mục đích
của hành động đạo đức vì hạnh phúc là một khái niệm thường nghiệm do đấy
không thể được xem là một động cơ nền tảng cho qui luật đạo đức phổ
quát. Ngay cả quyền lợi của xã hội cũng không được xem là nguyên do thúc
đẩy hành động đạo đức. Theo Kant tất cả những lý do dùng làm động cơ
thúc đẩy hành động đạo đức đều bị loại trừ do tính ước lệ ngoại tại của
nó. Bởi vì một qui luật đạo đức phải được có giá trị cho tất cả mọi thực
thể có lý tính và tiên thiên chứ không phải thường nghiệm hay thực
nghiệm. Bao lâu người ta có một dụng ý hay là một mục đích thì người ta
đã bị vướng theo qui luật dị biệt của thiên nhiên.
Kant cho rằng nơi mỗi thực thể có lý tính đã có sẵn một thiện chí
tốt. Thiện chí này nhất thiết phục tùng qui luật đạo đức bởi vì thiện
chí này là một ý chí tự do. Người ta có thể nói động cơ thúc đẩy hành
động đạo đức đến từ lý tính thực tiễn “thích thiện”, đến từ ý chí đã có
sẵn trong mỗi thực thể có lý tính từ trong bản chất của nó. Ý muốn thực
hành điều thiện như vậy là nguyên nhân và động cơ cho hành động đạo đức.
Kant đã nhấn mạnh nhiều lần rằng trong hành động đạo đức thực thụ,
không có cảm giác đạo đức bao hàm. Ngay cả sự thoả mãn sau khi đã làm
trọn nghĩa vụ đạo đức cũng bị ông từ chối. Kant cho rằng …qui luật đạo
đức có giá trị không phải vì nó hấp dẫn chúng ta. Hấp dẫn không phải là
tiêu chuẩn của hành động đạo đức. Sở dĩ nó hấp dẫn vì nó có giá trị cho
tất cả mọi người, trong mọi trường hợp. Qui luật ấy phát xuất từ ý chí
của một thực thể trí tuệ thuần tuý, không phải là hiện tượng
Mệnh lệnh đạo đức như “ điều gì mình không thích thì đừng làm cho
người khác” có giá trị phổ quát vì nó làm nền tảng cho mọi hành động đạo
đức, và như thế trở nên mệnh lệnh phạm trù. Kant nêu ra điều kiện mà từ
đó mệnh lệnh này có khả năng hiện hữu đó là khái niệm về tự do. Nhưng
khi viện dẫn “bản tính thiện của lý tính” ông đã không chứng minh tại
sao lại “lý tính thiện” mà không là “ác”,- trong lúc cái ác đang vận
hành,- là nền tảng đạo đức.
2b.
Đạo đức học Phật giáo đi từ một hướng khác: thay vì đưa ra một tiền
đề có tính đất yếu và xác quyết siêu nghiệm, đạo đức học Phật giáo tìm
cách triển khai khả năng thực hiện giải phóng. Hay nói cách khác đạo đức
học Phật giáo chuẩn bị một không gian trong đó hành động đạo đức được
xảy ra tự do như Kant đã đề ra. Nếu ta trở lại sơ đồ về tương quan giữa
trí tuệ và từ bi thì ta có thể nói rằng trí tuệ đã lấy khởi điểm tự do
của Kant để có một cái nhìn siêu việt về thể tính của sự vật trong đó có
chủ thể lẫn khách thể nằm trong tương quan nhân quả.
Như trên đã nói, triết học Phật giáo tìm cách triển khai nguyên nhân
của KHỔ và nhận ra quan niệm về chủ thể tuyệt đối, về ngã bất biến là
sai lầm cơ bản trong tri thức luận của con người. Đức Phật cho rằng nếu
Tự Ngã được định nghĩa như là một thực thể trường tồn và là nguyên nhân
của chính nó, nghĩa là không cần có một nguyên nhân nào khác thì ý niệm
tự ngã này không thể có trên thế gian. Trên thế gian, tính vô thường của
chủ thể là hiện tượng vô ngã. Chủ thể vô ngã này là một tập hợp của ngũ
uẩn và cần phải nhìn nó trong tương qua với khách thể trong ý nghĩa của
một thể tính trở thành. Chính ý niệm trở thành này là cơ hội để cho sự
chuyển nghiệp có thể thực hiện được. Do đấy chủ thể cần phải huỷ bỏ ảo
tưởng sai lầm, nó là một thực thể bất biến vĩnh cữu. Chính ý niệm sai
lầm này là nguyên nhân của sự khổ và luân hồi. Sự thấu triệt bản chất
của sự vật trong bản chất vô thường của nó làm cho con người có thể phát
triển được đức tính từ bi và đức tính từ bi này đã giúp cho con người
có thể cảm thông với người khác.
Đức Phật tìm ra phương thức tu chứng có hiệu quả đoạn trừ chấp trước
mà chính Đức Phật đã thực chứng. Thực hành bát chánh đạo có thể giúp ta
đạt được giải thoát khổ đau và giác ngộ Niết bàn
Ngoài ra Đức Phật cũng đưa ra ngũ giới cho người thường và sáu giới
luật để người hành đạo có thể thực hiện. Ngũ giới và sáu giới hạnh bao
gồm hai khía cạnh. Giới thuộc khía cạnh thực tiễn, hành vi thực tiễn và hành động thực tiễn có thể giúp kẻ thống khổ vượt khổ. Đồng thời Tuệ
giúp ta chánh kiến về bản chất và tương quan với thế giới, trí tuệ này
hướng dẫn hành động thực tiễn của người hành đạo bằng cách chỉ cho thấy
những con đường ra khỏi những giới hạn ngẫu nhiên. Sáu giới hạnh đó là:
bố thí (giảm thiểu tính ích kỷ), đức hạnh (nhân từ đối với người khác),
đạo đức, kiên nhẫn (không bị giận giữ, thực hiện điều lành), quán tưởng
(tĩnh tâm và tuệ), từ bi với tất cả mọi chúng sinh và tâm cùng trí phát
triển từ bi.
Trí tuệ còn được gọi là mẹ của Bồ Tát, không có nghĩa gì khác hơn là
tri thức chân thực đem đến giải thoát, trong lúc từ bi diễn tả sự ước
muốn, hạnh nguyện của vị Bồ Tát được thoát khỏi luân hồi.
3b. Biểu hiệu của tự do:
Nhưng hành trạng đạo đức đặc thù nhất của vị Bồ Tát, theo quan điểm
Đại thừa, lại nằm ở chí nguyện bất ngờ này: Bồ Tát mong muốn được giải
thoát (ra khỏi luật nhân quả) nhưng khi được giải thoát lại không chấp
nhận giải phóng cho riêng mình mà tự nguyện trở lại thế gian để cứu độ
chúng sinh. Ý muốn trở lại thế gian là ý muốn hoàn toàn tự do, không còn
bị hấp lực của luân hồi. Hành động của vị Bồ Tát hoàn toàn vô bị lợi
chỉ dựa vào tâm từ bi. Chính tâm từ bi này làm cho vị Bồ Tát trở lại thế
gian mặc dù vị Bồ Tát đó đã hoàn tất hành trình giải phóng, không trở
lại thế gian (Bất hối Bồ Tát). Khi Bồ Tát hành động như thế thì Bồ Tát
có thể chọn lựa một cách tự do thế gian hay hạnh nguyện Bồ tát đã giải
thoát. Trong lúc Bồ Tát quyết định giúp đỡ cho chúng sinh để đem lại an
lành cho chúng sinh, Bồ Tát cũng chứng minh được các sự mong muốn được
giải thoát của chính mình và qua đó có thể chuẩn bị cho sự viên tròn
Phật tính trong chính bản thân của Bồ Tát. Theo ngài Long Thọ, giải
phóng luận có nghĩa là ngay trên đường hành đạo thực hiện hạnh Bồ Tát,
Phật tính được trọn thành và từ đó con người được giải phóng hoàn toàn.
Nằm trong hệ tư tưởng nhất nguyên, vị Trưởng lão của phái Không Luận
đã từng tuyên bố, mục đích rốt cùng của tri thức luận về tính không
chính là để phơi bày khả thể của hành động đạo đức, ở đây, là hành trạng
và hạnh nguyện của vị Bồ Tát.
Đối với nhà Không luận tuyệt hảo của Phật giáo,- người đã sử dụng lý
thuyết nhân duyên để hủy cấu trúc của mọi lý thuyết và chỉ ra Tính Không
của tất cả các pháp,- không phải lý thuyết Phật giáo, mà chính đạo đức Phật giáo là điều có ý nghĩa nhất cho con người trong viễn tuợng tự do. Tự
do trong nghĩa đem đến hoà bình và an lạc. Long Thọ đã nhìn thấy vị Bồ
Tát toàn hảo trong Đức Phật và đã ca ngợi hết lời Ngài là Đạo sư đẫn
đường cho cuộc giải phóng rốt ráo với vô lượng từ bi. Đức Phật là hiện
thân của nhất thể Bi-Trí-Dũng trên phương diện đạo đức.
Hủy bỏ mọi cấu trúc lý thuyết, đó là công việc trí tuệ mà Long Thọ đã
sử dụng triệt để, nhưng khác với thuyết hủy cấu trúc
(Deconstructionisme) của Jacques Derrida (1930-2004) trong trào lưu hậu
hiện đại Tây phương, công việc của Long Thọ duy nhất nhằm mục đích độ
con người lên đường thực hiện đạo đức để tự giải phóng. Là nhà ảo thuật
tuyệt hảo của tư duy, Long Thọ vẫn dựa lưng vào Đức Phật như nguồn suối
chảy không ngừng của trái tim vô lượng đại bi, ý nghĩa của cuộc sống.
Long Thọ Bồ Tát đã để lại những tác phẩm diễn giải và hướng dẫn thực
tiễn về tu chứng không những cho người đi tu mà còn cho cư sĩ. Ngài ghi:“Pháp của Phật dạy cho chúng ta hai điều là tránh việc không an lành và hướng về những điều an lành với thân, khẩu, ý”
Phương pháp của giải phóng luận này bao gồm con đường thực tiễn được
đưa ra để có thể đạt được mục đích cao đẹp. Ngài Long Thọ đã đưa ra
những lời khuyên cụ thể về chánh kiến (nhìn rõ bản chất sự vật), quán
sát (thấm đượm sự khổ qua chuỗi điều kiện nhân duyên, luân hồi) và hội
nhập ý thức (cởi bỏ tâm phân biệt, tư duy, hoà nhập thể tính). Những lời
khuyên về hành động chuyển nghiệp gồm có 10 điều liên hệ đến thân khẩu ý
như không được uống rựợu, không được sát hại, nói sai sự thật, tránh tà
kiến… và phải phát triển sở thích sống tinh tấn. Những hướng dẫn về
thực hành đạo lý trong lối sống thường nhật như kính trọng cha mẹ, hiếu
thảo với anh em và người ngoài đều được ngài nêu ra cho cư sĩ tại
gia.Với tư cách tu sĩ thì phải giữ các hạnh giới như nhẫn nhục, không
được ganh ghét, phải quan sát các giác quan của mình, đừng luôn luôn tự
mãn. Về việc thực hành quán tưởng còn có những lời khuyên phải luôn luôn
thức tỉnh để thấy rõ hoàn cảnh xung quanh của mình, nên tập thiền quán
cũng như tập nhìn tất các sự việc trong sự toàn diện của nó và thử
nghiệp để biết điều gì, hành động nào có thể đem đến an lành và hành
động nào gây ra sự bất an và phải luôn luôn thâm nhập vào trong mỗi kinh
nghiệm.
Nói tóm lại đạo đức học Phật giáo, không chỉ chú trọng đến giải thoát
khỏi luân hồi mà còn đưa ra tất cả những lời khuyên bao gồm phương pháp
thực hiện để đạt được một đời sống lợi lộc cho sự giải thoát khổ đau.
4b. Bồ Tát và mệnh lệnh phạm trù:
Có thể nói với hình ảnh con người hành động Bồ Tát thích hợp với khái
niệm con người có ý chí tự do theo Kant. Với sự tự chủ và ý chí tự do,
con người có thể xây dựng qui luật đạo đức và qui luật đó là bao gồm
mệnh lệnh phạm trù. Qui luật phạm trù này cho phép con người rút ra bổn
phận của mình trên nguyên tắc mà không bị điều kiện thường nghiệm hay vô
thường chi phối. Theo Kant, chỉ khi nào ý chí không bị những ham muốn
cảm tính thu hút, thì ý muốn có thể trở thành “bổn phận nên làm” có tính
cách phạm trù đạo đức. Ý niệm của tự do được nổi bật qua tính độc lập
của nó đối với một số nguyên nhân có được trong thế giới cảm năng. Ngoài
ra, mệnh lệnh phạm trù còn được Kant nhấn mạnh là hoàn toàn độc lập với
tất cả những mục đích ngay cả khi mục đích này là tính toàn diện hoàn
hảo hay là hạnh phúc của con người. Một hành động đạo đức theo Kant chỉ
được xem là thích hợp với hành động phạm trù khi hành động này hoàn toàn
thuần tuý và không bị nhiểm bởi ý thức vụ lợi nào, ngay cả khi ý thức
vụ lợi này là hạnh phúc chung cho nhân loại.
Từ nhận định trên, thoạt tiên dễ bị cám dỗ để phủ nhận tất cả những
động cơ thúc đẩy cho một vị Bồ Tát hành động cứu khổ nhân loại, vì chúng
vẫn còn là hành động được ấn định bởi một mục đích bên ngoài nhưng nếu
chúng ta khảo sát sâu hơn ý niệm giải phóng của Phật giáo thì chúng ta
sẽ thấy ý niệm giải phóng này là tiến trình của sự vươn tới cũng như
thực hiện ý niệm tự do bởi vì Niết Bàn mà các vị Bồ Tát mong muốn cho
tất cả chúng sinh đạt tới là môt Niết Bàn hoàn toàn độc lập không còn
dính líu đến thực nghiệp. Sự giải phóng này được thực hiện khi con người
thấy được tính không của tất cả các pháp (Dharma). Thấy được tính không
hay nguyên nhân của khổ là điều kiện giúp con người đạt được hoà bình
vĩnh cữu.
Hoà bình vĩnh cữu không phải là một ý niệm chính trị mà là một ý niệm
hội nhập vào thể tính trong đó mọi con người đều đồng đẳng theo đúng
với mệnh lệnh đạo đức đã được xem như là qui luật phổ quát: “điều gì ta
không muốn làm cho mình thì cũng không nên làm cho người khác”. Châm
ngôn này là một trong những châm ngôn làm thành qui luật phổ quát của
nhân loại, được thực hiện bằng hạnh Bồ Tát cứu khổ.
Tương đương với mệnh lệnh phạm trù của hành động đạo đức trong nghĩa
hoàn toàn độc lập với mục đích của chính hành động đạo đức, chúng ta
cũng có thể tìm thấy trong Phật giáo điều kiện khả thể của hành động đạo
đức qua lời phát biểu trong kinh Kim Cương:
Mỗi một đức hạnh được thực hiện đều nên được thực hiện với một ý niệm như sau:
“Bồ Tát bố thí cho chúng sanh nhưng khi bố thí lại không được dấy lên
một ý nghĩ nào về người bố thí”. Điều đó có nghĩa, hành động bố thí chỉ
nên được hoàn tất duy nhất từ ý chí tự do, tự do ngay cả đối với chủ
thể là người hành động đạo đức. Bố thí trong trường hợp này mới chính là
bố thí, trong đó “cho” và “nhận” đều bình đẳng.
Con người bình đẳng trong “sợ chết” cũng như trong thành tựu “đạt
Niết Bàn”. Theo Đạo Phật đây mới là khái niệm tự do tuyệt đối mà con
người vươn tới để có thể thiết lập một thế giới hoà bình bao gồm tương
quan giữa cái ta với toàn thể vũ trụ.
Tất cả những suy nghĩ trên cho ta nhận thấy rằng tuy đi hai con đường
Đông Tây khác nhau nhưng sự đòi hỏi hành động đạo đức rốt cùng cũng chỉ
là một.
Trong đó: tự do của con người vừa là điều kiện vừa là mục đích của
hành động đạo đức theo Kant và của hành trạng thể hiện Phật tính vì Phật
tính trong mỗi chúng sinh đều không khác theo Đức Phật. Cơ hội thành
Phật là của tất cả mọi chúng sinh. Cơ hội ấy con người có được tốt nhất
khi trải nghiệm “nỗi khổ chung” của nhân quần và chúng sinh và phát tâm
cứu độ chúng sinh.
Hoàn tất mùa Phật Đản 2011
Thái Kim Lan
Tài liệu tham khảo:
Immanuel Kant, Kritik der reinen Vernunft
Immanuel Kant, Grundlegung zur Metaphysik der Sitten
Immanuel Kant, Kritik der praktischen Vernunft
Tác phẩm của Bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna):
* "Mūlamādhyamakakārikā" ("Lehrstrophen über die grundlegenden Lehren des Mittleren Weges"). (Thi triết về những lời dạy cơ bản của Trung Đạo)
* Śūnyatāsaptati (Siebzig Strophen über die Leerheit) Bảy mươi khổ thơ về tính không
* Vyavahāra siddhi (Erleuchtung in der Welt des alltäglichen Lebens) Giác ngộ trong thế giới thường nhật
* Bodhicittavivaraṇa (Erläuterung des Erleuchtungsgeistes) Giải thích về tinh thần giác ngộ)
* Catuḥstava (Vier Hymnen) Bốn ca khúc
* Ratnāvalī (Kostbare Girlande) Những chuỗi trân châu
[1]K.
Schmidt, Leer ist die Welt, Nxb Christiani, Konstanz, 1953. Tiểu luận
“Leer ist die Welt”, Thái Kim Lan dịch Việt “Thế giới rỗng không” đã
đăng trên trang talawas ngày 22. 4. 2004.
[2]
D. Hume (1711-1776, người Scottland), triết gia của học thuyết thường
nghiêm Anh, cho rằng tương quan nhân quả là chuỗi liên hệ mà con người
nhận ra do kinh nghiệm được lặp lại nhiều lần, từ đó do thói quen được
huân tập lại, vì thế mang nhiều tính chủ quan hơn là tiên thiên và phổ
quát.
[3]
Wie die Dinge, so erfaßt der Mensch auch sich selbst einerseits als zur
"Sinnenwelt" gehörige "Erscheinung", anderseits denkt er sich als ein
zur "intellektuellen Welt" gehörendes "Ding an sich"
(s. d.). Ein vernünftiges (der Ideen fähiges, mit "Spontaneität"
begabtes) Wesen muß sich selbst als Intelligenz, als zur Verstandeswelt
gehörig, ansehen; es hat also "zwei Standpunkte" der Selbstbetrachtung:
"einmal, sofern es zur Sinnenwelt gehört, unter Naturgesetzen
(Heteronomie), zweitens als zur intelligibelen Welt gehörig, unter
Gesetzen, die von der Natur unabhängig, nicht empirisch, sondern bloß in
der Vernunft gegründet sind". "Als ein vernünftiges, mithin zur
intelligibelen Welt gehöriges Wesen kann der Mensch die Kausalität
seines eigenen Willens niemals anders als unter der Idee der Freiheit
denken; denn Unabhängigkeit von den bestimmenden Ursachen der Sinnenwelt
(dergleichen die Vernunft jederzeit sich selbst beilegen muß) ist
Freiheit. Mit der Idee der Freiheit ist nun der Begriff der Autonomie
unzertrennlich verbunden, mit diesem aber das allgemeine Prinzip der
Sittlichkeit, welches in der Idee allen Handlungen vernünftiger Wesen
ebenso zum Grunde liegt, als das Naturgesetz allen Erscheinungen."
[4] I. Kant, Phê phán lý tính thực tiễn, A147
[5]
Der Mensch ist nicht bloß Erscheinung der Sinne, sondern erfaßt sich
auch selbst durch "bloße Apperzeption" als denkend-wollendes, mit
Spontaneität begabtes Wesen, dessen geistiges "Vermögen" nicht sinnlich
ist. Insbesondere ist die "Vernunft" des Menschen von allen
"empirischbedingten Kräften" unterschieden, da sie ihre Gegenstände bloß
nach Ideen bestimmt. Und diese Vernunft hat "Kausalität".
[6]
Long Thọ khoảng thế kỹ thứ 2, người Trung Ấn, triết gia quan trọng hàng
đầu của Phật giáo Đại Thừa, sáng lập lý thuyết Tính Không và Trung Đạo.
[7] Tứ diệu đế, catvāry āryasatyāni, pi. cattāri ariya-saccāni gồm:
1. Khổ (Dukkha)
2. Tập (Samudaya), sự phát sinh hay nguồn gốc của khổ:
3. Diệt (Nirodha) sự chấm dứt khổ.
4. Đạo (Magga), con đường đưa đến sự chấm dứt khổ.