Truyện kể rằng:
Vào thời dựng
nước cách đây mấy nghìn năm, Hùng Vương thứ 6 trị vì nước Việt. Một
ngày nọ vua cha thấy mình đã già, cần người khôn ngoan nối dõi cai trị
đất nước tốt đẹp. Sau khi đã sát hạch các hoàng tử về văn tài cũng như
võ công, nhà vua rất đẹp lòng về tài nghệ song toàn của các hoàng tử
nhưng còn phân vân chưa biết chọn ai. Một ngày nọ vua cha cho vời các
con đến và bảo rằng: “Ai trong các con có thể nấu món ăn nào ngon nhất,
kẻ ấy sẽ được ta truyền ngôi cho”.
Các hoàng tử vâng lệnh, hối hả lên đường tìm
những thức nấu quí báu nhất, hiếm lạ nhất, ngon nhất, để sửa soạn món
ăn. Họ gửi quân hầu đi khắp nơi trên đất nước, lặn lội rừng sâu hay
biển cả để tìm cho được những loại thịt, cá quí hiếm, những rau cải và
rau thơm chọn lọc nhất. Chỉ duy hoàng tử thứ 18, một vị hoàng tử rất có
hiếu và thông minh nhưng mẹ chàng lại rất nghèo nên không có tiền để
lên đường tìm kiếm của ngon vật lạ. Chàng đành ở nhà với nỗi lo âu.
Chàng chỉ biết cầu nguyện tổ tiên và trời đất giúp chàng tìm ra một món
ăn thích hợp. Thời gian qua mau, sắp đến ngày khảo thí. May sao một
đêm, trong giấc ngủ chàng nằm mơ thấy một vị thần đến bảo rằng: “Ta
biết con là một kẻ hiếu thảo, ta muốn cùng con sửa soạn một món ăn
thích hợp với tính tình hiếu đạo và tâm hồn của người dân, mà không phí
phạm xa hoa. Con phải biết rằng, dưới Trời và trên Đất không có gì quí
hơn hạt gạo mọc khắp đồng ruộng đất nước. Không cần phải sục sạo rừng
rú hay biển sâu để tìm. Vậy con hãy chọn loại gạo tốt nhất, đó là thứ
gạo nếp trên cánh đồng nhà, lấy thêm đậu xanh trong vườn nhà hay mua
của vườn nhà hàng xóm, rất dễ gặt hái, sau đó mua thịt lợn nơi trại
nuôi lợn trong làng và năm thứ gia vị ở sau vườn. Hãy vút gạo cho kỹ,
đãi đỗ xanh sạch vỏ, gia vị tiêu hành muối nước mắm cho thịt heo, hái
lá chuối hay lá dong sau vườn, rửa sạch và chẻ tre làm dây buộc. Cho
gạo cùng thịt trên lá, lớp gạo bên dưới, đậu xanh và thịt heo ở giữa
hai lớp gạo, gói lại thành hình vuông, biểu tượng của Đất, rồi gói đòn
dài hình tròn, biểu tượng của Trời, lấy lạt buộc kỹ, sau đó bỏ vào nồi
nước sôi, luộc chúng một đêm rồi lấy ra để ráo nước. Con sẽ thấy phép
mầu hiện ra”.

Lang Liêu tỉnh dậy, làm theo lời dặn của vị thần
trong mộng. Đến ngày khảo thí, vua cha ngạc nhiên thích thú khi nếm vị
tinh khiết và thơm ngon của chiếc bánh do hoàng tử Lang Liêu dâng lên.
Sau khi đã thử qua những thứ sơn hào hải vị như nem công chả phượng,
chân gấu hầm trong rượu rắn, lưỡi chim sẻ chiên tẩm mật hay vi cá nấu
trong nước xốt tôm hùm…nhà vua nhận thấy tất cả sơn hào hải vị này đều
không sánh nổi bánh chưng của Lang Liêu. Bánh của Lang Liêu đoạt giải
nhất và vua Hùng đẹp lòng truyền ngôi cho chàng vì chàng đã sáng chế ra
một món ăn, trong đó tinh hoa của vạn vật giữa Trời và Đất đã được qui
tụ hài hòa thành chất ngon lành cho con người.
Có thể nói
sự tích bánh chưng bánh dày, dù mang đôi chút huyền thoại thời Hùng
Vương, là công thức đầu tiên của bếp Việt được truyền tụng trong nhân
gian và được viết thành văn, phổ biến cho mọi tầng lớp, khác hẳn với
tính cách bí mật gia truyền của các món ăn, thường chỉ mật khẩu cho con
cháu kế thừa. Trên lãnh vực bếp núc, làm bếp, nấu bếp thường nằm “trong
nhà”, có tính tư riêng “một nhà” với nhau, bà truyền cho mẹ, mẹ truyền
cho con, con truyền cho cháu. Nhưng sự tích bánh chưng là nghề nấu
truyền cho dân gian, không chỉ nói về cách nấu bánh chưng mà còn chứa
đựng một thứ triết lý ẩm thực thuần túy Việt Nam, hay “đạo ẩm thực Việt
Nam”.
Thấu suốt “con đường” ẩm thực hầu như là một trong những
điều kiện an bang tế thế, xây dựng đất nước lành mạnh, tạo nên thể
tính Việt Nam. “Ăn” bao hàm quá trình thể hiện đạo đức sống, khởi đầu
từ “người nấu”. Chính người nấu ấn định thể chất món ăn qua sự tuyển
lựa thức nấu, vật liệu, gia vị, nhiên liệu… Truyện kể Lang Liêu, là vị
thái tử thông minh, tài giỏi, đức độ, một người con có hiếu, một người
em thảo, những chi tiết ấy rất quan trọng. Có lẽ nếu không có những
chi tiết này, “bánh chưng” sẽ không…được nấu!
Tư duy hay “cơn
mộng nấu” của ông, thoát thai từ đạo đức ấy, bộc lộ sự đắn đo, cẩn mật
trong chọn lựa vật liệu, lương thực, mùi vị, cùng nghệ thuật tạo hình,
biến chế và thẩm mỹ của sản phẩm. Sự chọn lựa biểu hiện tâm tình của
người nấu không những cho người ăn, mà ngay cả đối với các vật liệu lấy
từ thiên nhiên như gạo, nếp, ngũ cốc, thịt gia súc, gia vị, cây cỏ….
cần để tâm cẩn trọng vun trồng. Vun trồng trong tinh tấn, trong ý hướng
lành mạnh, bổ dưỡng cho con người, đó là văn hóa trong nghĩa xác thực
của chính khái niệm này.
Bàn tay nấu vừa thỏa mãn nhu cầu,
vừa điều khiển, nêu mẫu mực cho việc “ăn”- ăn ngon, ăn lành biến thành
văn hóa từ đó. Nhu cầu “ăn” do đấy tùy thuộc nghệ thuật nấu, nghệ thuật
nấu lành mạnh thì nhu cầu ăn nghiêng về lành mạnh, nghệ thuật không
lành mạnh thì sản sinh nhu cầu bội thực, ăn nhậu bí tỉ. Nhu cầu bội
thực (nhậu nhẹt suốt ngày) làm cho thể xác và tinh thần con người bệnh
hoạn. Vì vậy người ăn cần được giáo dục để chọn lựa đúng thức ăn cho
chính mình và cho người cùng ăn, đạt trình độ “biết ăn”. người Việt ta
thường dùng chữ “có ăn học” để chỉ người được giáo dục cao, có trình độ
văn hóa. “Biết ăn” là điều kiện của “biết sống” bao hàm quá trình hấp
thụ văn hóa và giáo dục của tập thể ăn. Có thể nói Lang Liêu (người
nấu) và vua Hùng Vương (người ăn) là hợp thể đồng điệu trong “đạo ẩm
thực Việt Nam”. “Người nấu” Lang Liêu đã thấu rõ và đồng cảm với sự đòi
hỏi của “người ăn” Hùng Vương và ngược lại, “người ăn” Hùng Vương, ông
vua biết thưởng thức và đòi thưởng thức món ăn chính đáng cho cả cộng
đồng đã được người nấu đáp ứng đúng mức nhu cầu mong đợi.
Tương
quan “đồng điệu” giữa vua cha Hùng Vương và hoàng tử Lang Liêu đã tạo
nên một nhất thể văn hóa của đạo ẩm thực, trong ý nghĩa nuôi dưỡng để
phát triển bền bỉ và hoàn thiện.
Giấc mộng của Lang Liêu không phải là giấc mộng tình
cờ, mà chính là kết quả của trằn trọc suy tư, thao thức tìm đường đi,
phương cách thực hiện món ăn nuôi dưỡng cho cả một thời đại và thế hệ
tương lai. Nhưng trí tuệ chưa đủ mà cần có trực giác và linh cảm khả dĩ
nối kết với siêu nhiên, để có thể sáng tạo hoàn hảo. “Mộng” thấy
“Thần linh” hay thần linh báo mộng là một trực cảm siêu việt. Với trực
cảm ấy và tinh thần chí hiếu, Lang Liêu hội đủ điều kiện để “làm vua”
trong sứ mạng “nuôi dân” no đủ, tôn kính môi trường sống của người dân,
không xa xỉ phí phạm tài nguyên, phát triển tài năng – và nhất là thực
hành đúng con đường trung đạo “nấu” được- hay sáng tạo- đáp ứng đúng
nhu cầu và kiểm soát nhu cầu (để không bị nhu cầu quá trớn điều khiển).

Giấc mộng “bánh chưng” của Lang Liêu gặp vị Thần có
lẽ nằm trong ý nghĩa mà triết gia Feuerbach đã triển khai: ẩm thực là
một thứ tôn giáo- “Đời sống là thượng đế, lạc thú đời sống là lạc thú
thượng đế, niềm vui đời sống thực thụ là tôn giáo thực thụ. Nhưng trong
lạc thú đời sống này có sự hưởng thụ thức ăn và thức uống. Bởi thế,
nếu cuộc đời nên là thánh thiện thì thức ăn và thức uống cũng phải được
xem là thánh thiện”.
Lang Liêu thanh cao chứ không thô thiển,
lớn lối như Feuerbach, và sáng tạo hơn, ông tặng một cái bánh chưng
được nấu bằng tinh hoa của Trời và Đất của tổng thể linh ứng vũ trụ cho
dân tộc Việt với lời chúc “ăn ngon” để chóng lớn trong mùa xuân hôm
nay, mai sau và cả nghìn sau.
(Trích và triển khai từ tiểu
luận Đức ngữ: Thái Kim Lan, “Das Tao des Essens in der östlichen
Philosophie” - Đạo ẩm thực trong triết lý Đông phương)
TKL
Tác giả gửi CL Bài đã đăng trên Tiasang.com.vn
http://chuyenluan.net/index.php?option=com_content&view=article&id=5934:lang-lieu-va-giac-mong-banh-chung-mot-cach-nhin-dao-am-thuc-viet-nam&catid=11:vanhoa&Itemid=15