Các thức giả dịch bài này cho rằng ý bài
thơ quá lãng mạn, hơi lạ đối với tác giả là một thiền sư. Đồng thời bài
này lại trùng với một bài thơ của thiền sư Trung Hoa tên Ảo Đường Trung
Nhân đời Tống (? – 1203) (*)(2). Trong bài này tôi xin đưa ra cách hiểu
bài thơ này của riêng mình trong mong muốn tìm hiểu xem có thực ý của
ngài HQ có như từ trước tới giờ những người đọc bài thơ này nghĩ không?
và ai mới là tác giả đích thực của bài thơ ấy?.
Nguyên văn :
Xuân nhật tức sự.
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả lân vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Huyền Quang
Đặng Thai Mai dịch :
Đường kim bỗng chậm lại trên tay cô nàng xinh đẹp mười sáu xuân xanh,
Mấy chú oanh vàng thỏ thẻ trong lòng tử kinh hoa nở rộ,
Thương quá đi bao nỗi lòng xuân vô hạn,
Đang trút cả giây phút ngừng kim và im phăng phắc .(3)
Đinh Gia Khánh dịch :
Người con gái đẹp tuổi đôi tám chầm chậm thêu,
Dưới bóng hoa tử kinh, chim hoàng ly nhảy nhót,
Đáng yêu là cái ý thương xuân vô hạn,
Đọng lại tất cả ở lúc dừng kim, không nói năng (4)
Huệ Chi dịch :
Lỏng tay thêu gấm gái yêu kiều
Hoa rợp oanh vàng lảnh lót kêu
Bao nỗi thương xuân thương biết mấy
Là khi không nói chợt dừng thêu. (5)
Như thế ta thấy hầu hết bản dịch bài thơ
này không khác nhau là bao nhiêu, điều này chứng tỏ các dịch giả hiểu
bài này gần giống nhau, đặc biệt câu một và câu bốn. Các văn bản dịch
đều cho “nhị bát giai nhân” là một cô gái 16 bằng xương bằng thịt. Vì
vậy người dịch và chú phải cố gắng tìm cách giải thích cho hợp lý.
Người đời thì nghĩ có lẽ tác giả thương cô gái quá đi rồi, thương nhất
là lúc dừng kim mà chẳng nói năng gì ! Còn người tu thì lại bảo đó là
cái lý “ngôn ngữ đạo đoạn,tâm hành xứ diệt”. “Bặt đường ngôn ngữ, dứt
lối tâm hành”. Đây chính là cách mà từ trước đến nay nhiều người vẫn
nghỉ khi dịch bài thơ này.
Theo tôi, bài thơ này có ngữ nghĩa thống
nhất từ tên bài thơ cho đến nội dung. Tất cả các yếu tố và chất liệu
tạo nên bài thơ đã hoà quyện với nhau nhuần nhuyễn .
Tạm dịch :
Ngày xuân tức sự
Người đẹp 16 tuổi đang chầm chậm thêu tấm gấm nhiều màu
Dưới táng hoa của cây tử kinh những con chim hoàng ly đang hót.
Cảm thương biết mấy nỗi đau trong lòng của mùa Xuân.
Thêu đến khi ngừng kim mà chẳng nói tiếng nào .
Ngày xuân tâm sự
Chầm chậm nàng xuân dệt gấm hoa
Hoàng Ly hót dưới tử kinh nhà.
Nỗi lòng xuân đó sao thương quá!
Dâng hết xuân thì chẳng nói ra.
Tên bài thơ là “Ngày xuân tâm sự ” như
vậy mùa xuân là chủ đề của bài thơ. Đây chính là ý chủ đạo xuyên suốt
bài thơ, do đó ngôn từ trong bài thơ đều liên quan đến chủ thể này. Nếu
ta giải thích và liên tưởng vượt ra ngoài chủ thể đó, có thể ta sẽ
không hiểu được bài thơ, khi đã rơi vào tình huống đó rồi thì mọi giải
thích càng cố gắng càng xa ý bài thơ.
Theo tôi “ Nhị bát gia nhân – người đẹp
16 tuổi’ là một tu từ, ở đây là tác giả đã nhân hoá mùa xuân . Tại sao
vậy? Ý này cho ta hiểu đây là thời điểm đầu xuân. Bởi vì tuổi 16 hay
còn gọi tuổi xuân là tuổi khởi đầu cho sự rực rỡ của con gái, chứa đựng
những năng lượng làm thay đổi ngày mai. Nàng đang chầm chậm thêu tấm gấm
nhiều màu (“tú” có nghĩa là gấm 5 màu). Ta có thể hình dung vào một
ngày đầu mùa xuân, tác giả nhìn thấy xa xa,những bông hoa đầu xuân đang
dần dần khoe sắc, gần bên, dưới táng hoa tử kinh, những con chim hoàng
ly đang hót véo von. Mùa xuân đang mang lại cho cuộc đời sức sống mới
khắp nơi nơi. Một cảnh xuân đẹp, thanh bình lạ thường. Thế mà bỗng dưng
tác giả lại chạnh lòng thấy thương cho nỗi đau trong lòng của mùa xuân
khôn xiết, bởi lẽ vì cuộc đời mà mùa xuân đã đem hết sức mình, hay theo
nghĩa trong bài thơ là cho tới khi dừng kim mà chẳng nói gì. Vâng nàng
xuân đã thêu tấm gấm rực rở màu sắc để làm đẹp đất trời mà cho đến mũi
kim cuối cùng mà chẳng hề thở than (bất ngữ ).
Như thế là chẳng có cô nàng 16 tuổi nào ở
đây cả, mà chỉ có mùa xuân thôi, một mùa xuân đang ra sức cống hiến cho
đời những bông hoa kỳ diệu, mà chẳng có đòi hỏi thở than gì, nhưng từ
trước tới giờ những người dịch và chú giảng bài này thiên về thơ Thiền,
vì tác giả là một Thiền sư nên lấy làm lạ, từ đó giải thích bài thơ như
đã nêu trên và đã nhận định “Có lẽ con người thi nhân trong ông rỏ nét hơn con người tôn giáo”(7) hay “Mùa xuân và thiếu nữ: đó là cuộc sống với vẻ yêu kiều nhất của nó; người
đẹp dừng kim thêu để tư lự về xuân sắc,xuân tình: lời thơ mới tình tứ làm sao ! kể ra trong thơ văn ngày xưa cũng ít khi ta bắt gặp những ý, những tình như thế” (8). Có lẽ vì vậy khi viết “Việt Nam Phật Giáo sử luận” Nguyễn Lang đã loại bài này ra khỏi phần nói về Huyền Quang (9).
Qua những phân tích trên, ta có thể hình
dung ra rằng tác giả”XNTS” đang nhìn đăm đăm về phía trước, vì trong
chiều không gian mà ông mô tả trong bài ta thấy. Xa thì trăm hoa đang tô
thắm trong buổi đầu xuân, gần thì có những con chim đang hót dưới táng
hoa. Như vậy tác giả không quan tâm đến chiều cao, cái không gian mùa
xuân cao rộng trên đầu. Dấu hiệu này cho thấy ông đang nặng gánh ưu tư.
Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì xảy ra với đời ông.
Tác giả chia bài thơ thành hai ý :
Câu 1,2 : Hình ảnh một mùa xuân đang mang đến cho đời những gì rực rở tốt đẹp nhất, hứa hẹn những ngày hạnh phúc cho nhân thế.
Câu 3,4 : Để có được những giá trị tốt
đẹp hiến dâng cho đời, mùa xuân đã phải làm việc với tất cả sức mình mà
chẳng đòi hỏi, thở than gì . Điều ấy làm cho tác giả chạnh lòng thương
xót.
Thông điệp mà bài thơ gởi đến cho người
đọc là : Tất cả những gì tốt đẹp mà chúng ta đang hưởng thụ không phải
tự nhiên mà có, sở dĩ có được như vậy là nhờ quanh ta biết bao người
đang thầm lặng hy sinh mà không hề mong mỏi bất cứ một sự đền đáp nào .
Một bài thơ hay nhưng đáng tiếc lại
trùng với một bài thơ của một thiền sư Trung Hoa đời Tống như Lê Mạnh
Thát trong bài “Về tác giả bài thơ Xuân nhật tức sự”đã xác định. Cần đọc
lại bài thơ này trong tiểu sử của Ao Đường Trung Nhân :
Sư thượng đường nêu chuyện con chó không có tính Phật, nói :
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả lân vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Như đã phân tích ở trên,nghĩa của bài thơ này đã quá rỏ ràng, nếu ta đưa tên của bài thơ là CON CHÓ KHÔNG CÓ TÍNH PHẬT
thì thật là vô lý và khó mà tìm được sự thống nhất giữa tiêu đề và nội
dung của bài thơ. Sự không tương hợp này không phải giờ đây khi nghiên
cứu về bài thơ mới nhận ra, chính ngay ở Trung Hoa cũng đã có người nghĩ
đến điều đó rồi cụ thể là đã có một bài thơ xuất nhập với bài thơ của
Trung Nhân của Nam Tẩu Sực được ghi lại trong Thiền Tông tụng cổ
liên châu thông tập do Phổ Hội chỉnh lý và bổ sung bản Thiền Tông tụng
cổ liên châu thông tập, hoàn thành từ khoảng 1295-1418.
Nguyên văn :
Nhật noãn giai nhân thích tú trì
Tử kinh chi thượng chuyển hoàng ly
Dục tri vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Tạm dịch :
Nắng ấm người đẹp thêu chậm dần
Trên cây tử kinh những con chim hoàng ly đang hót
Muốn biết nỗi lòng mùa xuân thế nào
Tới chổ ngừng kim chẳng nói gì.
Vì cớ gì mà Nam Tẩu Sực lại sửa bài thơ
của Trung Nhân. Rõ ràng ông đã nhận ra ngôn ngữ trong bài thơ của Trung
Nhân không phải là ngôn ngữ của người Trung Hoa một dân tộc tự tôn, vì
vậy ông muốn đem lại cho bài thơ một cảm xúc mới khi thay đổi một số từ.
Ông đã dùng “ nắng ấm” thay vì “ mười sáu” “trên cành” thay “dưới hoa”, “dục tri” thay vì “khả lân”.Với
những thay đổi này có lẽ ông muốn ý bài thơ mạnh hơn,cứng rắn hơn như
tính chất vốn có của đa số thơ Thiền của Trung Hoa, nhưng vì vậy ý thơ
không có được sự liên kết chặc chẽ. Có lẽ chính vì thế mà khi thầy trò
Tự Dung và Tính Lôi viết Nam Tống Nguyên Minh thiền lâm tăng bảo truyện (1664) trong phần viết về Ảo Đường Trung Nhân đã không chép bài này nữa.
Như thế ta thấy bài thơ ngay từ thời đó
và đã có vấn đề. Các nhà sao lục các sự kiện trong thiền môn ở Trung Hoa
đã thấy sự bất cập của nó vì vậy sửa rồi thấy không ổn cuối cùng bỏ
luôn.
Ngoài những sự kiện nêu trên, cần xét
đến không gian lịch sử bấy giờ. Con đường trao đổi văn hoá giữa Đại Việt
và Trung Hoa lúc ấy hết sức giới hạn. Ngoài một số đoàn đi sứ qua
lại,hay các nhà buôn thỉnh thoảng ghé vào chẳng còn con đường nào. Do đó
ta có thể nói rằng nếu Huyền Quang có được bài thơ của Ảo Đường Trung
Nhân thì có nghĩa rằng Huyền Quang có trong tay cuốn Gia Thái phổ đăng Lục của Lôi Am chính Thọ hoặc Ngũ đăng hội nguyên của Đại Xuyên Phổ Tế hoặc Tục truyền đăng lục của Viên Cực Cư Đỉnh hay Thiền tông chính mạch của Như cẩn (11) . Như Tổ gia thực lục(12)
đã cho biết, Huyền Quang sau khi đi tu, đã có một thời gian hầu Điều
Ngự, và sau đó là Pháp Loa. Như vậy nếu có các văn bản này nhất định
Điều Ngự đã biết hay Huyền Quang đã trình với Điều Ngự hoặc Pháp Loa và
việc ấy chắc đã được ghi lại trong tiểu sử của Điều Ngự cũng như Thiền
Phái Trúc Lâm. Vậy mà trước và sau Huyền Quang chẳng thấy dấu tích của
các cuốn sách đó ở Việt Nam. Khi quân Minh chiếm Đại Việt,vua Minh ra
lệnh thâu vàng bạc,châu báu và sách vở đem về Trung Hoa trong đó có cả
sách của Huyền Quang như thông tin trong cuốn Tổ Gia Thực Lục (13)cho
biết. Điều đó cho ta hiểu rằng nguồn tư liệu văn hoá trong quần chúng từ
nước ta sang Trung Hoa rất nhiều so với từ Trung Hoa sang nước ta. Có
lẽ cũng vì vậy mà có nhiều bài thơ của các thiền sư Trung Hoa giống với
thơ thiền sư Việt Nam chăng?.
Cuối cùng ta có thể đưa ra một số dẩn chứng sau đây để so sánh từ đó cho ta suy nghỉ ai là tác giả của bài thơ:
Về Huyền Quang :
1 – Trong số thơ còn lại hơn 2/3 bài thơ của ông lấy hoa là đối tượng như :
“ Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Bách vinh mai hoa nhượng hảo trang
Thi biều thực vị cúc hoa mang
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa”
Và bài XNTS cũng nằm trong hướng tư duy này.
2 – Thông điệp của bài thơ hoàn toàn phù hợp với những gì xảy ra với cuộc đời ông như đã ghi trong lịch sử .
3- Nội dung của bài thơ thống nhất từ chủ đề cho đến nội dung bài thơ cũng như các biện pháp tu từ.
4 – Với rất ít tác phẩm còn lại, chủ yếu
là thơ nhưng cũng đủ chứng minh cho thấy ông là một nhà thơ xuất
sắc,cớ gì lại lấy thơ người khác viết thêm nhan đề để làm của mình.
Về Ảo Đường Trung Nhân :
1- Nguyên nhân dẩn đến sự ra đời của
bài thơ hoàn toàn vô lí (con chó không có Phật Tính), nhưng từ trước
tới giờ chưa giải thích một cách tường tận, rỏ ràng nên cứ đổ cho là
thơ Thiền.
2- Chính vì sự không phù hợp này
khiến cho nhiều nhà tập chú chuyện Thiền môn mới sửa, không phải một lần
mà nhiều lần và cuối cùng bỏ luôn. Điều này cho thấy vào thời đó bài
này đã có vấn đề, vấn đề ở đây chính là văn phong và nội dung không mang
tính Trung Hoa.
3- Trong suốt những tác phẩm Thiền
đời Trần và sau đó, không thấy ai đề cập đến những tác phẩm liên quan
đến bài thơ mà tôi đã nói trên. Điều nay cho biết rằng những tác phẩm đó
có thể không có mặt ở Việt nam lúc bấy giờ. Nhưng ta có thể khẳng định
rằng Trung Hoa đã lấy rất nhiều tác phẩm của Việt Nam, trong đó có tác
phẩm của Huyền Quang, đieu này được ghi lại trong cuốn Tổ Gia Thực Lục
(14).
4- Cuối cùng với tất cả những gì
trình bày tôi tin rằng đã có sự xuất nhập ở đây, có nghĩa là ai đó đã
đưa bài thơ này vào thay một bài khác ở đoạn này, bài khác đó nội dung
phải phù hợp với cái tiêu đề “Con chó không có phật tính”. Nhưng người
làm việc này hơi cẩu thả nên quên không xóa cái tiêu đề xa lạ kia đi.
Về mặt văn bản học thì như đã được khẳng
định bởi bài viết của Lê mạnh Thát, nhưng với những gì đã trình bày thì
rỏ ràng nó có vấn đề, đặc biệt về mặt văn học tôi cho rằng bài thơ
“xuân nhật tức sự” được ghi lại trong tiểu sử của Ảo Đường Trung Nhân là
một nghi vấn và như thế ta có thể tin rằng bài “Xuân nhật tức sự” là
của Huyền Quang./.
.....................o0o......................
1- Ban đầu bài thơ này không có Tên, tên
XNTS là do người đời sau đặt, điều này chứng tỏ rằng người xưa hiểu rất
rỏ bài thơ mới đặt tên như thế. Hay nói khác hơn xưa người ta hiểu “
Nhị bát giai nhân” là nàng Xuân chứ không phải cô gái.
2- Về tác giả bài thơ “ Xuân nhật tức sự”. Nguyệt san Giác Ngộ 46 tr 16 –01-2000 .Tạp chí văn học số 1 –1984
3- Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học”, Thơ văn Lý Trần tập 1 tr 44 nhà xuất bản Viện Văn học Hà Nội 1977.
4- Văn học Việt Nam ,Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai cao Chương ,cuốn 1 trang 184 nxb Đại hoc và giáo dục chuyên nghiệp 1992.
5- WWW.thivien.net/poem.php?
6- Huyền Quang thiền sư – thi sĩ -Nguyễn Phương Chi – Tạp chí Văn học số 1 - 1984
7- xem (4)
8- Việt Nam Phật Giáo sử luận C 1 Tr 397 Văn học in lần 3 1992 Hà Nội
9- Xem phần viết về Huyền Quang trong
Việt Nam Phật Giáo Sử luận.Nguyễn Lang . Tam tổ Trúc Lâm giảng giải,
Thiền sư Việt Nam. HT. Thích thanh Từ.
10 - xem (2)
11 - Cả hai cuốn này đều có bài thơ trên.
12 – Tam tổ Thực Lục – Thích Phước Sơn dịch và chú giải – nxb TPHCM.
13 - Tam tổ Thực Lục – Thích Phước Sơn dịch và chú giải – nxb TPHCM. Tr 111/60b – 112/60a
14- xem 13