Tiếc
thay người anh hùng vạn thắng không lường được cái họa bên trong cung
tường. Năm 979 (Kỷ Mão) vua Đinh Tiên Hoàng và thái tử cận thần Đỗ Thích
phản bội ám sát. Thừa cơ nước Việt phân hóa, bất ổn triều Tống cử binh
sang xâm lăng. Trước nguy cơ nước mất nhà tan, thái hậu Dương Văn Nga
(1) quyết định mang hoàng bào, ấn kiếm truyền trao quốc cho thập đạo
tướng quân Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế (980-Canh Thìn) để thống lĩnh binh
dân chống giặc giữ nước. Chiến thắng ngoại xâm xong, vua Lê Đại Hành gặp
nhiều khó khăn trong việc nội trị, ngoại giao với lân bang, rất may
đương thời có thiền sư Pháp Thuận hết lòng hướng dẫn phò tá.
Sư
họ Đỗ, xuất gia từ nhỏ thờ thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau
khi đắc pháp, sư đến trụ trì giáo hóa đồ chúng ở chùa Cổ Sơn, làng Thừ,
quận Ái (2). Vua Đại Hành hết lòng ngưỡng mộ, thường thỉnh sư vào triều
tham khảo việc nước và giao phó soạn thảo văn từ ban giao với Trung
Quốc. Sách: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Thiền Uyển Tập Anh ghi lại: năm 987
(Đinh Hợi) niên hiệu Thiên phúc thứ 8, triều Tống cử quốc tử giám bác
sĩ Lý Giác sang sử nước ta. Để có người đủ trình độ theo dõi ứng đối với
sứ thần, vua Lê nhờ sư Pháp Thuận dã làm viên quan coi bến đò ở sông
Sách (3) đợi đón tiếp sứ Tống, lúc thuyền qua sông nhìn thấy cảnh vật
tươi đẹp, giữa dòng có hai con ngỗng bơi lội, Lý Giác cao hứng tức cảnh
ngâm:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Bỗng Lý Giác giật mình nhìn qua lại khi nghe ông lão cheo đò cao giọng ngâm tiếp:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
Dịch:
Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó lên trời
Long trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi. (4)
Câu
chuyện đón tiếp sư Tống được sử sách ghi chép truyền lại hơn ngàn năm.
Gần đây giáo sư Lê Mạnh Thát công bố công trình nghiêm cứu về Thiền Uyển
Tập Anh có biết bài thơ trên là một nhuận sắc khác tinh tế của bài thơ
vịnh nga mà Lạc Tân Vương làm khi mới lên mười tuổi và toàn đường thi
tập 2 quyển 79 tờ 864 chép:
Nga nga nga
Khúc hạc hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba. (5)
Dịch:
Nga, nga, nga
Ngưỡng cổ kêu ngó trời
Lông trắng trôi nước biếc
Sống xanh chân hồng bơi. (6)
Đầu
thu năm 2000 có dịp ra Hà Nội đến tham quan Viện bảo tàng Lịch Sử Việt
Nam chúng tôi sửng sờ và tràn đầy xúc động khi đập mắt đứng ngắm chiếc
dĩa sứ cổ thể hiện lại câu chuyện trên. Trong lòng dĩa, bờ bên trái vẻ
cảnh núi non cao ngất tầng mây, dưới cội tùng già có một giang đình ven
bờ sông. Bên phải đá núi chập chồng, một gốc lệ liễu buông lơi cành lá.
Giữa dòng có chiếc thuyền chở ông quan ngồi trước mui, ông lão cầm chèo
đàng sau hướng vào giang đình. Xa xa hai con ngỗng nhởn nhơ cùng sống
nước. Trên cảnh ghi bài ngũ ngôn tứ tuyệt “Nga nga lưỡng nag nga...”dưới
đáy dĩa ghi rõ “Hồng Đức Niên Chế”(???), tức niên hiệu của vua Lê Thánh
Tông từ năm 1470-1497.
Viện
BTLSHN xếp dĩa này thuộc loại đồ sứ hoa lam triều Nguyễn, thế kỷ XIX,
tuy nhiên theo chúng tôi xem xét họa tiết, men màu và so sánh với các
tiêu bản khác thì chiếc dĩa này có thể được đặt làm ở Trung Quốc khoảng
triều Cảnh Hưng (1740-1786), tương ứng triền Kiền Long nhà Thanh
(1736-1795). Giai đoạn này thì mỹ thuật, kỷ thuật đồ sứ Trung Quốc mới
đạt tới đỉnh cao tuyệt vời như thế. Càng ngắm nhìn chiếc dĩa càng cảm
thông với cổ nhân. Câu chuyện trong sử sách ghi chép thật sự diễn ra hay
chỉ là giai thoại văn chương ngoại giao? Dĩa sứ được đặt làm khoảng
thời “Cảnh Hưng” nhưng tại sao ghi “Hồng Đức Niên Chế”? những việc đó
chắc chắn do dụng ý của người xưa mới nói lên niềm tự hào của văn hoá và
tinh thần cương quyết giữ vững nền độc lập, tự chủ của dân tộc đối với
tư tưởng bá quyền của phương Bắc.
Gần
300 năm qua với bao biến động lịch sử kinh hoàng, cảnh nội chiến ngoại
xâm, khiến cho kinh thành Thăng Long mấy độ đã nát vàng phai. Thế mà
chiếc dĩa sứ vẫn còn nguyên lành như viên ngọc bích không tì vết, để hậu
thế có dịp mà chiêm ngưỡng cảnh “Thuận sư thi cú, Tống sứ kinh dị” (7)
giữa lòng thủ đô Hà Nội ngày nay.
T.D.S
Theo lieuquanhue
CHÚ THÍCH:
1.
Dương Vân Nga: Nguyên là hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng mẹ của Lê Vương
Đình Toàn. Sau về với vua Lê Đại Hành được lập làm Đại Thắng minh hoàng
đế.
2. Hiện chưa khảo cứu được chính xác.
3. Sách giang tức con sông ở nam Sách là một khúc sông Thương ở hạ lưu. Chức quan coi bến đò gọi là Tân lại hay Giang lệnh.
4. Mật Thể, Việt Nam Phật Giáo sử Lược (Hà Nội, Tân Việt, 1944) tr.133.
5. Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Thiền Uyển Tập Anh (TP. HCM: VNCPGVN, 1999) tr.516.
6. Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Tập 2 (TP. HCM: VNCPGVN, 2001), tr.492.
7. Câu của lê Quý Đôn tán dương sư Pháp Thuận trong Kiến Văn Tiểu Lục 9 tờ 14a10 (Theo Lê Mạnh Thát-LSPGVN), tr.493.