Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Phật hoàng Trần Nhân Tông và những tư tưởng vẹn nguyên tính thời sự
09/12/2010 17:53 (GMT+7)


 Lễ kỷ niệm diễn ra trang trọng tại sân chùa Hoa Yên

Tại lễ tưởng niệm, đại diện Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tăng ni Phật tử, du khách thập phương đã cùng nhau ôn lại sự nghiệp vĩ đại của Trần Nhân Tông - vị Hoàng đế thứ 3 của nhà Trần, người Anh hùng của dân tộc qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, cũng là nhà văn hóa tiêu biểu của non sông đất nước. Vị vua - Phật này chính là hiện thân của ý chí vươn lên và sự thống nhất đất nước. Ông cũng là người đã để lại cho đời sau sự nghiệp hành đạo sáng chói, kết hợp hài hòa giữa vai trò của một nhà vua, một nhà tu hành để Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.

Trong hầu hết các cuốn chính sử được viết bởi các triều đại sau này đều nhấn mạnh, Đức vua Trần Nhân Tông chính là người đã kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, phát huy tính khế lý, khế cơ của đạo Phật để từ đó, xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị, đồng thời nỗ lực vun bồi giữ gìn Phật pháp xương minh, phát triển tồn tại lâu dài, hướng con người đến với những giá trị chân thiện mỹ, khuyến khích những việc làm lợi đạo, ích đời...

Tượng Trần Nhân Tông tại vườn hoa tháp Hoa Yên

Mục tiêu mà Vua Trần Nhân Tông mong ước và muốn đạt tới là làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn, lương thiện hơn. Không chỉ có thế, ông còn khéo léo vận dụng sức mạnh của tinh thần đoàn kết và kết nối nhân tâm, thông qua những triết lý, tư tưởng đạo đức, những điều gần gũi và bình dị của Phật giáo để thu phục xây dựng lòng người nhất tâm đồng thuận cùng hướng tới mục tiêu vì con người... Dù những giáo lý, những tư tưởng này của Vua Trần Nhân Tông đã ra đời hơn 700 năm, nhưng đến nay nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự, vẫn là những điều hoàn toàn thiết thực đối với một đất nước Việt Nam hiện đại và phát triển.

Hiện, tại chùa Vĩnh Nghiêm, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang đang lưu giữ cả một kho các bản ván in cổ, bên cạnh các bản khắc với nội dung khai tràng thuyết pháp, hệ thống các thư tịch cổ này còn lưu giữ nhiều bài kệ của Vua Trần Nhân Tông, đáng chú ý là bài “Cư Trần lạc đạo”, bài thơ là sự phá bỏ lối tu hành khổ hạnh, mở ra hướng tu ở tâm. Lối tu ấy lên non cũng được mà tu tại gia cũng tốt. Phật tới tận tâm người mới quý...

Việt Nam đang trên đà phát triển toàn diện, đây chính là điều kiện thuận lợi để cả xã hội có dịp nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát những bài học thành công trong quá khứ của cha ông, để từ đó kế thừa và phát huy những di sản tinh thần, tư tưởng về độc lập tự cường, giữ gìn bản sắc và chủ quyền quốc gia dân tộc dựa trên sự đồng lòng muôn người như một của mọi tầng lớp nhân dân. Có như thế, Việt Nam mới có thể tiến những bước dài, vững chắc trong công cuộc công nghiệp hóa đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ văn minh, phát triển và hội nhập với thế giới.

Đức vua-Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) tên húy là Trần Khâm, con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Lên ngôi năm 1278, Trần Nhân Tông là vị vua thứ 3 của nhà Trần, ở ngôi 15 năm và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Trong thời gian ở ngôi vua, ông đã tham gia lãnh đạo quân dân đánh thắng 2 lần quân xâm lược Nguyên Mông. Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành trên núi Yên Tử. Ông đã sáng lập ra Thiền phái Trúc lâm Yên Tử Việt Nam và được sử sách ca ngợi là một trong các vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Ông còn là một nhà ngoại giao, triết gia, thi nhân vĩ đại với nhiều tác phẩm để đời. Ông mất tại am Ngọa Vân - Đông Triều - Quảng Ninh ngày 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), thọ 51 tuổi.

Quỳnh Vân (Theo ANTĐ)

Các tin đã đăng:
Về đầu trang