
( ảnh được chụp tại quán cơm chay Khải Tường - Hà Nội, do Phật tử Nhài cung cấp cho BBT chuabuuminh.vn)
Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn, Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng
minh GHPGVN, Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự
GHPGVN tỉnh Bình Định. Ủy viên Ủy Ban MTTQVN tỉnh Bình Định,
Viện chủ Tổ đình Thiên Đức, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định.
Hòa Thượng thế danh : Hồ Thanh
Tùng, sinh năm 1931 (Tân mùi). Hạ lạp 63 năm. Trụ thế 83 năm.
Tôi có cơ duyên gần gũi Hòa Thượng
trong nhiều giai đoạn: Trước năm 1975 Hòa Thượng làm chánh đại diện Phật giáo tỉnh
Pleiku, Kon Tum và Quảng Ngãi. Thời gian Ngài ở Chùa Tỉnh hội Phật giáo Pleiku (chùa Bửu Thắng) tôi cũng có ở chung với
Ngài, Ngài ít khi có mặt ở chùa Bửu Thắng, bởi phật sự đa đoan, Ngài đi như
chim bay bốn phương trời, thoạt đến thoạt đi. Sáng Pleiku, trưa Kon Tum, tối Quảng
Ngãi....Uy đức của Ngài tăng chúng kính nể nép phục không dám gần, riêng tôi
thì Ngài rất thương, thường xoa đầu và cười hiền. Thuở còn làm điệu tôi luôn nhớ
đến Ngài bởi chút kỷ niệm được xoa đầu và nụ cười hiền dành cho mình.
Sau một thời gian tôi không ở
chùa Bửu Thắng Pleiku nữa, Sư Phụ Từ Hương gởi đi học Nha Trang, Phan Thiết, mỗi
nơi tích cóp cho mình một chút kiến thức thế gian, một chút kiến thức phật học.
Phần Ngài, Ngài vẫn luôn giong ruỗi hoằng hóa Phật pháp theo cách riêng của
minh. Với Ngài hình như không có kẻ thù, ai cũng là bạn, giúp được thì giúp
không phân biệt bên này bên kia, rất nhiều người đã thoát chết đoàn tụ với gia
đình nhờ sự chở che bảo bọc của Ngài.
Trong chiến tranh vệ quốc,
giành lại nền độc lập tự do cho dân tộc, hai miền Nam Bắc Việt Nam đã có rất
nhiều trường hợp con ở Nam cha ở Bắc, anh ở Bắc em ở Nam, vợ ở Nam chồng ở Bắc với
hai chính thể khác nhau. Với cách làm đạo của Ngài, Ngài đã thân cận chính quyền
trước 1975, chính nhờ sự thân cận đó mà Ngài đã giúp cho nhiều người thoát chết
vì tội yêu nước, giải phóng dân tộc, trong đó có anh Ba Sơn.
Bởi chính điều đó cho nên sau
1975 Ngài cũng giống như Tô Đông Pha bị
biếm trích nơi núi rừng hoang vắng. Thời gian này những người mang ơn Ngài cũng
ít ai đến thăm viếng, chỉ còn có mẹ già luôn nhớ đến con tìm thăm chia sẻ đắng
cay ngọt bùi. Ngày mẹ Ngài mất tôi có về Bình Định thăm và phúng viếng câu liễng
với bài thơ ngắn:
Chiều
nay mây trắng vương vương tóc,
Nhớ
đến mẹ già quá lao lung.
Nghĩ
đến tình đời nên con khóc,
Nguyện mẹ tiêu dao chốn vô cùng.
Quan hệ với bốn phương trời,
giúp đỡ rất nhiều người thoát án chết, nhưng đến khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn
cô độc, chỉ còn có mẹ.
Trong thời gian biếm trích Ngài
vẫn luôn cười tự tại, vẫn giảng đạo vẫn làm lễ Quy y cho những người bạn hữu
duyên cùng cảnh ngộ. Hết thời gian biếm trích Ngài về lại chùa Pháp Hải Quy
Nhơn hoằng đạo. Thời gian Ngài ở chùa Pháp Hải tôi có về thăm một lần, chứng kiến
cảnh Ngài kéo xe cải tiến chở các vật dụng sinh hoạt chùa in tựa một lão nông mà
rơi nước mắt. Đời Ngài thăng trầm in hệt tướng công Nguyễn Công Trứ, khi thì
làm Thượng thư, khi thì làm lính trơn.
Nơi tâm Ngài không có bỉ thử, bên
này bên kia. Đối tượng Ngài phụng sự giúp đỡ là chúng sinh, Tổ quốc Ngài phụng
sự là Việt Nam, và cũng giống như Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ từng nói: " Những gì chúng tôi làm cho Phật giáo cũng có nghĩa là
làm cho dân tộc, những gì chúng tôi làm
cho dân tộc cũng có nghĩa là làm cho Phật giáo".
Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định thành lập, với tâm nguyện phụng sự đạo pháp dân tộc Ngài được
cung thỉnh chức vụ Trưởng ban trị sự hai nhiệm kỳ, Ủy viên Thường trực Hội đồng
Chứng minh GHPGVN, Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN.....
Thời gian này Ngài là Viện chủ Tổ đình Thiên Đức xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Tuy là Viện chủ, Ngài để lại Tổ đình cho đệ tử chăm sóc, tiếp tục vân du hoằng
hóa bốn phương, khắp các tỉnh thành nơi nào cũng có dấu chân Ngài để lại: Huế, Sài gòn, Hà Nội, Khánh Hòa, Gia Lai, Kon Tum,
Đăk Nông, Đăk Lăk, Phú Yên, Ninh Bình.... Hoa Kỳ, Úc, Myanmar.... Đến nơi nào Ngài
cũng cứ nói chuyện đời xưa, chuyện đời nay, chuyện hài thấm đẫm thiền vị, cười
ra nước mắt, và cuối cùng vẫn khuyên mọi người Quy y Tam Bảo. Trong
thời gian đi hoằng hóa, nơi nào có đàn tràng kỳ siêu Liệt Sĩ, đồng bào tử nạn
là Ngài luôn có mặt chứng minh. Thương anh linh những người trai trẻ hy sinh
thân mình cho nền độc lập dân tộc, Ngài chú nguyện khai thị với tất cả tấm lòng
bi mẫn nhất. Vẫn luôn nhắc anh linh các
liệt sĩ hãy buông bỏ hình hài đừng cố chấp bám víu những vật ngoài thân, mà
phát tâm Quy Y Tam Bảo để sớm siêu thoát vãng sinh về cảnh giới an lành.
Những lần được may mắn gần gũi Hòa Thượng tôi đã ghi nhớ rất nhiều về những
câu chuyện kể của Ngài, chuyện đời chuyện đạo, chuyện u mặc nghe xong cứ tủm tỉm
mà cười. Nhất là những chuyện, những kỷ niệm về
các vị cao tăng cùng thời với Ngài: Như Hòa Thượng Trí Quang, Hòa Thượng
Thiện Siêu, Hòa Thượng Đức Nghiệp, Hòa Thượng Thiện Bình, Hòa Thượng Tâm Giác,
Hòa Thượng Thanh Long ....
“Vài mươi năm trước thì ta chưa có,
Vài mươi năm sau có cũng hoàn không,
Cuộc đời có có không không,
Chỉ còn đọng lại tấm lòng quê hương”.
Với Hòa thượng: Quê hương và Đạo pháp là trên hết. Với Quê hương
không nơi nào trên trái đất mà gần gũi thân thương như Tổ quốc Việt Nam, do vậy
tuy có đủ điều kiện để định cư ở nước ngoài Hòa thượng vẫn không đi. Với Đạo
pháp mọi chức danh cũng chỉ là phương tiện để thuận duyên hành đạo. Khi thì làm
Thư ký Phật
giáo cứu quốc Liên khu 5. Khi thì làm Chánh đại diện Phật giáo các tỉnh Pleiku,
Kon Tum, Quảng Ngãi. Khi thì Trưởng ban trị sự PG tỉnh Bình Định - thành viên HĐCM
Phật giáo Việt Nam. Ngài cũng thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn và tâm đắc lời
nhạc:" Nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp". Quan trọng là biết
nhìn, tất cả quyền chức thế gian hay trong đạo cũng chỉ là phương tiện để đạt
mục đích là phụng sự, phụng sự cho đời cho đạo. Nắm giữ cũng tự tại và buông ra cũng tự tại, cũng mỉm cười được như nụ cười của Ngài. Ngài có nụ cười rất đẹp
và hỷ xả. Chúng ta hãy nhìn chân dung Ngài với nụ cười trầm lặng và luôn thường
trực trên môi, và có phải đây là chân dung cao tăng Phật giáo Việt Nam trong
thời hiện đại ?
Năm ngoái đi dự một Đại lễ tại Hà Nội tôi ở cùng phòng với Hòa Thượng, tối
hôm đó Thầy trò uống nước trà trò chuyện có cả Phật tử Vinh, Phật tử Nhài, Phật
tử Vinh rất có khả năng văn học nói với tôi: " Trí nhớ của Hòa Thượng như một bộ sử thi, con với thầy sắp xếp
thời gian về ở bên cạnh Hòa Thượng để Hòa Thượng kể và ghi chép lại những câu
chuyện về quá khứ, hiện tại, của Phật giáo trước và sau năm 1975, mà trong
chính sử không thể nào ghi chép hết được, và nếu được sẽ viết thay hồi ký cho
Hòa Thượng". Cứ nghĩ rẳng Hòa Thượng còn khỏe còn sống lâu, từ từ rồi
thực hiện. Nhưng rồi vô thường đến, Ngài mỉm cười ra đi, ra đi mang theo tất cả
biên niên sử của thời đại. Tiếc thay cho Phật giáo Việt Nam mất đi một Tòng lâm
thạch trụ, Tổ quốc Việt Nam mất đi một công dân suốt đời hy sinh vì dân tộc. Với
tấm gương nghị lực vô biên cả đời không chùng bước trước nguy nan thử thách, với
cách tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên của Ngài trong cách hành đạo, chúng
con nguyện nối bước học hỏi, đi theo hạnh nguyện của Ngài.
Với tất cả tấm lòng kính yêu thương tiếc, con kính viếng Giác linh Hòa
Thượng một bài thơ nhỏ:
Cứ vậy sống cứ vậy thương trầm tĩnh.
Thản nhiên cười nhìn cuộc thế hợp tan.
Lặng lẽ
thở với thời gian Không Tính.
Đóa hoa
sen bừng nở gợi mơ màng.
Cầu nguyện Giác linh Hòa Thượng Cao đăng Phật Quốc, hội nhập Ta Bà hóa độ
chúng sinh.
--------------------
Đệ tử: Thích Giác Tâm
Chùa Bửu Minh, Gia Lai.
Ngày 12 tháng 03 năm Quý Tỵ ( 2013)