Trong
số 30 thân hào nhân sĩ, có hai nhân vật khá quan trọng, đó là ông
Lap-Chee Tsui, Viện trưởng (Vice Chancellor and President) của Trường
Đại học Hong Kong và thầy Jin Ying (Tịnh Nhân), Giám đốc Trung tâm Phật học Hong Kong.

Được biết ông Lap-Chee Tsui cũng là một nhà bác học. Trước khi là
viện trưởng của Trường Đại học Hong Kong, ông Tsui đã từng là Tổng Giám đốc
của Chương trình Di truyền học và Sinh vật học (Genetics and Genomic
Biology Program of the Research Institute at the Hospital for Sick
Children in Toronto) tại Viện Nghiên Cứu của Bệnh viện Nhi đồng ở Toronto, Canada.



Thiền sư Nhất Hạnh đã đến nơi vào lúc 7 giờ tối và được thầy Tịnh
Nhân cùng ông Viện trưởng Lap-Chee Tsui tiếp đón nồng hậu tại một phòng
khách riêng trước khi bước vào buổi họp mặt với các thân hào nhân sĩ.
Trong khi đó thì ở ngoài phòng tiếp tân, các thầy cô Làng Mai chia sẻ và
làm quen với các thân hào nhân sĩ trong không khí thân thiện. Những đồ
ăn nhẹ và nước rau quả đã được chuẩn bị sẵn trong căn phòng này. Ông
Viện trưởng cho biết hôm qua ông đã lên mạng tìm tài liệu để hiểu thêm
về Thiền sư và đã được nghe pháp thoại của Thiền sư. Ông cười tươi và
nói rằng ông đã học được cách phát âm tên của Thiền sư rõ ràng hơn từ
mạng lưới internet. Rồi ông phát âm tên của Thiền sư với giọng điệu của
người Trung Hoa.


Ông Viện trưởng cũng cho biết cách đây hai hôm ông đã hướng dẫn một
phái đoàn Hồng quân Trung Quốc (Red Army) đến từ Đại lục vào thăm khu
triển lãm thư pháp thiền quán của Thiền sư Nhất Hạnh. Phái đoàn Hồng
quân gồm tổng cộng 60 người. Họ thưởng thức trong sự trầm lặng, cảm thấy
nhẹ nhàng khi ngắm những nét chữ đầy thiền vị của Thiền sư. Một phái
đoàn Hồng quân, đặc biệt đến từ Đại lục, đã dành thời gian và lòng kiên
nhẫn để vào thăm khu triển lãm thư pháp thiền quán không phải là một
chuyện thường xuyên xảy ra. Đó cũng cho thấy được sự thu hút của nghệ
thuật thư pháp thiền quán và tầm quan trọng của giáo pháp mà Thiền sư đã
cống hiến cho nhân loại.
Buổi họp mặt được bắt đầu vào lúc 7:30 tối. Ông Viện trưởng giới
thiệu sơ lược về Thiền sư. Khung cảnh được tổ chức trong không khí của
buổi thiền trà. Trong căn phòng không lớn lắm được đặt hai bàn dài và
một bàn ngắn: mỗi bàn dài có 15 người và một bàn ngắn ở phía trên dành
cho Thiền sư. Trên mỗi bàn đều có một ly trà nóng và một cái bánh ngọt
đặt sẵn trong chiếc khay nhỏ trang trí rất thanh nhã. Thiền sư mở lời
bằng cách mời quan khách thưởng thức trà nóng trong chánh niệm.
Tối nay Thiền sư đã gửi đến một thông điệp rất cụ thể, ngắn gọn và rõ
ràng đến các thân hào nhân sĩ. “Chúng ta sống trong giai đoạn mà hoàn
cảnh rất khó khăn nếu không có đường hướng tâm linh. Hiện tại thế giới
có rất nhiều bạo động, khổ đau, hận thù và hờn giận. Có rất nhiều người
tự tử và có rất nhiều gia đình bị đổ nát. Nếu chúng ta không biết trở về
với cuộc sống tâm linh thì rất khó cho chúng ta đối diện và vượt qua
những khó khăn và chướng ngại trong cuộc sống hàng ngày”.
Ở Pháp cũng như ở Mỹ hay Nhật Bản, hàng ngày có biết bao nhiêu người
trẻ tự tử bởi vì họ không biết chăm sóc cảm xúc của mình. Thiền sư cho
biết số thống kê người tự tử ở Pháp cũng như ở Nhật Bản hàng năm khoảng
35,000 và con số này có thể cao hơn ở những nơi khác như là Anh quốc hay
Mỹ quốc. Có biết bao nhiêu gia đình, con cái, anh chị em có những khổ
đau mà không thể truyền thông được với nhau. Có những bức xúc đã tạo ra
sự đau nhức trong thân và sự căng thẳng trong tâm mà con người phải đối
diện.
Tổng thống Pháp muốn đưa đạo đức học (luân lý) trở lại trường học. Có
nhiều giáo chức không biết mình sẽ dạy gì trong những giờ ấy. Theo
Thiền sư, giờ đạo đức học là cơ hội trao truyền cho học sinh những
phương pháp thực tập buông thư, xử lý những cảm giác và cảm xúc khổ đau,
lắng nghe khổ đau của chính mình và của người khác, tái lập truyền
thông với kẻ khác và thực hiện hòa giải.
Thiền sư nói rằng trong đạo Phật có những phương pháp thực tập chánh
niệm rất thực tiễn giúp được con người nhận diện những khổ đau và căng
thẳng trong thân và tâm để có thể buông bỏ, ôm ấp và trị liệu. Lại có
những phương pháp nhận diện các điều kiện hạnh phúc mà mình đang có và
thực tập như thế nào để chế tác hỷ và lạc, và những phép thực tập như ái
ngữ và lắng nghe để tái lập truyền thông, đưa tới hòa giải.
Thiền sư chỉ điểm cho chúng ta thấy làm thế nào để có thể đưa nền
giáo dục tâm linh vào hệ thống giáo dục. Các thầy cô giáo cần phải ý
thức được những vấn đề khó khăn của người trẻ hiện nay và tạo cho họ có
được cơ hội và một môi trường lành mạnh để họ có thể thực tập chánh niệm
và áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.
Thiền sư kết thúc bằng cách đề nghị ngành giáo dục nên cung cấp những
lớp học thực tập chánh niệm căn bản vào lớp học và các cơ sở giáo dục.
Thầy giáo, cô giáo phải có khả năng thực tập mới có thể giảng dạy và
trao truyền. Thiền sư nhấn mạnh rằng chúng ta không cần phải là Phật tử
mới thực tập chánh niệm. Sự thực tập chánh niệm vượt thoát mọi tôn giáo,
đó là cách sống và ai ai cũng cảm thấy thoải mái để thực tập. Chúng ta
có thể cống hiến những yếu tố không phải là Phật giáo cho mọi người.
Chúng ta nên làm mới lại đạo Bụt để có thể đáp ứng lại những khổ đau và
nhu cầu cần thiết trong xã hội ngày nay cho thế hệ con em.
Sau khi Thiền sư kết thúc buổi chia sẻ, Ban tổ chức xin phép Thiền sư cho các thân hào nhân sĩ được đặt câu hỏi với Ngài:
Thân hào nhân sĩ: Con là một nhà bác học và con cảm thấy
mình rất may mắn được sống trong môi trường thích hợp, gặp được đúng
người và đúng lúc.Con có tiền và con có thể giúp được những người khác.
Trong khi ngồi đây một cách rất thoải mái,con cũng đồng thời nghĩ tới
những người thiếu kém may mắn hơn mình, đang thiếu thốn và sống không có
hạnh phúc. Ví dụ, con là một người kém may mắn, đối khác, không có tiền
thì làm sao con có thể giúp được người khác sống hạnh phúc?
Thiền sư Nhất Hạnh : Dĩ nhiên là mình cần phải có phương
tiện tối thiểu để sống, như có mái nhà để che mưa gió, có chén cơm để ăn
mỗi ngày. Có những người trong chúng ta, như công tác viên xã hội muốn
giúp những người kém may mắn này. Thật ra nếu mình không có sự bình an
trong lòng thì mình không thể nào đi xa được - mình sẽ sớm bị kiệt sức.
Trước tiên, mình cần có sự thực tập. Sự thực tập giúp nuôi dưỡng thân
tâm mình và một khi mình được nuôi dưỡng, vững chãi và có bình an thì
mình có thể đi xa hơn trên con đường phụng sự. Ví dụ như thân thể của
mình, khi mình tiêm một mũi thuốc vào một phần nào đó của cơ thể thì tất
cả các phần khác của cơ thể cũng được lợi lạc theo. Cũng như nếu mình
làm điều thiện trong một phần nào của nhân loại thì việc thiện đó sẽ lan
tràn ra những phần khác của nhân loại. Chúng tôi đã từng hướng dẫn
những khóa tu cho những nhà doanh nhân và giúp được cho họ thực tập giảm
bớt khổ đau. Chúng tôi chia sẻ những kinh nghiệm cũng như tuệ giác của
chúng tôi với họ; mình nên đầu tư nhiều vào giá trị đời sống của nhân
loại hơn là lợi nhuận. Đó không chỉ giúp được cho họ mà còn giúp luôn cả
cho xã hội. Khi chúng tôi hướng dẫn khóa tu cho giới cảnh sát thì không
những người cảnh sát được lợi lạc mà đồng thời những người khác trong
xã hội cũng được lợi lạc theo. Dĩ nhiên trong chúng ta ai cũng muốn có
công bằng xã hội, muốn giúp người, nhưng có rất nhiều cách để giúp đỡ và
đường hướng tâm linh là một trong những cách cụ thể có thể giúp đỡ.
Thân hào nhân sĩ: Thế giới hiện đang có rất nhiều tôn giáo.
Chúng con rất muốn đến gần với những tôn giáo khác, nhưng họ không muốn
đến gần với chúng con. Thiền sư đã nói về chánh niệm và từ bi, vậy làm
thế nào để chúng con có thể dùng chánh niệm và lòng từ bi đến gần với
họ?
Thiền sư Nhất Hạnh: Trong khóa tu của chúng tôi, chúng tôi
không có nói về chánh niệm và từ bi nhưng chúng tôi thực hành chánh niệm
và từ bi. Chúng tôi học để thực hành. Đa số những thiền sinh tham dự
khóa tu không phải là Phật tử. Phần nhiều là người Tây phương. Nhưng họ
rất thoải mái về pháp môn thực tập chánh niệm, bởi vì họ tiếp xúc được
với những gì rất là ‘con người’, rất là phổ biến. Khi chúng tôi truyền 5
giới, chúng tôi có niềm tin là nếu bạn thực tập theo 5 giới thì bạn sẽ
giảm bớt được khổ đau và bạn có thể giúp cho mình và cho người khác có
được hạnh phúc. Có rất nhiều người đã từng thọ 5 giới và họ không phải
là Phật tử, trong đó có những ông cha trong đạo Cơ Đốc và Tin Lành, bởi
vì họ nghĩ rằng 5 giới này rất phổ biến. Chúng tôi luôn luôn kêu gọi họ
nên giữ truyền thống của họ. Chúng tôi biết được nếu một người mất gốc
rễ thì họ sẽ không có hạnh phúc. Chúng tôi khuyên họ nên giữ truyền
thống của họ và họ có thể dùng phương pháp thực tập của đạo Bụt để giúp
họ ôm ấp và chuyển hóa những khổ đau của họ. Khi họ tiếp xúc được với
phương pháp thực tập của đạo Bụt, thì nó giúp họ tiếp xúc được với
truyền thống của họ một cách sâu sắc hơn. Chúng tôi không nghĩ rằng chỉ
có đạo Bụt là tôn giáo tìm ra được chân lý. Chúng tôi cố gắng học hỏi và
tìm hiểu thêm về những truyền thống tôn giáo khác. Khi mình có cơ hội
quan sát về truyền thống khác, nó giúp mình nhìn lại và nhìn sâu vào
truyền thống của chính mình. Và mình sẽ khám phá ra được những điều rất
sâu sắc mà mình không biết khi xưa. Điều này rất đúng với tất cả những
truyền thống khác. Cuộc đối thoại là những gì rất cần thiết để kêu gọi
cho hòa bình. Thế giới có nhiều chiến tranh và có những chiến tranh liên
quan đến chiến tranh tôn giáo. Làm thế nào để sự hiểu biết lẫn nhau có
thể làm được. Đối với đạo Bụt điều này không khó lắm, bởi vì đạo Bụt có
sự khoan dung rất cao và không bị kẹt vào những kiến chấp. Không bị kẹt
vào những kiến chấp là một điều rất chủ yếu và quan trọng. Nếu mình có
kiến chấp và nghĩ rằng mình đã tìm ra được chân lý thì mình không thể
nào có cơ hội bước cao hơn. Vậy thì mình nên sẵn sàng học buông bỏ cái
kiến chấp của mình. Đó là những gì rất khoa học mà có thể giúp mình đến
gần với chân lý hơn. Chúng tôi nghĩ mình có thể đề xướng những cuộc đối
thoại giữa những tôn giáo khác nhau và chúng ta có thể cùng nhau làm
việc để xây dựng hòa bình.
Kết thúc buổi họp mặt, ông Viện trưởng đại diện cho Trường Đại học
Hong Kong tặng quà lưu niệm cho Thiền sư. Ông Viện trưởng nói rằng,
“Thường thường tôi đi dự buổi họp mặt đều được dùng ‘cocktail’, nhưng
tối nay tôi chỉ có uống trà mà cảm thấy rất no”. Câu nói đó có thể cho
thấy ông Viện trưởng đã được mưa pháp cảm hóa. Buổi họp mặt này là lần
đầu tiên mà ông Viện trưởng có dịp tiếp xúc với Thiền sư Nhất Hạnh và
pháp môn Làng Mai một cách gần gũi và sâu sắc.