NHẬN
ĐỊNH
Hôn
nhân khác tôn giáo thường dùng để chỉ về một hôn nhân
mà hai người khác niềm tin tôn giáo kết hôn với nhau, thí
dụ như Công Giáo và Phật Giáo hay Công Giáo và Hồi Giáo.
Công Giáo và Tin Lành không thể coi là khác tôn giáo, vì thế
không nằm trong phạm vi bài nhận định này.
Ngày
xưa, một số tôn giáo đã khắt khe ngăn cấm các tín đồ
mình kết hôn với người “ngoài” tôn giáo. Sự cấm đoán
như vậy dựa trên một kinh nghiệm, đó là sự khác biệt
niềm tin tôn giáo, tạo nên những trở ngại có ảnh hưởng
không tốt đến hạnh phúc lâu dài của hai người yêu nhau.
Có những người Kitô Giáo lấy vợ hay chồng là Phật Giáo
hay ngược lại, sau nhiều năm chung sống, đều cho rằng hôn
nhân hỗn hợp là một sai lầm đối với họ do vấn đề
họ gặp phải vì những bất đồng tôn giáo nhất là về
việc giáo dục con cái trước tuổi thành niên, họ ví cuộc
hôn nhân khác đạo giống như chiếc xe đẩy chỉ có một
bánh chạy được.
[1]
Mới
đầu khi yêu nhau họ chỉ muốn sống chung với nhau mà không
nghĩ tới hướng giải quyết khi hai người có con. Lời giao
kết "đạo ai nấy giữ" thuở ban đầu ấy là chỉ dành cho
vợ chồng, nhưng con của họ thì sao? Theo cha hay theo mẹ? Ai
mến đạo thì cũng muốn con mình theo đạo truyền thống của
ông bà cha mẹ mình, phải tranh thủ hướng dẫn cho con ngay
từ khi còn bé nhỏ. Nếu cha mẹ thoáng hơn, cởi mở hơn thì
khi tới tuổi trưởng thành cho con được tự quyền lựa chọn
tôn giáo, quyết định số phận của cuộc đời, nhưng nếu
đứa con, mặc dù đã đủ lớn khôn để nhận thức nên theo
đạo nào, lại ngặt nỗi sợ mất lòng cha hoặc mẹ thì càng
rắc rối hơn. Thật là nan giải..
Đối
với người Phật Giáo ngày nay, phần đông chủ trương đạo
ai nấy giữ, cố gắng hiểu biết và tôn trọng tôn giáo của
người phối ngẫu và không đem hôn nhân làm một áp lực
bắt người phối ngẫu đổi đạo. Sự cưỡng bách hay khuyến
dụ bỏ đạo không thể thấm sâu vào lòng người, mà lại
phát sinh ẩn ức. Với con cái, không bắt ép chúng đi chùa
hay đi nhà thờ, không ép buộc chúng phải quy y hay rửa tội
mà đợi chúng đến tuổi trưởng thành, cho chúng tự quyền
quyết định nên theo tôn giáo nào.
Đối
với người Công Giáo, trước thời Công Đồng Vatican II
trong thập niên 1960, nếu một người Công Giáo quyết định
lấy một người không-Công Giáo, Giáo Hội mạnh mẽ yêu cầu
họ “trở lại đạo” trước khi làm đám cưới.
Nếu người ấy không chịu “trở lại đạo”,
thì họ được yêu cầu phải đồng ý nuôi nấng con cái trong
đức tin Công Giáo.
Ngày
nay, trên nguyên tắc, Giáo Hội Công Giáo không bắt buộc sự
“trở lại đạo” của người không-Công Giáo,
cũng như người không-Công Giáo không bị bắt buộc phải
đóng vai trò tích cực trong việc nuôi dưỡng và giáo dục
con cái trong đức tin Công Giáo.
Tuy
nhiên, thực tế cho biết, “theo giáo
luật Công Giáo, người Công Giáo kết hôn với người chưa
rửa tội (không-Công Giáo) thì hôn nhân ấy không thành
sự hay bị rối. Theo khoản 1086 trong Bộ giáo luật hiện
hành của giáo hội Công Giáo, nếu không muốn bị rối trong
tình trạng ấy thì phải xin phép chuẩn dị giáo (dispensation
for disparity of cult) của Đức Giám Mục địa phận. Để được
phép chuẩn cho hôn nhân dị giáo hầu ‘đạo ai nấy
giữ’, khoản 1126 trong giáo luật cũng quy định phải
có 3 điều kiện : (1) Bên Công Giáo hứa phải giữ trọn đức
tin của mình, đồng thời cố gắng rửa tội và giáo
dục con cái theo đức tin công giáo. (2) Thông tri cho
bên không công giáo biết những điều mình hứa và bị lương
tâm ràng buộc. (3) Cả hai phải được học hỏi về mục
đích và đặc tính căn bản của hôn nhân theo giáo lý công
giáo”.[2] [3]
Thật
ra, việc hôn nhân với người khác tôn giáo theo cách nhìn
của những người Công Giáo cũng có những điểm tích cực
nhất là trên phương diện truyền giáo, “nếu
khi có tình yêu với người khác đạo, ta nên dùng chính cơ
hội này để giúp cho người mình yêu tin và sống theo Chúa
Kitô, gia nhập Giáo Hội Ngài…”[3]
Đó là chưa kể đến việc truyền giáo cho con cái khi chúng
nó ra đời.
Xét
hai quan niệm hay hai đường hướng giải quyết vấn đề kết
hôn với người khác tôn giáo, giữa Phật Giáo và Công Giáo
vẫn còn có nhiều điểm khác biệt, khó có thể dung hoà hay
hiệp thông được. Bên Công Giáo vẫn yêu cầu người
Công Giáo muốn kết hôn với người ngoài đạo phải có “phép
chuẩn” của Toà Giám Mục
sở tại mới cho kết hôn và phải “cố
gắng rửa tội và giáo dục con cái theo đức tin Công Giáo”.
Bên Phật Giáo, ngược lại, không muốn con cái phải rửa
tội mà không biết một chút gì về tôn giáo mình theo…và
cũng không bắt buộc chúng phải quy y vì chúng còn quá nhỏ,
không biết gì về Phật, Pháp, Tăng.
Vì
thế, các bạn trẻ đang là Phật tử, đang là Kitô hữu sắp
yêu, đang yêu và sẽ tính đến chuyện kết hôn với nhau hãy
nghiên cứu thật kỹ quan niệm của cả hai bên về vấn đề
này. Nếu có đủ sáng suốt, đủ để thấy là mình
không thể sống với một vài khác biệt nào đó của người
khác, thì ngay tự bây giờ (trước khi kết hôn) thật quan
trọng để thú nhận và bàn thảo kỹ lưỡng với nhau là
có nên kết hôn hay không. Nếu cần phải lựa chọn thì
cách hay nhất (nếu có khả năng) vẫn là làm sao cả hai người
và con cái ra đời về sau được sống trong tinh thần hiểu
biết và quý trọng cả hai tín ngưỡng. Phải hiểu đức
tin Công Giáo cũng như đức tin Phật Giáo đều là những (không
phải một) “viên ngọc vô giá” nên cần được chia sẻ
cùng nhau giữa vợ chồng và con cái. Nếu như cảm thấy không
đủ khả năng cam kết và cùng nhau thực hiện việc sống
trong tinh thần hiểu biết và quý trọng tín ngưỡng của nhau
thì hãy cùng nhau vui vẻ chấp nhận chia tay từ bây giờ để
kết hôn với người cùng đạo, dù sao vẫn hay hơn và dễ
có hạnh phúc hơn.
BBT/TVHS