Tập quán chư Thánh giả


Tỳ-kheo Thanissaro – Nghiệp Đức dịch
05/01/2013 14:43 (GMT+7)
Số lượt xem: 182311
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Trong suốt lịch sử của mình, Phật giáo đã hành hoạt như một năng lực khai hóa. Ví dụ, những lời dạy về nghiệp, nguyên lý rằng tất cả những hành động có tác ý đều tạo nên kết qủa, đã truyền trao luân lý và lòng từ bi cho nhiều xã hội. Nhưng ở một tầm mức sâu hơn,

Phật giáo đã luôn đứng giữa đường biên của sự văn minh và chốn hoang sơ. Chính Đức Phật đã đạt giác ngộ ở trong rừng, thuyết giảng bài pháp đầu tiên ở trong rừng, và nhập diệt cũng ở trong rừng. Những phẩm chất của tâm mà Ngài cần có để tồn tại cho cả thân và tâm khi đi vào trong rừng với tay không, là chìa khóa để Ngài tìm ra Pháp (Dhamma). Chúng bao gồm sự kiên định, quyết tâm và nhiệt huyết; sự chân thật và thận trọng; sự vững chãi trong việc đối diện với cô độc; can đảm và khéo léo trong việc đối diện với những hiểm nguy ngoại tại; thương yêu và kính trọng những người và những loài sống khác ở trong rừng. Những phẩm chất này đã hình thành nên “văn hoá nguồn cội” của Pháp.

Theo định kỳ, khi Phật giáo được truyền bá và thích ứng với những xã hội khác nhau, một số hành giả thấy rằng thông điệp đầu tiên của Pháp đã trở nên phai loãng, vì vậy họ tìm về những nơi hoang vu để làm hồi sinh lại văn hóa nguồn cội của nó. Ngày nay nhiều truyền thống tu tập ở trong rừng vẫn còn tồn tại, đặc biệt là những quốc gia theo Phật giáo Theravāda như Tích Lan và Đông nam Á. Ở đó, những Tăng sĩ khất thực khổ hạnh tiếp tục du hành khắp những khu rừng nhiệt đới còn lại, để tìm kiếm sự giác khộ trong cùng điều kiện mà ở đó Đức Phật đã tìm kiếm giác ngộ cho Ngài. Trong những truyền thống tu tập ở trong rừng, truyền thống thu hút số lượng lớn nhất những đệ tử người phương Tây, và đang bắt đầu bắt rễ ở phương Tây, là truyền thống Kammatthana (Thiền định) trong rừng của Thái Lan.

Truyền thống Kammatthana do Ajahn Mun Bhuridatto thành lập vào những thập niên đầu của thế kỷ 20. Phương cách tu tập của Ajahn Mun là độc cư và khổ hạnh. Ông tuân giữ giới luật một cách trung thành, và cũng tuân theo nhiều pháp tu trong 13 pháp khổ hạnh (dhutanga), chẳng hạn như sống bằng thức ăn khất thực, mặc y được làm từ những dẻ rách bị vứt bỏ, sống ở trong rừng, ăn một ngày một bữa. Tìm kiếm những nơi chốn hẻo lánh ở trong những khu rừng của Lào và Thái Lan, ông tránh xa những trách nhiệm của đời sống tu sĩ định cư và dành hết thời gian trong ngày và đêm để thiền định. Bất chấp bản chất ẩn dật của mình, ông đã cuốn hút một lượng đệ tử đông đảo, những người mong muốn thử thách sự gian khổ của đời sống trong rừng để tu học với ông.

Ông cũng có người phỉ báng, những người cáo buộc ông không theo những tập quán của Phật giáo truyền thống Thái Lan. Ông thường phản ứng bằng việc nói rằng ông không quan tâm đến những tập quán của bất kỳ xã hội cụ thể nào – khi chúng, theo định nghĩa, là những tập quán của con người với tham, sân và si ở trong tâm. Ông quan tâm nhiều hơn vào việc tìm kiếm và đi theo văn hóa cội nguồn của Pháp, hay như những gì ông gọi là những tập quán của chư Thánh giả: những thực hành mà chúng giúp Đức Phật và đệ tử của Ngài đạt được giác ngộ. Cụm từ này - tập quán của chư Thánh giả - đến từ một sự kiện bất ngờ trong cuộc đời của Đức Phật: Không lâu sau khi giác ngộ, Đức Phật trở về quê hương của Ngài để giảng Pháp cho hoàng gia mà Ngài đã xa cách sáu năm trước. Sau khi trải qua buổi tối ở trong một khu rừng, Ngài đi khất thực vào tảng sáng ngày hôm sau. Phụ vương của Ngài khi biết được điều này đã lập tức tìm đến quở trách Ngài. Nhà vua nói, “Điều này đáng hổ thẹn. Chưa hề có người nào trong gia tộc của chúng ta đi xin ăn. Nó đi ngược lại những tập tục của gia đình chúng ta.”

Đức Phật trả lời, “Thưa phụ vương, con bây giờ không còn thuộc về giòng dõi của gia đình con nữa, mà thuồc về giòng dõi của những vị Thánh giả. Tập quán của họ là những tập quán mà con theo.”

Ajahn Mun hiến dâng nhiều năm trong cuộc đời của mình để kiếm tìm những những tập quán đó. Sinh vào năm 1870, con trai của một gia đình trồng lúa ở tỉnh Ubon miền Đông bắc, ông thọ giới Tỳ-kheo vào năm 1890 tại thủ phủ của tỉnh. Vào thời điểm ông thọ giới, có hai dạng Phật giáo chính ở Thái Lan. Dạng đầu tiên có thể được gọi là Phật giáo Phong tục – các tục lệ và nghi lễ được truyền thừa qua hàng thế kỷ từ vị thầy này đến vị thầy khác, với rất ít, nếu không muốn nói là không có, sự liên hệ đến kinh điển Pāli. Phần lớn những tục lệ này dạy các vị Tăng sống một đời sống tĩnh tại ở trong những ngôi chùa làng, phục vụ dân làng địa phương như những vị y sĩ hay những thầy pháp. Kỹ luật Tăng sĩ có chiều hướng lỏng lẻo. Đôi khi, các Tăng sĩ thực hiện sự hành hương mà họ gọi là “dhutanga” (khổ hạnh), điều không mấy tương đồng với những thực hành dhutanga cổ xưa. Ngoài ra, các vị Tăng và cư sĩ thực hành những loại thiền định mà nó chệch ra khỏi con đường thanh tịnh và trí tuệ được phác vẽ trong kinh điển Pāli. Những thực hành của họ, được gọi là vichaa aakhom, hay sự am hiểu bùa chú, bao gồm những sự khai tâm và những lời cầu khấn được sử dụng vì những mục đích pháp thuật, chẳng hạn như những bùa phép hộ trì và những quyền lực siêu nhiên. Họ hiếm khi đề cập đến Niết-bàn ngoại trừ viện dẫn nó như một thực thể cho những nghi lễ cúng kiếng.

Dạng Phật giáo thứ hai có mặt lúc bấy giờ là Phật giáo Cải cách, được đặt cơ sở trên kinh điển Pāli và do Thái tử Mongkut, người về sau trở thành vua Rama IV, khởi xướng vào những năm 1820. Thái tử Mongkut sống đời xuất gia 27 năm trước khi thừa kế ngai vàng. Sau khi nghiên cứu kinh điển trong suốt những năm đầu xuất gia, ông thấy nản chí bởi độ thực hành mà ông nhìn thấy xung quanh mình ở những ngôi chùa Thái. Vì thế ông thọ giới lại với những người Mon - một nhóm sắc tộc thiểu số sống giữa biên giới Thái-Miến Điện và cư ngụ ở một vài ngôi làng ở mạn sông bên kia Bangkok – và nghiên cứu Luật tạng cùng những thực hành dhutanga cổ xưa dưới sự hướng dẫn của một vị thầy người Mon. Về sau, anh trai của ông, Vua Rama III, than phiền rằng thật là ô nhục cho thành viên của hoàng gia tham gia vào tộc người thiểu số, và vì vậy xây một tu viện cho vị Tăng-Thái tử bên bờ sông mạn Bangkok. Ở đó, Mongkut thu hút được một số nhỏ, nhưng mạnh mẽ, những vị Tăng có cùng chí hướng và những người ủng hộ tại gia, và bằng cách này phong trào Dhammayut (có nghĩa đen là phù hợp với Pháp) được khai sinh.

Vào những năm đầu tiên, phong trào Dhammayut là một nhóm không chính thức nhiệt tâm vào việc nghiên cứu Pāli, tập trung vào Luật tạng, những thực hành dhutanga cổ xưa, một sự giải thích duy lý về Pháp, và phục hồi lại những cách thức thiền định được giảng dạy trong kinh điển Pāli, chẳng hạn như quán tưởng về Phật và chánh niệm về thân. Tuy nhiên, không có ai trong số các thành viên của phong trào có thể chứng minh rằng những lời dạy trong kinh điển Pāli là thật sự đưa đến giác ngộ. Chính Mongkut đoan chắc rằng con đường đưa đến Niết-bàn không còn mở ra nữa, nhưng ông thấy rằng ít ra có thể có được nhiều phước đức qua việc khôi phục lại những hình thức bên ngoài của những truyền thống Phật giáo sớm nhất. Trang trọng phát nguyện Bồ-tát, ông hồi hướng phước đức của nỗ lực bản thân cho qủa vị Phật tương lai. Nhiều những đệ tử của ông cũng phát nguyện, hy vọng trở thành những đệ tử của vị Phật tương lai đó.

Vào lúc hoàn tục và kế thừa ngôi báu sau khi anh của ông qua đời vào năm 1851, Rama IV có quyền thế để áp đặt những cải cách của ông vào phần còn lại của Tăng-già Thái, nhưng vấn đề là chọn hay không chọn. Thế rồi, ông im lặng tài trợ xây dựng những trung tâm Dhammayut mới ở thủ đô và các tỉnh, mà theo đó – vào thời Ajahn Mun - xuất hiện một số ngôi chùa Dhammayut ở Ubon.

Ajahn Mun thấy rằng Phật giáo Phong tục không đem lại được điều gì vì vậy ông tham gia vào Tăng đoàn Dhammayut, nhận một người đệ tử của Thái tử Mongkut làm thầy hướng dẫn. Không giống với nhiều người tham gia vào Tăng đoàn vào lúc đó, ông không thấy hứng thú với sự tiến bộ xã hội mà nó đi cùng với nghiên cứu học thuật và việc tấn phong bổ nhiệm Tăng sĩ. Thay vào đó, đời sống của ông trên đồng ruộng đã in hằn vào trong ông những nỗi khổ đau vốn cố hữu trong vòng luân hồi sanh tử, và mục đích duy nhất của ông là phải tìm ra một phương cách thoát khỏi luân hồi. Kết qủa, ông nhanh chóng rời bỏ môi trường học thuật ở ngôi chùa của vị thầy hướng dẫn và đến sống với một vị thầy có tên là Ajahn Sao Kantasilo (1861-1941) tại một thiền viện nhỏ ở ngoại ô thành phố.

Ajahn Sao hiếm có mặt ở Tăng đoàn Dhammayut bởi vì ông không có những hứng thú học thuật mà nhiệt tâm với việc thực hành thiền định. Ông huấn luyện Ajahn Mun theo những nguyên tắc khổ hạnh và những thực hành thiền định theo kinh điển, được đặt vào trong bối cảnh của những hiểm nguy và cô độc của rừng sâu. Ông không thể cam đoan rằng sự thực hành này sẽ đưa đến thánh qủa, nhưng ông tin rằng nó hướng theo một con đường đúng.

Sau khi du hành một vài năm với Ajahn Sao, Ajahn Mun bắt đầu mục đích của mình trong việc tìm kiếm một vị thầy có thể chỉ cho ông con đường chắc chắn đưa đến các thánh qủa. Việc tìm kiếm của ông mất hết gần hai thập kỷ và đối diện với vô số những khó khăn khi ông di chuyển khắp những khu rừng nhiệt đới ở Lào, miền Trung Thái Lan và Miến Điện, nhưng ông không hề tìm thấy vị thầy mà ông cần tìm. Dần dần ông nhận ra rằng ông phải noi theo tấm gương của Đức Phật và lấy chính những khu rừng hoang vu làm thầy của mình. Nếu một người muốn tìm cách vượt qua lão, bệnh và tử, vị ấy sẽ phải học những bài học về một môi trường nơi lão, bệnh và tử được quăng vào trong sự giải thoát rõ ràng. Đồng thời, những gặp gỡ của ông với những vị Tăng khác ở trong rừng giúp ông tin rằng nhận ra những bài học của nơi hoang vu cần đặt tâm trí nhiều hơn việc làm chủ các kỹ năng của việc tồn tại vật lý. Ông cũng phải phát triển trí tuệ sắc bén để không bị mê lạc và chệch hướng bế tắc ở trong thiền định. Vì vậy, với một ý thức mạnh mẽ về nhiệm vụ to lớn, ông quay trở lại một vùng đất có nhiều đồi núi ở miền Trung Thái Lan và độc cư trong một hang động.

Trong một thời gian dài tu tập độc cư trong rừng, Ajahn Mun nhận thấy rằng – trái ngược với niềm tin của Phật giáo Cải cách và Phong tục – con đường đưa đến Niết-bàn không bị đóng chặt. Pháp chân thật phải được tìm thấy không ở nơi những tập tục hay những bản kinh cổ xưa mà ở nơi tâm thức được tu luyện. Các bản kinh là những chỉ dẫn cho việc tu tập, không có gì khác hơn. Nhưng giới luật, thay vì chỉ là những tập tục ngoại tại, đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại của thân và tâm. Về những bản kinh, việc thực hành không phải là xác nhận chúng nói gì. Đọc và nghĩ về những bản kinh không thể đem lại một sự hiểu biết đầy đủ về những gì chúng muốn nói – và không được xem là thể hiện sự kính trọng thật sự đối với chúng. Kính trọng thật sự các bản kinh có nghĩa là xem chúng như một sự thách thức: đưa những lời dạy của kinh sách vào trong thực hành nghiêm túc để xem xét trong thực tế chúng có đúng hay không.

Thái độ này đối với Pháp tương đồng với những gì mà văn hóa cổ đại gọi là “tri thức chiến sĩ” – tri thức đến từ những kỹ năng phát triển trong những tình huống khó khăn – như là đối nghịch với “tri thức sao chép” mà một người ngồi trong yên ổn và thoải mãi có thể viết xuống bằng ngôn từ. Tất nhiên, những chiến sĩ cần sử dụng ngôn ngữ trong việc huấn luyện của họ, nhưng họ xem một bản văn có thẩm quyền chỉ khi những lời dạy của nó được sinh ra từ nơi thực hành. Chính kinh điển khuyến khích thái độ này khi nó dẫn việc Đức Phật thuyết giảng cho dì của Ngài: “Về những giáo pháp mà dì phải biết, ‘những giáo pháp đưa đến ly dục, không đưa đến dục; đưa đến tháo mở; không đưa đến trói buộc; đưa đến sự từ bỏ, không đưa đến sự tích lũy, đưa đến sự khiêm tốn, không đưa đến sự tự đại; đưa đến sự mãn nguyện, không đưa đến sự bất mãn; đưa đến sự độc cư; không đưa đến đến sự vướng mắc; đưa đến tinh tấn; không đưa đến giải đãi; đưa đến không phiền não; không đưa đến phiền não’: Dì có thể tin chắc rằng, ‘Đây là Pháp, đây là Luật, đây là sự hướng dẫn của bậc Thầy.”

Như vậy, thẩm quyền cuối cùng trong việc đánh giá một lời dạy không phải lời dạy đó có thể được tìm thấy trong một bản kinh hay không. Nó nằm nơi sự chân thành không thối chuyển trong việc đặt Pháp vào sự thực nghiệm và cẩn thận kiểm tra kết qủa.

Khi Ajahn Mun đạt đến điểm mà ở đó ông có thể bảo đảm rằng con đường đưa đến các thánh qủa vẫn còn mở ra, ông quay trở lại miền Đông bắc để trình báo với Ajahn Sao và sau đó tiếp tục du hành. Dần dần ông bắt đầu cuốn hút dân chúng đi theo. Những người gặp ông đều cảm kích cách hành xử và lời dạy của ông, điều không giống với những hành xử và lời dạy của các Tăng sĩ mà họ biết. Họ tin rằng ông là hiện thân của Pháp và Luật (Dhamma-Vinaya) trong những điều mà ông nói và làm. Là một vị thầy, ông dùng “phương pháp của một chiến sĩ” để huấn luyện những đệ tử của mình. Thay vì chỉ truyền đạt kiến thức bằng miệng, ông đặt họ vào trong mọi tình huống ở đó họ phải phát triển những phẩm chất của tâm và nghị lực cần phải có trong việc chiến đấu với những nhiễm ô của chính họ. Thay vì dạy một kỹ thuật thiền duy nhất, ông dạy họ đầy đủ các kỹ năng – như một đệ tử đã nói, “mọi thứ từ việc rửa ống nhổ trở đi” – và sau đó đưa họ vào trong những khu rừng.

Sau việc quay trở lại miền Đông bắc của Ajahn Mun, một dạng Phật giáo thứ ba mà nó xuất hiện ở Bangkok - Phật giáo Nhà nước - bắt đầu tác động đến cuộc đời của ông. Trong một nỗ lực đưa ra một mặt trận thống nhất đối mặt với những đe dọa đế quốc của Pháp và Anh, Rama V (1868-1910) muốn đưa quốc gia từ một hệ thống phong kiến lỏng lẻo đến một nhà nước trung ương tập quyền. Như là một phần của chương trình, Rama V và những anh em của mình – mà một trong số họ là một Tỳ-kheo – ban hành những cải cách tôn giáo để ngăn chặn sự xâm lấn của những hội truyền đạo Thiên chúa giáo. Sau khi nhận sự giáo dục từ các vị thầy người Anh, họ tạo nên một chương trình giảng dạy Tăng sĩ mới mà nó khiến Pháp và Luật tùy thuộc vào những khái niệm lý tính và thực dụng của thời Victoria. Ví dụ, bản Luật tạng mới là một sự thỏa hiệp giữa Phật giáo Phong tục và Phật giáo Cải cách, mục đích chống lại những tấn công của Thiên chúa giáo. Các vị Tăng được chỉ thị phải từ bỏ việc du hành của họ, cư ngụ trong những chùa viện được dựng sẵn và chấp nhận chương trình giảng dạy mới của nhà nước. Bởi vì các Tăng sĩ của Dhammayut được đào tạo tốt ở Thái Lan vào thời điểm bấy giờ - và có những quan hệ mật thiết với hoàng gia - họ được tuyển chọn để làm những công việc cho chính phủ ở những vùng miền xa xôi.

Vào năm 1928, một vị có uy tín của Dhammayut, người không đồng tình với việc thiền định và những du Tăng tu trong rừng, đã đảm trách những vấn đề tôn giáo ở miền Đông bắc. Nỗ lực khuất phục những người theo Ajahn Mun, vị này ra lệnh cho họ thiết lập tu viện và giúp phổ biến chương trình của nhà nước. Ajahn Mun và một số đệ tử của ông rời bỏ để đến miền Bắc, nơi họ vẫn còn tự do để du hành. Vào đầu những năm 1930, Ajahn Mun được cử làm trụ trì một ngôi chùa quan trọng ở thành phố Chieng Mai, nhưng ông đã trốn khỏi nơi đó trước bình minh của ngày hôm sau. Ông quay trở lại định cư ở miền Đông bắc chỉ vào những năm cuối của cuộc đời, sau khi các chức sắc địa phương đã gia thêm sự thuận tiện cho phương cách thực hành của ông. Ông vẫn duy trì nhiều trong số những thực hành dhutanga cho đến khi viên tịch vào năm 1949.

Mãi cho đến những năm thập niên 50 thế kỷ trước, phong trào do ông sáng lập mới có được sự chấp nhận ở Bangkok, và chỉ vào những năm thập niên 70 mới phổ biến khắp cả nước. Điều này trùng với sự mất niềm tin rộng khắp của các Tăng sĩ nhà nước, mà nhiều người trong họ chỉ là những quan chức khoác áo tu sĩ không hơn không kém. Kết qủa, các Tăng sĩ Kammatthana, trong mắt của nhiều Tăng sĩ và quần chúng, thể hiện sự vững chắc và xác thực về Pháp trong một thế giới hiện đại hóa nhanh chóng và điên cuồng.

Lịch sử Phật giáo đã chỉ ra rằng những truyền thống tu tập trong rừng trải qua một chu kỳ sống rất nhanh. Khi một điều đánh mất sức đẩy của nó, cái khác thường mọc lên nơi chỗ của nó. Nhưng với sự hủy diệt do bán buôn những khu rừng của Thái Lan trong vài thập kỷ qua, truyền thống Kammatthana có thể là truyền thống tu trong rừng lớn cuối cùng mà Thái Lan đã khai sinh. May mắn, chúng ta ở phương Tây đã nhận ra điều đó đúng lúc để tập hợp những bài học mà chúng sẽ hữu ích trong việc nuôi dưỡng những tập quán của các Thánh giả trên mảnh đất phương Tây, và thiết lập những truyền thống tu trong rừng đích thực của chúng ta.

Có lẽ điều quan trọng nhất trong những bài học đó liên quan đến vai trò rằng rừng giữ vị trí trong việc kiểm tra và điều chỉnh những khuynh hướng mà chúng phát triển trong số những Phật tử ở thị thành. Câu chuyện về truyền thống Kammatthana xóa tan quan niệm hời hợt rằng Phật giáo chỉ tồn tại bằng việc thích ứng với nền văn hóa bản địa. Sự tồn tại của Phật giáo và sự tồn tại của Pháp là hai điều khác nhau. Những người như Ajahn Mun là những người giữ cho Pháp tồn tại. Tất nhiên, người ta luôn tự do để tham gia vào những truyền thống Phật giáo theo bất cứ phương cách nào mà họ muốn, nhưng những người đã đem lại lợi ích nhất từ sự tham gia đó là những người, thay vì định dạng lại Phật giáo thích hợp với sở thích của họ, thì lại tương thích chính họ với những tập quán và truyền thống của chư vị Thánh giả.

Để tìm ra những tập quán này không dễ, khi đưa ra một sự đa dạng các truyền thống mà những Phật tử đã khai sinh ra qua hàng thế kỷ. Để kiểm tra chúng, mỗi người cần trở lại với sức mạnh của chính mình về sự chân thành không thối thất, sự chính trực, và sự nhận thức rõ. Và có lẽ sự thật này chính nó là một sự đo lường giá trị chân thật của Pháp. Chỉ người chính trực thật sự mới có thể thấu hiểu nó một cách đúng đắn. Như Ajahn Lee, một trong các đệ tử của Ajahn Mun, từng nói, “Nếu một người không chân thành với lời dạy của Đức Phật, lời dạy của Đức Phật sẽ không chân thành với người đó – và người đó sẽ không thể biết những gì là lời dạy chân thật của Đức Phật.

Nguồn: http://www.accesstoinsight.org


Âm lịch

Ảnh đẹp