Tuy nhiên, sự đóng góp của người trí thức cư sĩ ở ba miền còn có sự khác biệt. Miền Bắc, theo ông Lê Tâm Đắc, tác giả quyển “Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954)”, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012, thì “Nhưng
khác với các trí thức ở miền Trung và miền Nam, phần đông trí thức Tây
học ở miền Bắc không phải là những người tu tập Phật giáo, những gì họ
đề cập đều dừng ở mức độ nghiên cứu và bước đầu thâm nhập vào giáo lý
kinh tạng. Cho nên, họ không thể đóng vai trò người người hướng dẫn và
đào tạo Phật học thực sự giống như các trí thức cư sĩ ở miền Trung”.
Về đóng góp của người cư sĩ trí thức đối với hoạt động giáo dục Tăng Ni, tác giả Lê Tâm Đắc có nhận xét: “Trong
sự giáo dục Tăng Ni của các tổ chức Phật giáo ở miền Bắc, vai trò của
các cư sĩ đã thể hiện rõ, nhưng chỉ tập trung vào hai khía cạnh là bảo
trợ và tổ chức, chưa phải là những giảng sư có uy tín trong lĩnh vực
giảng giải giáo lý và tu tập như các cư sĩ ở Huế, mà điển hình là Tâm
Minh Lê Đình Thám và một số nhân vật khác”.
Như
vậy, những đóng góp của người trí thức cư sĩ vào công cuộc chấn hưng
Phật giáo ở miền Bắc còn một số hạn chế nếu so với miền Trung và miền
Nam. Nhưng cũng cần thấy rằng, dù có những hạn chế như thế, thì những
đóng góp của người trí thức cư sĩ miền Bắc vào sự nghiệp chấn hưng Phật
giáo vẫn là hết sức lớn lao, đạt được đến mức độ, mà có thể nói, cho đến
nay chưa thể nào khôi phục lại được những gì họ đã làm được gần 1 thế
kỷ trước.
Đó là, tập họp được những trí thức cư sĩ khoa bảng và nổi danh vào sự nghiệp Chấn hưng Phật giáo.
Sách “Biên niên sử Phật giáo miền Bắc (1920 - 1953)”,
tác giả Nguyễn Đại Đồng, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2008, có cho
chúng ta biết 27 trí thức cư sĩ là Hội viên sáng lập Hội Phật giáo Bắc
Kỳ. Đó là các ông:
1. Cung Đình Bính, Tham tá Thương chính hưu trí, Hà Nội;
2. Nguyễn Văn Canh, Phán sự Thương chính, Hà Nội;
3. Lê Dư, Phiên dịch viên phủ Toàn quyền, Hà Nội;
4. Trần Văn Giác, Phán sự Thương chính, Hà Nội;
5. Trần Văn Giáp, Tham tá trường Bác Cổ, Hà Nội;
6. Trần Trọng Kim, Đốc học, Hà Nội;
7. Bùi Kỷ, Phó bảng, giáo sư trường Cao đẳng, Hà Nội;
8. Phạm Huy Lục, Nghị trưởng, viện Dân biểu, Hà Nội;
9. Nguyễn Văn Minh, Phán sự Thương chính, Hà Nội;
10. Nguyễn Can Mộng, Phó bảng, Kiểm học, Hà Nội;
11. Nguyễn Đỗ Mục, Tú tài, Hà Nội;
12. Nguyễn Văn Ngọc, Đốc học, Hà Đông;
13. Nguyễn Quang Oánh, Kiểm học, Hà Nội;
14. Lê Văn Phúc, Chủ nhà in, hội viên Hội đồng Tư nghị, Hà Nội;
15. Trần Văn Phúc, Tham tá sở Toàn quyền, Hà Nội;
16. Nguyễn Đình Quế, Giáo học, Hà Nội;
17. Nguyễn Năng Quốc, Hiệp tá đại học sĩ, Tổng đốc trí sĩ, Thái Hà ấp;
18. Bùi Xuân Thành, Tài chủ, Hà Nội;
19. Nguyễn Quốc Thành, Tham tá Thương chính, Hà Nội;
20. Văn Quang Thùy, Phán sự Thương chính, Hà Nội;
21. Nguyễn Hữu Tiến, Tú Tài, Hà Nội;
22. Phan Đình Tiến, Lục sự hưu trí, Hà Nội;
23. Nguyễn Văn Tố, Tham tá trường Bắc Cổ, Hà Nội;
24. Lê Toại, Phán sự tòa Đốc lý, Hà Nội;
25. Dương Bá Trạc, Cử nhân, Hà Nội;
26. Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ báo An Nam – Nouveau, Hà Nội;
27. Phạm Mạnh Xứng, hiệu Đông Phố, Tú tài, Hà Nội;”
Những
vị trí cư sĩ này, tuy một số không nhỏ chỉ là những học giả Phật giáo,
chưa có trải nghiệm tu tập, nhưng đã có đóng góp quan trọng vào sự
nghiệp hoằng hóa.
Về
diễn giảng, những trí thức cư sĩ đã tổ chức những buổi diễn giảng
thường kỳ hàng tuần tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, và những buổi diễn giảng
đột xuất tại các buổi lễ Phật giáo quan trọng ở khắp miền Bắc. Các ông
Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Trọng Thuật… là
những diễn giả quen thuộc, thường xuyên xuất hiện trên các pháp tòa Phật
giáo miền Bắc nửa đầu thế kỷ XX.
Gần
100 năm sau, những thành tựu của công cuộc chấn hưng Phật giáo ở miền
Bắc, hiện nay, Phật giáo Việt Nam hầu như không còn đội ngũ những nhà
hoạt động Phật giáo là trí thức khoa bảng, lại càng không có được đội
ngũ giảng sư Phật học cũng là những trí thức khoa bảng. Trong những cuộc
hội thảo, hội nghị Phật giáo lớn, những nhà trí thức khoa bảng hiện nay
chỉ xuất hiện trong vai trò là những người bạn của Phật giáo, không
phải trong cương vị người cư sĩ Phật tử. Nếu có trường hợp cư sĩ trí
thức thuyết pháp thì cũng là trường hợp cá biệt, rất hiếm khi, và không
thể hiện được vai trò chung của người trí thức cư sĩ. Đây có thể nói là
một diễn tiến suy thoái của Phật giáo Việt Nam hiện đại, mà toàn thể
Tăng Ni Phật tử Việt Nam cần phải giải quyết. Lẽ nào, thành quả đóng góp
của người trí thức cư sĩ có được cách đây gấn 100 năm, đến nay lại
không còn giữ được?
Về truyền thông Phật giáo, Hội Phật giáo Bắc kỳ từ năm 1935 đã có được “Tuần báo ra ngày 1 và 15”, Đuốc Tuệ.
Có 2 điều đáng chú ý ở tờ báo này. Đó là Đuốc Tuệ có một phụ bản là Tinh Tiến “Phụ trương Đuốc Tuệ ra ngày thứ 3, thứ 5 và thứ 7”, thực chất đã là một dạng báo cách ngày của Phật giáo, phát hành rộng rãi trên toàn miền Bắc.
Điểm
đáng chú ý là tờ báo liên tục hoạt động từ năm 1935 đến năm 1945, vượt
qua những khó khăn, trở ngại đủ mọi mặt, từ giấy in, phương tiện in và
phát hành thời kỳ Chiến tranh Thế giới Thứ II.
Hiện nay, Phật giáo cả nước chỉ còn một tờ tuần báo ấn bản giấy, tờ Giác Ngộ
của Thành hội Phật giáo TPHCM. Tức là, so với những gì chỉ riêng Phật
giáo miền Bắc làm được ở lãnh vực báo chí, Phật giáo Việt Nam hiện nay
vẫn còn ở phía sau với khoảng cách khá xa.
Về
giáo dục xã hội, một trong những lãnh vực quan trọng của công cuộc chấn
hưng Phật giáo, Hội Phật giáo Bắc kỳ đã bước đầu mở được trường học,
trước tiên là Trường Phổ Quang, sau đó là Trường Khuông Việt. Quy mô của
Trường Khuông Việt lên đến 280 học sinh (1950).
Hiệu
trưởng trường Khuông Việt là trí thức cư sĩ (ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, sau
đó là ông Nguyễn Đình Quế). Giáo dục xã hội là lãnh vực tiến triển chậm
trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc, thành quả đạt được
khiêm tốn, nhưng những ngôi trường có được đánh dấu một bước tiến đáng
kể. Bên cạnh đó, Phật giáo miền Bắc vào năm 1940 cũng mở được một trường
bảo trợ dành cho trẻ em nghèo và mồ côi, dạy kiến thức văn hóa lẫn huấn
luyện nghề nghiệp. Sách “Biên niên sử Phật giáo miền Bắc (1920-1953)” cho biết trường cũng có những hoạt động hoằng pháp như “Hàng ngày các em có một buổi niệm Phật vào 7.30 và hàng tuần có một khóa lễ vào sáng chủ nhật.”
Sách dẫn trên cũng cho biết đến năm 1953, Phật giáo miền Bắc đã xây dựng trường Vạn Hạnh: “Lúc
bấy giờ do Hà Nội rất thiếu trường học nên Hội tập trung xây trường Vạn
Hạnh trước. Sáu tháng sau, Hội đã xây được 2 ngôi nhà 2 tầng (làm bằng
xi măng cốt thép), mỗi ngôi có 4 phòng học (mỗi phòng có diện tích 6m x
8m) chưa kể hiên; 1 ngôi nhà làm văn phòng và lớp, gia đình cùng các nhà
phụ, tất cả các nơi đều đầy đủ dụng cụ. Một ngôi nhà do Ban Ưu Bà Di
phát tâm cúng vào để làm trường và tự viện của Ban. Tất cả số tiền xây
nhà và mua sắm dụng cụ hết trên 1 triệu đồng. Tới kỳ nghỉ hè năm 1954,
trường được hoàn thành và khai giảng ngay lớp hè lấy tên là trường Vạn
Hạnh”.
Như
vậy, trong những điều kiện khó khăn lúc bấy giờ, hoạt động giáo dục xã
hội của Phật giáo miền Bắc do trí thức cư sĩ đảm nhiệm vẫn có tiến
triển. Những thành quả đó, theo chúng tôi, vẫn là đáng kể. Và Phật giáo
Việt Nam hiện đại vẫn có một khoảng cách đối với những gì chỉ riêng Phật
giáo miền Bắc đã đạt được lúc đó trong công cuộc chấn hưng Phật giáo.
Tuy
thấy rằng những đóng góp của người trí thức cư sĩ đối với công cuộc
chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc vẫn còn một số hạn chế như những nhận xét
đã trích dẫn ghi nhận, nhưng đặt những thành quả đã đạt được liên hệ
đến hoàn cảnh hôm nay, thì quả thật những kết quả đó không hề là nhỏ. Nó
nói lên rằng người trí thức cư sĩ hôm nay cần phải nỗ lực rất nhiều thì
mới có thể đạt được những gì mà những vị trí thức cư sĩ tiền bối đã làm
được đối với sự nghiệp chấn hưng Phật giáo gần 100 năm trước, trong
những điều kiện đã khó khăn hơn rất nhiều so với hoàn cảnh đang có được
hiện nay.
Điều
đó cũng nói lên rằng sự nghiệp chấn hưng Phật giáo vẫn cần được tiếp
tục, mà trước mắt, vẫn là khôi phục những gì đã đạt được từ nửa đầu thế
kỷ trước. Nói như thế để thấy được công cuộc chấn hưng Phật giáo là cấp
thiết đến mức nào, mà trong đó, vai trò của người trí thức cư sĩ là hết
sức quan trọng.
MT