Tổ chức trong khuôn
viên chùa, tất yếu diện tích tổ chức cuộc lễ sẽ giới hạn số người tham dự (vì
tăng ni Phật tử có muốn đi dự đông đảo cũng không có chỗ đứng)
Riêng phía ban tổ chức,
thì cũng sẽ rất khó tiến hành công tác vận động người tham dự.
Một cuộc lễ mà ban tổ
chức không thể vận động đông đảo người dự đã là một thất bại về công tác tổ chức.
Đây không phải là một
thất bại vì lý do khách quan, dù trong thực tế có vẻ như vậy: giới hạn không
gian của địa điểm tổ chức. Mà là một thất bại có nguyên nhân chủ quan, nguyên
nhân từ việc lựa chọn địa điểm.
Số người tham dự lễ Phật
Đản từ khoảng 20.000 người chẳng hạn trong một sân vận động, giảm xuống khoảng
hai ba ngàn trong một sân chùa diện tích thu hẹp nhiều vì giải phóng mặt bằng
làm đường, xây tháp tổ… thì quả là một thất bại về công tác tổ chức.
Sự thất bại đó có quan
hệ như thế nào đến hoạt động cải đạo tín đồ Phật giáo, vốn từng ngày, từng giờ
theo dõi các hoạt động của Phật giáo, chực chờ khai thác những điểm mà họ xét
có thể khai thác được, lợi dụng nó cho việc cải đạo tín đồ Phật giáo, đẩy mạnh
nó lên một tầng nấc mới.
Từ hàng mấy trăm năm
trước, các thế lực cải đạo đã cố hết sức chứng minh Việt Nam không phải là một
quốc gia Phật giáo, Phật giáo chỉ là tôn giáo thiểu số ở Việt Nam, đạo chính ở
Việt Nam là đạo “Hiếu”, đạo thờ ông bà, hay đạo tổ tiên.
Theo họ, Phật giáo, với
bản chất mê tín dị đoan, đang ngày càng thiểu số hóa, ngày càng khô cạn sinh
khí, tín đồ thưa thớt, lão hóa.
Trong cách tư duy như
thế, thì khi Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo ở các thành phố lớn, tổ chức những
cuộc lễ long trọng, thu hút nhiều vạn người tham dự, tạo không khí nhiệt thành,
đông vui, sôi nổi…, thì tất nhiên, những
thế lực cải đạo trở nên ngại ngùng, lúng túng, bối rối. Họ không mong những
thành quả như thế từ Phật giáo Việt Nam.
Trước một số đông tín đồ
Phật giáo tập hợp mừng Đại lễ Phật Đản, ánh mắt của những thế lực cải đạo sẽ là
những ánh mắt bẻn lẽn, lấm lét và đương nhiên đỏ chạch, vì tỵ hiềm, ghen tức.
Thế nhưng, khi một số
Phật giáo địa phương, nhất là ở các thành phố lớn, tự thiểu số hóa tín đồ trong
buổi Đại lễ mừng Phật Đản, thì đó chính là điều các thế lực cải đạo, chờ đợi, mong
muốn
Đại lễ Phật Đản đã mất
vị thế tôn nghiêm, bề thế nơi công cộng, quay về lại một sân chùa chật chội,
mang tính nội bộ. Số người tham dự tất nhiên phải giảm 80% - 90%. Một cuộc mít tinh
tụ hội quần chúng từ đẳng cấp thành phố tuột áo xuống cấp…phường. Như một sự “cầu
được, ước thấy” của các thế lực cải đạo. Giáo chủ của họ linh hiển rồi chăng, khi
Phật giáo lại liên tục bó tay mình trong những cơ hội hoằng pháp như thế?
Nhìn vào điều này, trước
tiên, những người lính xung kích cải đạo thêm phấn chấn tinh thần. Họ đã không
hề sai? Cánh đồng mơ ước của họ lại nối liền, đã không còn bị cắt xẻ bởi số
đông của Phật giáo. Đó là động lực để những kẻ cải đạo cực đoan lao vào đám lửa
cải đạo một cách không băn khoăn, dè dặt
Vô tình, hiện thực thiểu
số hóa tín đồ Phật giáo trong dịp Đại lễ Phật Đản đã là liều thuốc trợ lực, khuyến
khích những kẻ cải đạo vững tin ở tương lai thiểu số hóa Phật giáo, mà “bề trên”
thường vẽ ra như chiếc bánh ngon lành, béo bở trước mặt họ.
Kế đến, đó là bằng chứng
để thuyết phục những đối tượng cải đạo, về một tôn giáo về chiều, ngắc ngoải, xuống
dốc, không hề gắn liền với dân tộc, vì đã chẳng có được số đông vững bền ở ngay
tại một thành phố lớn gần 10 triệu dân. Một sự so sánh rất là có lợi, rất là
thuyết phục “Hãy đếm số người trên các bức ảnh”, “Hãy nhìn thấy tỷ lệ cao số phụ
nữ, lão bà trên các bức ảnh”. Vô tình, sự lựa chọn của Phật giáo một thành phố
lớn đã cho những kẻ cải đạo một thứ “vũ khí” lợi hại bằng trực quan, bằng diễn tiến
thực tế, hình ảnh cụ thể.
Các nhà lãnh đạo Phật
giáo chắc chắn sẽ tự tin hơn, tự hào hơn, hãnh diện hơn, vinh dự hơn khi đứng
lên vẫy chào số lượng tín đồ hàng nhiều vạn người đang cung kính chắp tay phía
dưới lễ đài, chật kín sân vận động.
Và một cảm giác ngược lại
tất yếu sẽ nảy sinh khi phía dưới lễ đài Phật đản, số tín đồ ít đi có thể đến
10 lần!
Tác động cải đạo của cảm
giác thiểu số hóa không chỉ tạo hiệu ứng bên ngoài Phật giáo, mà nó cũng có thể
tạo một sự xáo động nào đó nhất định bên trong chính Phật giáo, trong tâm lý của
từng tăng sĩ, từng tín đồ.
Trong một chiều hướng
ngược lại, các tôn giáo đưa việc cải đạo làm mục tiêu hàng đầu đã tỏ ra hết sức
chú trọng đến việc tập họp số đông và phô diễn nó, để phải chăng, tạo ra một hiệu
ứng so sánh có lợi cho họ.
Số lượng tín đồ là đại
lượng hết sức quan trọng để thể hiện sức mạnh về mọi mặt. Đó là một điều hiển
nhiên trong lịch sử và cũng là một thực tế đang diễn ra hiện nay.
Để ý, chúng ta sẽ thấy
những bức hình đám đông hàng chục vạn người tập họp hành lễ trên các trang web
cải đạo, góc chụp rất rộng (wide), ghép nối tiếp, đã được thể hiện nhằm phô diễn
sức mạnh đám đông tín đồ trải rộng.
Trong dịp truyền hình
trực tiếp cuộc lễ “phong thánh” một nhà lãnh đạo tôn giáo phương Tây, đám đông
hàng triệu người đã được thể hiện một cách hết sức đặc biệt bằng những kỹ thuật
quay phim cầu kỳ, thậm chí, dường như được chú trọng không kém hình ảnh vị chủ
lễ. Trong con mắt truyền thông, có lẽ đám đông có tiếng nói mạnh hơn cả vị chủ
lễ.
Cố gắng ngăn chận việc
cải đạo tín đồ Phật giáo trong mối quan hệ với sự quy tụ được số đông tín đồ Phật
giáo, đặc biệt là trong các đại lễ Phật giáo nhất là đại lễ Phật đản, là điều
rõ ràng qua nội dung trình bày ở trên.
Mong rằng điều này được
lưu ý chia sẻ, vì hạnh nguyện hoằng pháp và hộ pháp đối với Phật giáo Việt Nam.
Minh Thạnh