Ấy thế mà số người để ý đến “khe hở” này khi chẩn
đoán và điều trị bệnh thống phong lại không nhiều.
Tác nhân gây nên chứng gout
Nhiều người nay đã hiểu phần nào về bệnh thống phong (bệnh
gout) do tăng chất axit uric trong máu khiến khớp ngón chân, ngón tay
bị sưng đau đến độ kêu trời không thấu. Đó là chưa kể đến hậu quả khác
như gai cột sống, sỏi thận, bệnh ngoài da... hay thường gặp hơn nữa là
tình trạng mệt mỏi, đau không ra đau, bệnh không hẳn bệnh. Cũng có
nhiều người đã biết tại sao chất axit uric, một loại phế phẩm từ chuỗi
phản ứng thoái biến chất đạm thuộc nhóm purin, lại tăng cao trong máu
rồi. Vì không được bài tiết kịp thời và đúng mức nên kết tủa trong
khớp, trên đường tiết niệu, dưới da... làm khổ bệnh nhân, như trong
trường hợp của những người:
* Hoại huyết như sau cơn sốt rét, sau lần chấn thương
* Ăn quá nhiều chất đạm từ lòng heo, da gà, cá mòi, lạp xưởng...
* Uống quá ít nước lại thêm thói quen nín tiểu trong
giờ làm việc
* Bị bệnh biến dưỡng như tiểu đường, cường tuyến giáp...
* Lạm dụng dược phẩm như thuốc cảm, thuốc corticoid...
* Có bệnh trên đường tiết niệu như phì đại tiền liệt
tuyến, viêm bàng quang...
* Lạm dụng rượu bia.
Nhưng không phải ai cũng rõ là axit uric có thể tăng cao,
thậm chí tăng rất cao ngay cả ở người không phạm vào các “trường quy”
vừa kể.
Những kết quả vừa cập nhật
Từ nhận xét là không ít bệnh nhân bị tăng axit uric thấy
rõ nhưng không hề uống bia, cũng không lạm dụng thịt mỡ, chúng tôi đã
tiến hành một số khảo sát lâm sàng với kết quả như sau:
Trong số 20 người tuy cũng có thói quen ăn canh chua nhưng
là canh chua măng, hay canh chua lá giang, thay vì bạc hà, thì tỷ lệ
tăng axit uric trong máu chỉ là 15%.
Trong số 50 đối tượng có lượng axit uric trong máu cao hơn
7,5 mol (định mức sinh lý tối đa là 5,5 mol) nhưng không uống bia,
không lạm dụng thịt mỡ, có 13 người ăn canh chua mỗi tuần tối thiểu 2
lần. Số còn lại, 37 đối tượng, đều có canh chua trong khẩu phần mỗi
tuần tối thiểu 4 lần!
Phân tích tiền sử bệnh cho thấy 7 trong 10 trường hợp lên
cơn đau như đau cắt ngang khớp kèm theo triệu chứng sưng nóng đỏ xảy
ra sau một bữa cơm có canh chua bạc hà.
Trong nhóm thử nghiệm với 30 người có thói quen uống bia
và đã bị bệnh gout với xét nghiệm sinh hoá rõ rệt, tất cả đối tượng
thường có món canh chua bạc hà trong bữa ăn đều có hàm lượng acid uric
cao hơn nhóm không mạnh miệng với món này.
Trị số xét nghiệm của 14 trong số 20 người trước đó có
lượng axit uric trong máu trong khoảng 6,5 đến 7,5 mol trở lại bình
thường sau hai tuần không ăn canh chua bạc hà mà không cần dùng thuốc.
Trên hai nhóm thử nghiệm trong 10 ngày liên tục, mỗi nhóm
với hai mươi đối tượng đều được điều trị bằng Zyloric 200 x 2
viên/ngày, có thể giảm thiểu đến phân nửa lượng thuốc hàng ngày trên
nhóm cữ canh chua bạc hà nhưng hiệu năng vẫn tương đồng với nhóm đối
chiếu có món canh chua một lần mỗi 2 ngày.
Hai tháng sau khi đã điều trị ổn định, khi kiểm soát lượng
axit uric trong máu cho thấy hiện tượng tái phát chỉ xảy ra ở 7 trong
số 30 bệnh nhân ăn canh chua bạc hà một cách tiết độ theo kiểu mỗi
tuần 1 lần mà thôi.
Lời kết
Canh chua bạc hà rõ ràng là món ăn có mối liên hệ mật
thiết với tình trạng tăng axit uric trong máu.
Nhưng nếu phải kiêng món canh chua bạc hà cá bông lau với
vị ngọt, chua, cay pha trộn độc đáo thì thà đừng là người... Việt! Ăn
món canh chua mà loại bỏ bạc hà thì thà chọn món khác còn hơn! Nhưng
chủ động giảm bớt số lần có món canh chua bạc hà trên bàn ăn nếu đã bị
bệnh gout, hay khi lượng axit uric đã mấp mé giới hạn bệnh lý, là
quyết định vừa chính xác vừa khôn khéo. Nhờ đó bạn vẫn còn cơ hội
thưởng thức món canh chua, thay vì đến lúc nào đó vừa phải nhịn đến
phát thèm vừa tốn tiền mua thuốc rồi sinh thêm bệnh... tức cành hông!
BẠCH QUẢ
http://www.ucmp.berkeley.edu/seedplants/ginkgoales/notchedleaves.jpg
Nếu quý vị thấy bắt đầu bị lãng tai, mất thăng
bằng, dĩ nhiên chúng ta phải đi ngay bác sĩ để biết nguyên do. Quý vị
nên bàn thảo với bác sĩ để dùng bạch quả, vì khi dùng bạch quả nó đưa
lại kết quả thật khả quan, bạch quả làm cho máu huyết di chuyển tới
tai đều đặng, tạo sự liên hệ giữa não và tai. Bạch quả cũng chữa được
bệnh ù tai.
Có bán ờ Cosco nên mua loại 120 mg ,giúp cho trí
nhớ cùng đau khớp xương hay lắm .
BẠCH QUẢ: trường sinh dược thảo
Cách đây 3 năm tôi đến Pensylvania vào mùa thu
trước lễ Tạ Ơn. Trời bắt đầu lạnh gần độ đông đá. Một buổi sáng xuống
phố, ánh mặt trời chói chang trong những lùm cây. Cây cối trơ trụi,
ngọai trừ một số cây màu vàng dọc theo lề đường với những lá hình rẻ
quạt, tôi nhận ra ngay đó là cây bạch quả. Mùa xuân lá cây mơn mởn
từng chùm trên từng đốt dọc theo cành cây vươn ra tứ phía. Mùa hè lá
biến thành xanh đậm. Mùa thu lá đổi màu vàng trông rất đẹp.
Ngồi trong quán ăn điểm tâm nhìn ra phía trước,
tôi thấy mấy người vừa đàn ông vừa đàn bà đang lượm những trái bạch
quả rụng quanh gốc cây. Tôi hỏi cô cháu bé thì được biết các ông bà
này trong mùa thu, khi thấy trái bạch quả rụng, thì họ cố lượm cho
thật nhiều , nấu chè rồi đưa vào sở làm quà cho bạn bè mỗi người một
ly. Các ông bà trong sở lấy làm thú vị lắm: chè ăn vừa ngon vừa bổ,
lại có vị thơm vị bùi.
Mùa thu đã mang lại cho những người Trung Hoa này
một mong đợi đầy lý thú. Với họ chỉ là lượm trái cây, nấu chè, không
hơn không kém.
Hai hôm sau chúng tôi đi lượm lá chớ không lượm
trái. Ở New Jersey tương đối dễ vơ lá hơn . Chúng tôi chỉ cần tới một
cây vào buổi sớm, sau một đêm lạnh, lá rụng chồng đống tại gốc cây,
bóc mấy phút là được mấy bịch rác. Chúng tôi mang về nhà soạn lấy
những lá tốt, còn những lá úa lọai đi. Sau đó cho vào máy sấy, cứ 24
tiếng lại được một mẻ, hai cậu cháu lượm có thể đủ làm trà uống cả
năm. Chúng tôi trộn 2/3 lá bạch quả và 1/3 trà để giữ cho lá khỏi bị
ẩm ướt. Vả lại cũng cần uống trà có lợi cho cơ thể rất nhiều.
Câu hỏi được mọi người đặt ra là cây bạch quả là cây gì?
Người Trung Hoa gọi là bạch quả vì sau khi trái
rụng màu của nó vàng nâu giống như trái mơ, khi rửa sạch vỏ chỉ còn có
hạt, lúc phơi khô, hạt thành trắng, vì thế người ta còn dịch ra tiếng
Anh là white nut. Cây bạch quả cũng được người Tây phương gọi là
Ginkgo Biloba, hay người Hoa kỳ gọi là maidenhair, cây tóc tiên nữ.
Bạch quả xuất hiện đã lâu trên trái đất vào thời
khủng long mà người ta tìm thấy trên các địa tầng trái đất trên các
đại lục đông và tây bán cầu. Ở Á Châu người ta thấy cây bạch quả được
trồng trong khuôn viên các chùa ở Trung Hoa và Nhật Bản. Bạch quả cũng
có một sức sống dẻo dai. Năm 1945 sau cuộc thả bom nguyên tử ở
Hiroshima, người ta thấy tất cả những cây khác bị tiêu diệt, nhưng cây
bạch quả vẫn sống ngạo nghễ giữa gió bụi phong trần.
Vào thế kỷ 18, người Âu châu chú trọng đến cây
bạch quả vì hình thù và sắc đẹp của nó. Ông Englebert Kaempfer, một y
sĩ và nhà thực vật học người Đức, lần đầu tiên trong cuộc đời ông được
thấy cây bạch quả trong chuyến công du Nhật Bản. Sau đó ông Carolus
Linnaeus, người Thụy Điển, cũng là một nhà thực vật học, trong việc
xếp lọai hệ thống các lọai động vật và thực vật, đã đặt tên Ginkgo
Biloba cho cây bạch quả. Năm 1727, người ta mang cây bạch quả từ Trung
Hoa tới Âu châu và trồng tại vườn dành cho những cây nhiệt đới. Tại
Hoa Kỳ, năm 1784 ông Halmilton là người đầu tiên trồng cây bạch quả
tại sân nhà ông ở Philadelphia. Bây giờ cây ấy hãy còn sống và ở ngay
cạnh nghĩa trang Woodlawn. Rồi cứ thế, người này bảo người kia, kể cả
rất nhiều thành phố lập ngay dự án trồng cây hai bên đường phố để làm
tăng vẻ đẹp cho đô thị. Hiện nay ở Philadelphia, nếu ai muốn trồng cây
bạch quả, chỉ cần liên lạc với sở thiết kế đô thị để được mua một cây
bạch quả 15 gallon với giá $75.00 thay vì giá thị trường là $150.00. Ở
Hoa kỳ hiện nay cũng có nhiều nông trại trồng lọai cây này, chẳng hạn
như ở South Carolina để sản xuất và cung cấp lá cho các nhà bào chế
các sản phẩm bạch quả.
Cây bạch quả sống lâu hơn các lọai cây khác. Cây
có thể sống nhiều ngàn năm. Cây cũng có cây đực cây cái. Cây đực cung
cấp nhụy. Cây cái sinh quả. Cây bạch quả phải kể tới 50 năm sau khi
trồng mới có trái. Trái bạch quả khi chín sẽ đổi màu vàng ố và rớt
xuống đất có mùi hôi. Vì thế nhiều nơi khi thấy cây sinh trái đã chặt
cây, chỉ để lại cây đực.
Dược tính của cây bạch quả.
Người Trung Hoa đã sử dụng dược tính của cây bạch
quả từ nhiều thế kỷ. Cho tới nay, nhiều khi trong các thang thuốc cũng
có mấy hạt bạch quả được trộn lẫn với những vị thuốc khác. Các thầy
thuốc Bắc dùng trái bạch quả trị các bệnh về não, bệnh suyễn, sưng
cuống phổi. Trong các sách thuốc Trung Hoa vào thế kỷ 15, 16, người ta
cũng dùng hạt bạch quả rang khô để trị các bệnh liên quan đến cơ quan
tiêu hóa. Ngòai ra trái bạch quả chín còn được ngâm vào dầu ăn 100
ngày trược khi dùng trị bệnh phổi. Lá bạch quả cũng được người Trung
Hoa dùng trị bệnh tiêu chảy, vò những lá tươi xát vào da khi bị khô vì
trời lạnh, hay bị cháy nắng có những vết như tàn nhang, hoặc da bị
trầy trụa. Tại Nhật người ta khám phá thấy sau khi bóc vỏ hạt bạch quả
có một màng thật mỏng bao chung quanh nhân, màng này tao ra chất sát
trùng có thể giết sâu bọ. Vì lý do đó, người Nhật thường để những hạt
bạch quả ở các ô hộc trong kệ sách để tránh mối bọ. Lá bạch quả sinh
ra những chất khiến sâu bọ không thể ở trên cây và cũng khử được những
ô nhiễm nữa.
Vào những thập niên gần đây, rất nhiều các quốc
gia tại Âu châu đã lập những viện nghiên cứu và lập các nhà bào chế ép
những chất trong lá bạch quả để tìm hiểu dược tính của nó và dùng
những chất ép từ lá cây bạch quả chế biến ra những viên hay đặt vào
trong những bao nhộng có các cân lượng từ 60 mg, 120mg bán ra thị
trường. Cũng có khi họ thêm vào những vị khác như các lọai nhân sâm.
Hiện nay người Hoa kỳ cũng trồng thật nhiều cây
bạch quả để chế biến dùng lọai dược thảo này áp dụng song song với
những lọai thuốc tây khác. Trong việc tìm hiểu những đặc tính dược
thảo, các nước Âu Mỹ đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng về chất liệu của các
thứ cây có khả năng chữa bệnh.
Đứng trước những khó khăn của y học Tây phương
trong việc chữa trị bệnh nhân, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu những
phương dược của Đông phương.... ....(bỏ một đoạn)
Tôi có người anh kết nghĩa năm nay 82 tuổi. Cách
đây trên mười năm, vì rủi ro, anh đang lái xe bỗng dưng buồn ngủ, đâm
vào chiếc xe 18 bánh đang đậu bên đường. Kết quả bị gẫy hai chân, gẫy
hai tay và mất một cái đầu gối. Sau mấy tháng nằm bệnh viện, anh đã
phải qua nhiều cuộc giải phẫu và cuối cùng anh được xuất viện. Anh
tiếp tục tập luyện, cuối cùng đi lại bình thường. Mỗi khi trái gió trở
trời, anh bị đau nhức thê thảm. Anh đi bác sĩ và được cho toa. Nhưng
uống thuốc tê thấp không phải lúc nào cũng dễ vì nếu uống thuốc lâu,
thuốc có thể làm nguy hại đến những bộ phận khác trong cơ thể. Một
hôm, anh nghe người ta chỉ, dùng trà bạch quả, anh thấy dễ chịu hẳn
lên, lại cảm thấy tâm trí thỏai mái, trí nhớ được phục hồi có thể ngồi
viết lại những phần nhật ký anh chưa hoàn tất được. Rồi sau đó anh tìm
hiểu nhiều về các lọai dược phẩm. Nay anh đã được bình phục và không
còn đau nhức nhiều như trước kia nữa, thật là một an ủi lớn cho anh.
Một người khác, bạn của anh tôi, năm nay 73 tuổi.
Anh bị đau ở bả vai phải, kéo xuống cánh tay và bàn tay rất khó chịu.
Anh đã đi mấy bác sĩ, uống năm sáu toa thuốc không thấy khỏi. Anh dùng
sản phẩm bạch quả trong hai tuần, anh đã hết bệnh, sau đó anh đi mua
ngay cây bạch quả 15 gallon, đưa về trồng trước cửa nhà. Mỗi sáng đi
tập thể dục về, anh lấy mấy lá nhai rồi nuốt đi. Cách đây ít lâu, anh
cho biết là lá bạch quả đã đem lại cho anh sức khoẻ lạ thường, cảm
thấy người thật là cường tráng.
Hai tháng nay, tôi được biết một người bạn, tâm
hồn rất sáng suốt minh mẫn, nhưng cơ thể anh xuống dốc thê thảm. Các
khớp xương của anh đau nhức. Mỗi khi cơn đau lên như thế, các bắp thịt
kéo co lại đau đớn lắm. Anh tìm đọc tài liệu về sản phẩm bạch quả. Mấy
hôm sau anh mua về dùng. Ngày hôm sau anh cho biết chưa bao giờ anh có
được giấc ngủ ngon như thế, một tuần sau anh cho tôi biết các khớp
xương hãy còn đau nhưng bắp thịt không co lại và không còn đau nữa.
Những chuyện tôi vừa kể trên chỉ phần nào nói lên
ích lợi của bạch quả. Chúng ta lần lượt tìm hiểu thêm những nghiên cứu
của các dược phòng qua những công trình làm việc của nhiều khoa học
gia, cũng từ đó người Tây phương nhìn nhận và thử nghiệm bạch quả một
cách hữu hiệu như thế nào.
Bắt đầu từ 1930 ngành Y khoa Tây phương chú trọng
về ích lợi của cây bạch quả trong việc bảo vệ sức khỏe và chữa trị
bệnh tật. Sau khi các khoa học gia Đức và Nhật đã ép nước từ lá bạch
quả và phân chất, người ta tìm thấy hai nhóm hóa chất quan trọng:
flovone glycosides va terpene lactones.
Flovone glycosides là những hóa chất lọai
flavonoids. Hóa chất này là một số hợp chất tìm thấy trong nhiều cây
trái, nhất là những lọai chanh, cam, bưởi. Nó là những chất chống
oxi't hóa, có nghĩa la nó làm sạch những chất ô nhiễm trong máu. Chất
flavonoies cũng có đặc tính bảo vệ các tế bào khỏi bị vỡ do chất acid
và các lọai acid béo do đó các tế bào lúc nào cũng ở tình trạng khỏe
mạnh và có khả năng thẩm thấu. Chất flavonoies cũng giúp cho các hạt
máu không bị dính vào nhau, nó giúp cho việc tuần hoàn máu trong cơ
thể, đánh tan những cục máu, khiến ta tránh được đứt gân máu. Nó giúp
cho những mạch máu không bị cứng, có khả năng giúp tồn trữ sinh tố C
và giữ gìn nó lâu trong cơ thể.
Chất terpene lactones trong cây bạch quả giúp cho
sự tuần hoàn máu tới não và các bộ phận trong cơ thể, chuyển dưỡng khí
tới các mô, giúp cho việc hấp thụ chất đường (glucose) tới các mô.
Việc này giúp cho cơ thể khoẻ mạnh và có thêm sức lực. Chất này cũng
giúp cho cơ thể khoẻ mạnh và có thêm sức lực. Chất này cũng giup cho
kiện toàn trí nhớ và giúp cho não vậh chuyển và được hoàn phục sau khi
bị đứt gân máu. Chất bilobalides và ginkgolides chỉ tìm thấy nơi cây
bạch quả, nó gồm có những phân tử của ba lọai ginkgolides A, B và C có
một cách cấu tạo đặc biệt giống như một cái lồng mà không có cách nào
các nhà hóa học có thể chế ra một hợp chất gắn liền như thế được.
Cuối năm 1950, bác sĩ Willmar schwabe thuộc hãng
Schwabe ở Tây Đức đã rút từ lá bạch quả hợp chất gồm có 24% flavone
glycosides và 6% terpene lactones, tỉ lệ 24-6 được gọi là GBE. GBE có
ba ảnh hưởng lớn trong cơ thể:
1) giúp cho mạch máu được vận chuyển nhiều trong
cơ thể và giúp cho máu được tinh khiết, sự vận chuyển đó đưa máu tới
các mô và các bộ phận như tim, não, tai, mắt.
2) bảo vệ các cơ phận không bị ô nhiễm phá họai.
3) ngăn chận chất PAF, là chất làm cho máu dính
cục đưa đến việc tắc nghẽn và đứt gân máu, ảnh hưởng trực tiếp đến
mạch máu tim và tạo nguy hiểm cho tế bào não.
Lá bạch quả gồm có những hóa chất thật hữu hiệu
cho cơ thể con người. Qua nhiều cuộc nghiên cứu, người ta thấy nếu
dùng bạch quả với một số lượng bình thường thì không thấy những phản
ứng, cũng như dùng nó trong một thời gian khoảng ba tháng rồi ngưng
một khoảng cách một vài tuần hay một hai tháng tùy theo kinh nghiệm và
chúng ta có thể đo lường những tác dụng của nó trong cơ thể. Một phần
thật nhỏ là có thể có người bị phản ứng chẳng hạn ngứa, sẩn hay chảy
máu cam. Nếu thấy có những phản ứng như thế, nên tạm ngưng một thời
gian rồi tiếp tục lại. Vì tác dụng của bạch quả làm giãn nở mạch máu,
nên khi dùng bạch quả thì không nên dùng St John worts hay aspirin.
Những người đang dùng các lọai thuốc làm nở mạch máu tim hay làm loãng
máu cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị để được chỉ dẫn hoặc
ấn định cách thức dùng. Trong những trường hợp không bình thường trong
cơ thể hoặc có những bệnh trạng đặc biệt, chúng ta nên tham khảo ý
kiến của bác sĩ điều trị để biết rõ số lượng dùng. Hiện nay trên thị
trường có lọai viên hay con nhộng từ 60mg, 80 mg, 120 mg, 160mg,
240mg. Vì bạch quả là dược thảo nên không cần toa bác sĩ, tuy nhiên
chúng ta không nên vì thế mà lạm dụng nó. Tốt nhất khi dùng bạch quả,
chúng ta nên nghe ngóng cơ thể xem phản ứng để có thể lui tới sao cho
có lợi ích thiết thực cho cơ thể.
Bạch quả và hệ thống não.
Bạch quả có khả năng ngăn ngừa bệnh Alzheimer nếu
chưa bị bệnh , Khi bị bệnh rồi, dùng bạch quả giúp cho bệnh thuyên
giảm hay giữ ở tình trạng không phát triển. Bạch quả giúp cho máu
chuyển lên não, giúp cho các tế bào thần kinh truyền thông với nhau,
làm phục hồi trí nhớ. Bạch quả cũng giúp cho não nhận được nhiều dưỡng
khí và tẩy sạch những ô nhiễm trong não. Nó cũng giúp cho người sử
dụng nhiều về trí não được sáng suốt, bền gỉ, giúp cho chống lại với
những suy bại theo tuổi già.
Bạch quả và hệ thống tuần hoàn.
Bạch quả giúp cho máu di chuyển trong cơ thể được
dễ dàng, làm tiêu mỡ, tiêu những chất độc trong máu, đánh tan những
cục máu (blood clots), làm cho máu không bị dính vào nhau, làm cho các
mạch máu mềm mại, như thế có thể tránh được tình trạng đứt gân máu.
Bạch quả cũng giúp phục hồi các mạch máu bị nguy hại vì chất nicotine,
giúp cho hạ cholesterol vì nó khử được các chất oxit hóa. Bạch quả
cũng làm cho giãn mạch máu, nhất là khi tuổi già, mạch máu nổi gân
xanh ở chân sẽ được giảm đi và do đó các cụ có thể đi lại, di chuyển
một cách dễ dàng hơn. Sự thông máu trong hệ thống tuần hoàn giúp đưa
máu và đồ ăn tới những li ti huyết quản, khai thông những bế tắc đó là
nguyên nhân chính mang lại sức khoẻ toàn vẹn cho con người.
Bạch quả với dị ứng và hen suyễn.
Mới đây ở Hoa kỳ, người ta đã dùng bạch quả để
chữa bệnh dị ứng (allergy) và hen suyễn (asthma). Bạch quả làm dịu
những vết sưng do dị ứng gây nên, và những liên hệ đến hệ thống hô hấp
do dị ứng rồi đi đến nặng hơn đó là hen suyễn. Vì là dược thảo nên khi
chúng ta dùng nó kết quả có khi cũng chậm hơn, do đó khi bị dị ứng
nặng bất ngờ hay hen suyễn có nguy hại tới tính mạng, tốt hết ta hãy
tìm gặp các y sĩ để điều trị cấp thời rồi sau đó tham khảo ý kiếng với
y sĩ để dùng bạch quả. Người ta cũng dùng bạch quả thoa trên các lớp
da khi bị khô hay bị cháy nắng hoặc ngứa sẩn lên.
Bạch quả với các bà và các ông.
Các bà khi có kinh thường hay khó chịu, có khi bị
đau trong cơ phận liên hệ. Dùng bạch quả, các bà thấy dễ chịu, tay
chân đỡ bị sưng, đỡ đau bắp thịt, các bộ phận liên hệ không bị sưng,
hết nhức đầu, hết chóng mặt nhờ lượng máu di chuyển đều hòa tới các bộ
phận trong cơ thể.
Với các ông cũng thế, kết quả thử nghiệm cho thấy
rất khả quan khi các ông dùng bạch quả, máu huyết di chuyển điều hòa
trong các cơ phận, khiến giảm thiểu tình trạng bất lực, làm cho các
ông phấn khởi và trở nên tin tưởng vào sự cường tráng của mình, trở
nên yêu đời hơn.
Bạch quả và thính giác và thị giác.
Nếu quý vị thấy bắt đầu bị lãng tai, mất thăng
bằng, dĩ nhiên chúng ta phải đi ngay bác sĩ để biết nguyên do. Quý vị
nên bàn thảo với bác sĩ để dùng bạch quả, vì khi dùng bạch quả nó đưa
lại kết quả thật khả quan, bạch quả làm cho máu huyết di chuyển tới
tai đều đặng, tạo sự liên hệ giữa não và tai. Bạch quả cũng chữa được
bệnh ù tai.
Khi lớn tuổi, mắt bắt đầu yếu có thể vì con người
hay võng mô, sự co giãn không đúng mức, sự hiện hình trên võng mô
không rõ rệt, hay các cơ không còn điều tiết chính xác hay bị ảnh
hưởng do bệnh tiểu đường. Khi thấy mắt có những triệu chứng bất bình
thường, chúng ta phải đi gặp bác sĩ nhãn khoa để khám nghiệm để được
chữa trị. Sau khi biết rõ bệnh và được điều trị, chúng ta nên dùng
bạch quả, vì nó giúp đưa máu tới mắt, đưa chất bổ dưỡng tới mắt, làm
cho mắt được khoẻ mạnh, đồng thời khử các chất độc trong mất, phục hồi
các tế bào võng mô. Trong kết quả dùng bạch quả của bác sĩ Georges
Halpern, một khoa hoc gia Đức, năm 1990 đã chẩn bệnh cho 25 người tuổi
75. Những người này dùng 160 mg bạch quả mỗi ngày trong 4 tuần lễ thấy
mắt họ khả quan hơn trước nhiều. Kết quả nghiên cứu cũng cho biết bạch
quả giúp cho dẫn máu tới những mạch máu thật nhỏ và có tính cách thật
quan trọng trong võng mô. Bạch quả cũng giúp cho người bị tiểu đường
bằng cách làm cho mạch máu được mạnh và tẩy sạch những chất độc trong
các tia máu trong mắt. Bạch quả giữ cho máu khỏi bị hủy họai do bệnh
tiểu đường, do bệnh già và những yếu tố môi sinh gây ra.
Nói tóm lại, bạch quả giúp cho chúng ta có một trí
óc minh mẫn trong một cơ thể cường tráng. Nhờ đó giúp cho cho các tế
bào và các mô là những đơn vị nhỏ nhất trong cơ thể con người được
nuôi dưỡng, tẩm bổ, được tinh khiết, chống những phóng xạ do môi sinh,
dụng cụ máy móc của cuộc sống văn minh tạo ra.
Bạch quả giúp chúng ta chống lại những suy thóai
của cơ thể khi về già, giúp đưa lại sinh lực và niềm tin, đem lại trí
nhớ, trị hen suyễn, dị ứng, tê thấp, yếu tai mắt, máu huyết điều hòa
và giúp cho hệ thống thần kinh được bén nhạy.
Tài liệu tham khảo:
1. Ginkgo Biloba, an herbal fountain of youth for
your brain. Glenn S. Rothfelf, MD, MAC and Suzanne Le Vert
2. Ginkgo, A practiacl guide, Georges Halpern, MD, PhD.