Vào đầu thế kỷ Tây 
lịch, những nhà sư Ấn Độ theo tàu buôn sang Trung Quốc truyền đạo, đã 
ghé lại đất Giao Châu. Trong thời gian chờ gió yên biển lặng để tiếp tục
 hành trình, các nhà sư và các thương gia Ấn Độ đã truyền cho dân chúng 
Việt nam nhiều khái niệm căn bản của đạo Phật như nhân quả tội phúc, quy
 y, cúng dường, bố thí. Vào đầu Tây lịch, đã có một trung tâm Phật học 
nổi tiếng là trung tâm Luy Lâu do những nhân sĩ từ Trung Quốc đến lánh 
nạn tranh giành quyền lực ở chính quốc. Những người thâm Nho, Lão này 
khi đến Giao Châu bắt đầu nghiên cứu đạo Phật. Chính để thuyết phục 
những người này mà tác phẩm Lý Hoặc Luận của Mâu Bác (Mâu Tử) đã ra đời 
vào khoảng cuối thế kỷ 2. Đó là tác phẩm Hán văn đầu tiên viết về phật 
giáo tại Giao Châu. Trong sách có đoạn Mâu Tử phàn nàn: “Sa môn ngày nay
 có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ vàng bạc
 của quý, lại chuyên môn lừa dối”. Như vậy chứng tỏ vào cuối thế kỷ thứ 
2, Giao châu đã có một tăng đoàn khá đông mới phát sinh những tệ trạng 
như Mâu Tử nói.
Trong
 khi đó tại Trung Quốc mãi đến năm 250, tức hậu bán thế kỷ 3, mới có Đàm
 Ma Ca La từ Trung Ấn qua làm lễ truyền giới xuất gia – chứng tỏ Việt 
Nam đã thấm nhuần đạo Phật gần một thế kỷ trước Trung Quốc. Vào thời đại
 nhà Đường có những nhà sư Việt nam như Duy Giám đã được mời sang giảng 
đạo trong cung vua Đường: 
Giảng kinh xuân điện lý
Hoa nhiễu ngự sàng phi
Nam Hải ký hồi hóa
Cựu sơn lâm lão quy
Nguyễn Lang dịch:
Giảng kinh nơi cung điện
Giường ngự hoa xuân bay
Bao lần qua Nam Hải
Núi cũ người về đây
Bài
 thơ cho thấy vị sư này đã nhiều lần qua Trung Quốc thuyết pháp; và lúc 
ngài trở về Việt Nam, nhà vua đã nhờ thi sĩ Giả Đảo làm thơ tiễn. Đề tựa
 của bài thơ là “Tống tăng quy An nam”. Cũng may Giả Đảo là một thi sĩ 
nổi tiếng, nên thơ ông mới còn lưu lại trong tập Đường thi để đến nay ta
 được biết vào thời ấy Phật giáo Việt Nam đã có những vị sư lỗi lạc như 
thế. (Theo VNPG Sử Luận của Nguyễn Lang)
Một
 nhà thơ khác là Thẩm Thuyên Kỳ một tiến sĩ đời Đường phạm chính trị, bị
 đày sang Hoan châu (nay thuộc Nghệ Tỉnh) từ năm 701 đến 704. Khi mới 
sang Hoan châu, ông có những bài thơ thảm thiết, vì đối với người Trung 
Quốc, Hoan châu là đất biên địa, khô cằn. Ông có bài thơ “Sơ đáo Hoan 
châu” trong Đường thi, kể cảnh ngộ đi đày và sự điêu tàn ở nơi biên địa.
 Ông rất đau khổ mong ngày ân xá để trở về Trung Quốc. Một hôm nhân lúc 
ngao du ông đến một ngọn núi giáp giới Việt Nam, và gặp một vị sư Việt 
Nam tu trong một am cốc trên triền đồi. Từ đó cuộc đời ông được đổi mới,
 đến nỗi ông cho việc đày ải thế mà lại hay cho ông vì nhờ thế mà ông 
ngộ đạo: “đày ải cũng duyên lành”. Ông tự thuật mình đã biết đạo Phật 30
 năm nhưng đến giờ mới ngộ, và tôn vị sư Việt Nam là Phật Thích Ca tái 
thế:
Phật xưa sanh Thiên trúc
Nay hóa thân Nhật Nam
Vòng não phiền ra khỏi
Dưới núi dựng già lam
Chẳng
 những đạo Phật nước ta ngày xưa có những vị sư uyên thâm như thế, mà 
tinh thần Phật giáo còn thấm nhuần đại đa số quần chúng, qua những cổ 
tích, ca dao. Trong văn học bình dân nước ta, những nguyên lý nhân quả 
tội phúc là nòng cốt, và Bụt luôn luôn hiện đến với những con người bị 
thiệt thòi áp bức. Ví dụ truyện Tấm cám, ăn khế trả vàng, Cây tre trăm 
đốt.... Với người Việt Nam, Bụt tượng trưng cho một hình ảnh hết sức 
hiền hòa, luôn xuất hiện với những người đau khổ. Mỗi người Việt Nam 
thuần túy đều là một Phật tử tiềm tàng cho dù có đi chùa, quy y hay 
không. Khi một người nói “để đức cho con”, là họ đã mặc nhiên công nhận 
mình là Phật tử dù có thể họ không biết gì về đức Phật và đạo Phật.
 
II. THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA
Thái
 tử Tất Đạt Đa đản sinh vào năm 563 trước Tây lịch, con vua Tịnh Phạn 
cai trị một lãnh thổ nằm dưới chân núi Hy mã lạp sơn, dọc biên giới Ấn 
và Népal ngày nay. Khi thái tử ra đời có vị ẩn sĩ tên A Tư Đà xem tướng 
đoán Ngài sẽ làm hoàng đế thống lãnh toàn cõi ấn sau này, hoặc nếu xuất 
gia sẽ thành Phật. Vua cha hoảng sợ trước viễn ảnh con mình bỏ nhà đi 
tu, nên ra lệnh cho cận thần phải hết sức chiều chuộng thái tử, không để
 cho Ngài phải thấy hay nghe một chuyện gì đau lòng, trái ý. Thái tử hấp
 thụ một nền giáo dục văn võ song toàn, nhất là về nghệ thuật bắn cung. 
Không những có tài nghệ và thông minh, thái tử còn có tâm hồn mẫn cảm 
bén nhạy trước mọi nỗi khổ, dù là nỗi khổ của các chúng sinh nhỏ bé. Khi
 còn bé thái tử đã chứng tỏ có tài biện bác. Một hôm em họ Ngài là 
Devadatta bắn rơi một con chim, thái tử vội chạy đến nhặt lên săn sóc 
cho đến khi nó bình phục. Devadatta đến đòi lại con chim, lấy cớ mình đã
 bắn được nó. Thái tử hỏi lại: “Con chim thích ai hơn, thích người cứu 
nó hay người giết nó?”
Một
 hôm vào dịp lễ hạ điền, toàn dân ra đồng xem vua xuống ruộng cày những 
sá đầu tiên để cầu một năm được mùa. Thái tử vừa lên ba bốn tuổi cũng 
được người hầu ẵm đi xem. Khi thấy những con giun quằn quại dưới những 
luống cày, bầy chim sà xuống tranh nhau mổ, lòng thái tử se thắt lại 
trước sự thật phũ phàng: loài này phải làm thức ăn cho loài khác, và con
 người kiếm được bát cơm hàng ngày một cách gian nan, không phải chỉ đổ 
mồ hôi và sức lao động mà đôi khi phải đổ cả máu và nước mắt. Trước cảnh
 đau khổ ấy, thái tử ngồi trầm tư dưới một gốc cây. Xong cuộc lễ người 
ta mới thấy thái tử đang nhập định, mặt sáng ngời niềm hỉ lạc. Đến tuổi 
thành niên, thái tử kết hôn với công chúa Yasodhara, em họ của Ngài, sau
 khi thắng tất cả các vương tôn công tử trong những cuộc tranh tài về 
văn, võ. Vua cha còn gia tăng các thú vui để làm cho thái tứ khỏi suy 
nghĩ vẩn vơ. Nhưng có cuộc vui nào không tàn, có niềm hạnh phúc nào 
không biến đổi? Thái tứ thấy rõ hơn ai hết cái phù du của mọi sự hào 
nhoáng xinh đẹp quanh mình. Càng đẹp càng dường như không thật có, và 
càng thoáng qua mau. Quá chán chường trước những cảnh:
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm. (Tản Đà)
và
Vẳng tiếng nhạc khắp nơi nghe biết
Làn gió đưa cao tít Ly cung  (Tản Đà)
Thái
 tử xin vua cha cho ra ngoài thành dạo chơi. Mặc dù vua đã chỉ thị những
 nơi xe thái tử đi qua phải được trang hoàng đẹp đẽ, cũng không tránh 
khỏi sơ suất. Một lão ông không rõ từ đâu chống gậy bước ra, lưng còng, 
tay chân run rẩy. Thái tử hỏi:
- Này Chana, con gì thế kia?
- Bẩm thái tử, đó cũng là một con người, nhưng nay đã già nên lưng còng, phải chống gậy.
- Thế thì công chúa Yasodhara sẽ ra như vậy chăng?
- Vâng thưa thái tử, ngay cả công chúa yasodhara đẹp như trăng rằm kia cũng sẽ da nhăn, tóc bạc lưng còng như thế đấy.
- Thôi Chana, đủ rồi. Hãy đánh xe cho ta về.
Ngày
 hôm sau Ngài lại ra dạo chơi, lần này thái tử trông thấy một người 
bệnh, và lần thứ ba một xác chết. Bức tranh đời thái tử đã trông rõ một 
cách trọn vẹn, đó không gì hơn là già, bệnh, chết đến với tất cả mọi 
người, không phân giai cấp.
Thái
 tử càng u sầu áo não kể từ ba cuộc dạo chơi. Vua cha lo ngại tuyển thêm
 mỹ nữ, nhạc công danh tiếng vào cung để giải khuây thái tử. Ngày kia 
thái tử lại ra dạo ngoài cung thành lần nữa, và lần này Ngài thấy một sa
 môn.
- Kìa Channa, phải chăng đấy cũng là một người chết?
- Bẩm không, đó là một người đang tu thiền định, thân xác trông như chết, nhưng tâm ông ta vẫn tỉnh thức.
Trở
 về lần này, Ngài đã thấy được một lối thoát, dù rất mơ hồ. Một đêm kia 
sau khi mãn cuộc vui trong cung điện, đi ngang qua đám vũ nữ phục sức 
diêm dúa, phấn son nhầy nhụa, đang lăn ra ngủ một cách mệt nhọc sau hậu 
trường, thái tử bỗng cảm thấy một ý muốn ra đi mãnh liệt, từ bỏ tất cả 
những cảnh tượng này, cả cung điện, cả người vợ xinh đẹp, nhất là cả hài
 nhi mới sinh. Cùng với nỗi vui được làm cha, Ngài thoáng thấy một mối 
lo âu ràng buộc: đứa con sẽ là một dây trói vững chắc vào cuộc sống thế 
tục, tình yêu đối với người con ngày càng mãnh liệt sẽ làm Ngài khó lòng
 dứt áo ra đi, do vậy Ngài đặt tên con là Rahula (ngăn che), ám chỉ tình
 yêu vợ con là sợi dây trói chặt nhất. Bởi thế thời gian thuận tiện nhất
 đã đến, đó là đêm khuya thanh vắng, Yasodhara và hài nhi đang ngủ say. 
Sau khi nhìn vợ con lần cuối, Ngài cùng Xa Nặc lẻn ra ngoài cung thành 
trên lưng con ngựa Kiền Trắc yêu quý Ngài thường cưỡi. Đến sông Anoma, 
Ngài xuống ngựa, cởi bỏ tất cả phục sức vương giả, cắt tóc và trao tất 
cả cho Xa Nặc, kể cả ngựa. Xa Nặc khóc lóc xin đi theo, ngựa cũng ứa 
nước mắt muốn theo thái tử. Nhưng không, thái tử cương quyết đi một 
mình. Ngựa Kiền Trắc về buồn sầu bỏ ăn mấy ngày rồi chết vì nhớ chủ. Bên
 bìa rừng, thái tử nhặt một tấm vải vàng khoác cho những tội nhân đã bị 
hành quyết để thay cho y phục trên mình. Cũng như những tội nhân kia, 
mọi người sinh ra phải chăng đã lãnh một bản án tử hình, đang chờ giờ 
hành quyết. Khi được khoác tấm vải vàng để dần ra pháp trường là mọi hệ 
lụy trên thế gian này đã chấm dứt. Từ đấy màu vàng tượng trưng cho tu sĩ
 Phật giáo.
Ngài
 đi sâu vào rừng, nơi đó Ngài gặp nhiều ẩn sĩ, theo học nhiều vị thầy về
 các môn yoga, khổ hạnh. Ngài nhanh chóng nắm được các bí quyết tu hành 
của những vị này và vượt xa hơn họ về các phép tu, song chúng cũng không
 đem lại mục đích Ngài mong muốn. Ngài bèn giã từ tất cả thầy dạy, ra đi
 một mình, và trong 6 năm ròng rã, Ngài đã trải qua thời gian khổ hạnh 
khốc liệt, mỗi ngày chỉ ăn một hạt ngũ cốc cho đến khi thân thể Ngài chỉ
 còn là một bộ xương. Năng lực khổ hạnh của Ngài được 5 anh em Kiều Trần
 Như cùng tu với Ngài rất thán phục. Nhưng thái tử thấy rằng, càng khổ 
hạnh, sức Ngài càng mòn mỏi, không thể tập trung thiền quán, và Ngài 
bỗng nhớ lại một kinh nghiệm hỷ lạc lúc Ngài còn thơ ấu ngồi thiền dưới 
gốc cây trong ngày lễ hạ điền. Lúc đó các giác quan Ngài hoàn toàn vắng 
lặng, tỉnh thức, trong sáng. Bây giờ Ngài nhận ra rằng sự khổ hạnh không
 phải là con đường dẫn đến sự vắng lặng của cảm giác và sự minh mẫn của 
tâm trí. Con đường đúng là đường ngày xưa Ngài đã theo, khi ngồi thiền 
định dưới gốc cây. Nhưng một người đã kiệt sức vì khổ hạnh ép xác thì 
không thể làm được vậy. Trong khi Ngài đang suy nghĩ điều này, một cô bé
 chăn bò tên là Sujata trông thấy Ngài vội đem dâng một bát sữa. Ngài 
chậm rãi đón lấy và chấm dứt cuộc khổ hạnh lâu dài. Sau khi dùng sữa, 
tinh thần lai tỉnh, Ngài đem cái bát thả xuống dòng sông Ni Liên với lời
 ước nguyện, nếu tôi đắc đạo thì cái bát này sẽ trôi ngược dòng sông. 
Năm anh em Kiều Trần Như kinh ngạc trông thấy cái bát từ từ trôi ngược 
dòng. Nhưng họ vẫn từ giã vì thấy Ngài không còn tu khổ hạnh nữa.
Còn
 lại một mình Thái tử nhớ lại ngày xưa lúc tâm Ngài tự nhiên đi vào 
thiền định, Ngài đã kể lại về sau: “Này chư Hiền, khi nhà thiện xạ bắn 
chẻ được một sợi tóc, người ấy quan sát cẩn thận thế đứng của mình, cách
 cầm cây cung, vị trí những ngón tay, cách phóng mũi tên ra... để làm 
lại những động tác đã đưa mình đến thành công. Ta cũng thế, này chư 
Hiền, ta khởi sự một cách có phương pháp bằng cách lập lại những gì đã 
đưa tới thành công trong thiền định rất lâu về trước”.
Gần
 thành Gaya, thái tử tìm thấy một nơi thanh tịnh, Ngài trải cỏ dưới gốc 
cổ thụ, rồi khoanh chân ngồi kiết già với lời thề, ta sẽ không đứng dậy 
khỏi nơi này, khi chưa tìm được lối thoát ra ngoài sống chết. Với quyết 
định này thái tử khởi sự đóng lại các cửa ngõ giác quan, tập trung vào 
tâm ý. Khi Ngài đi sâu vào thiền định, những tầng lớp vô thức dần dần 
xuất hiện dưới hình thức những sứ giả của ác ma: ma ái luyến hiện hình 
ra nàng Yasodhara xinh đẹp đang khóc lóc, ma danh vọng hiện hình ra cung
 điện vàng son, ma hoài nghi, ma sợ hãi v.v.. nhưng không gì làm cho 
Ngài nao núng. Cuối cùng đạo quân ác ma phải rút lui, cửa ngõ vô thức, 
hầm sâu vô minh bây giờ tràn trề ánh sáng. Ngài trở thành một Con người tỉnh thức,
 một đức Phật. Ngài đã đến lĩnh vực mà già chết không thể nào chạm đến, 
đó là Niết bàn, Bất tử Đức Phật Thích Ca, danh hiệu của Ngài kể từ giây 
phút tỉnh thức trọn vẹn, ngồi yên dưới gốc cây mà từ đấy được vinh dự 
mang tên là cây Bồ đề, hay cây Giác ngộ. Ngàỉ thưởng thức niềm hỷ lạc 
của Niết bàn trong nhiều tuần, rồi bỗng tim Ngài se thắt lại khi nghĩ 
đến nỗi khổ của chúng sanh đang ngụp lặn trong đau khổ vì vô minh, Ngài 
muốn tìm phương cứu độ.
Khi
 ấy ác ma lại xuất hiện lần nữa: “Hỡi Gotama! Ngài đã đạt đến Niết bàn, 
đã thoát khỏi tầm tay của ta, Ngài đã đi sâu vào những tầng tâm thức vi 
diệu mà ngay cả những loài chư thiên cao nhất cũng chưa từng đạt đến, 
nhưng Ngài đã biết rồi đấy, thật gian khổ biết bao, Ngài với con mắt 
sáng mà còn phải vô cùng khốn đốn mới đạt đến Niết bàn, thì làm sao 
những kẻ đầy bụi trong con mắt có thể đạt đến, nhất là chúng lại không 
mong cầu Niết bàn, chúng chỉ mong cầu những thỏa mãn riêng tư. Dù chúng 
phải chịu trăm cay nghìn đắng trong đời, nhưng mấy ai muốn từ bỏ thế 
gian với những thú vui giả tạm, mấy ai thực sự đi tìm chân lý? Có phải 
phí công vô ích chăng, khi Ngài không nhập vô dư niết bàn mà lại có ý 
định ra giáo hóa chúng sinh, chỉ bày cho chúng con đường? Thôi đi, hởi 
Gotama, chẳng có mấy ai chịu nghe Ngài thuyết giảng đâu, mà dù chúng có 
nghe, vị tất chúng đã làm theo. Nếu có làm theo, vị tất chúng đã chịu 
khó nỗ lực đến cùng, như Ngài đã nỗ lực. Ít có kẻ nào thực tình muốn lau
 hết bụi bặm trong con mắt, Ngài hãy nhập Niết bàn đi, hỡi Gotama”.
Đức
 Phật ngồi im lặng giây lâu, những lời của ác ma quả có làm cho Ngài dao
 động, vì nó chứa một phần sự thật. Trong cái thế giới đang ngủ say với 
tham lam, bạo tàn và quyền lực này, có mấy ai sẽ chịu khó lắng nghe 
thông điệp của “Người về từ cõi Tâm linh” mà họ chưa từng biết 
đến. Thông điệp ấy dạy rằng, mọi sự vật trên đời từ con người cho đến 
muông thú và cỏ cây, tất cả trên mặt đất và trong lòng đất đều là một 
thân thể bao la, không phần nào bị hại mà không tổn thương đến toàn thân
 thể. Hận thù không làm tiêu tan hận thù mà chỉ có lòng bao dung thông 
cảm mới thắng được hận thù, bạo động. Quả thật vô cùng khó khăn để mà 
tin nổi thông điệp của Ngài, trong khi chúng sinh đang chìm ngập trong 
hận thù, vô minh, ngã chấp.
Nhưng
 đức Phật chỉ dao động vì những lời của ác ma trong một chốc, rồi niềm 
tin trở lại với Ngài. Ngài thấy chúng sinh có nhiều hạng, cũng như những
 cọng sen trong hồ, có cọng đang còn ngập dưới bùn sâu, có cọng đã vươn 
lên ngang mặt nước, có cọng sen đã vươn rất cao, tỏa hương khắp không 
gian. Chúng sinh có kẻ nhiều bụi trong mắt đang chìm trong màn đen vô 
minh, song cũng có kẻ ít bụi trong con mắt, có thể lãnh hội phần nào 
chân lý mà Ngài sẽ giảng nếu nó được trình bày thứ tự và có phương pháp.
 Có ai lại không muốn thoát khổ, an lạc dài lâu? Niềm tin ấy đã khiến 
đức Phật quyết định giảng pháp. Ngài tiếp tục ngồi tại cội bồ đề trong 
nhiều tuần, thưởng thức mềm tịnh lạc đă chứng, có lẽ trong thời gian ấy,
 Ngài cũng phác họa một chương trình giáo hóa về sau. Cuối cùng khi thấy
 đã đến lúc, Ngài đứng lên khỏi tòa ngồi để bắt đầu cuộc du hóa vĩ đại 
45 năm không dừng nghỉ. Bấy giờ không những Ngài là bậc thánh đã đạt đến
 niết bàn mà còn là bậc thánh đã an lập trong niết bàn vô trú, 
một sự tỉnh thức và an lạc không chỉ có trong lúc Ngài ngồi mà trong mọi
 thời mọi chỗ, dù khi Ngài đang đứng hay nằm, dù khi Ngài nói hay im 
lặng, dù khi Ngài thức hay ngủ. Ta gọi đó là Như Lai thanh tịnh thiền. 
Bấy giờ Ngài có thể giúp mọi người vượt qua, như Ngài đã vượt qua, dòng 
sông sanh tử. Điều cốt yếu là họ có thực tình muốn vượt qua hay không. 
Do đó Ngài có biểu tượng là người chèo con thuyền bát nhã, đưa người từ 
bờ sinh tử đến bến niết bàn, luôn luôn kêu gọi, “Có ai muốn qua sông 
không?”
 
III. BÁNH XE PHÁP
Đó
 là bài thuyết giáng đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ. Khi Ngài 
đứng lên khoan thai bước đi, trước tiên Ngài đi quanh cây bồ đề, tỏ dấu 
cám ơn cái nơi Ngàỉ đã ngồi thiền và đạt giác ngộ, rồi Ngài khởi sự ra 
khỏi rừng, đi về hướng có thể gặp những con người. Sắc diện Ngài chắc 
phải tỏa ra một vầng hào quang của trí tuệ và từ bi, nên một vài tiều 
phu thấy Ngài đã sụp lạy vì tưởng Ngài là thần cây, những người khác 
tưởng Ngài là một thiên thần xuất hiện, nhiều người cho Ngài là phi 
nhân, một loài biến hóa, với tất cả những người này Ngài đều trả lời 
rằng họ đã lầm: “Ta không phải là người, nhưng với loài người ta là 
một con người đã tỉnh thức, ta không phải là vị trời, nhưng đối với chư 
thiên ta là một vị trời đã tỉnh thức, ta không phải là rồng nhưng đối 
với loài rồng thì ta là một con rồng đã giác ngộ...” Những lời này gợi cho ta biết, đức Phật khi ấy không còn là người dù
Ngài
 có thể mang thân xác một con người, không thể là vị trời dù có thể Ngài
 có hình ảnh của chư thiên, Ngài siêu việt tất cả tướng như hình sắc, hư
 không. Ngài đã đạt đến tuyệt đối, đến bất nhị, vượt lên trên có và 
không, còn và mất, động và tĩnh, Ngài vừa là chân không, vừa là diệu 
hữu. 
Tại
 Vườn Nai gần thành Ba La Nại, bên bờ sông Hằng, Ngài gặp năm anh em 
Kiều Trần Như, đệ tử tu khổ hạnh của Ngài ngày xưa. Ngài đã giảng cho họ
 bài pháp đầu tiên còn nổi tiếng đến ngày nay, gọi là “Chuyển bánh xe pháp Tứ đế”, hay tứ thánh đế. Chữ “thánh” có nghĩa do bậc thánh tìm ra, và chỉ có bậc thánh mới thấy một cách trọn vẹn.
Ngài
 dạy: “Này chư Hiền, diệu đế thứ nhất là chân lý về khổ. Ai cũng muốn 
hạnh phúc, lạc thú, sum vầy, ai cũng muốn điều tốt lành, lẽ phải, sự 
trường tồn, niềm thỏa mãn, vậy mà ai cũng thấy cuộc đời chỉ đem đến cho 
ta đau khổ, buồn sầu, tan tác, điều dữ, việc gai mắt, sự bấp bênh, điều 
ngang trái. Cuộc đời là biến chuyển, mà biến chuyển không bao giờ đem 
lại sự thỏa lòng, mọi đổi thay đều đem đến ít nhiều đau khổ. 
Diệu
 đế thứ hai là nguyên nhân của khổ. Không phải cuộc đời đem lại đau khổ 
mà chính những đòi hỏi của ta từ cuộc đời đã đem lại đau khổ cho ta, 
chẳng hạn như đòi hỏi sự trẻ mãi không già, sống hoài không chết. Bởi 
thế nguyên nhân của đau khổ là dục vọng, nỗi khát khao điều mình mong 
muốn, sống theo ý riêng của mình. Vì tưởng cuộc đời có thể làm cho họ 
hạnh phúc bằng cách đem lại cho họ những gì mong muốn, con người theo 
đuổi sự thỏa mãn những ưóc mơ của mình. Nhưng này chư Hiền, không có 
ngọn lửa nào mạnh bằng lửa dục, càng được thỏa mãn lòng dục càng tăng, 
nó như một cái thùng lủng đáy. Lòng dục đòi hỏi một điều không thể có, 
ấy là một thứ trường cửu không xen lẫn khổ đau, nhưng đòi hỏi như thế 
chẳng khác nào mò trăng đáy nước. 
Này
 chư Hiền, diệu đế thứ ba là, mọi nỗi sầu đau khi được hiểu rõ đều có 
thể chữa lành. Khổ có nguyên nhân nên sẽ có sự chấm dứt khi nguyên nhân 
của nó chấm dứt. Nguyên nhân của khổ là dục vọng ích kỷ, khi dục được 
dập tắt thì tâm ở trong trạng thái tỉnh thức. Sức khỏe tâm hồn, sự lành 
mạnh ấy gọi là ái diệt, hay niết bàn. 
Diệu
 đế thứ tư là lòng tham dục vị kỷ, nguyên nhân của khổ ấy có thể được 
dập tắt bằng cách theo một con đường tám chính: chính kiến, chính tư 
duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm, 
chính định. Nếu pháp là bánh xe thì 8 chính là 8 căm xe.
Chính kiến là
 thấy cuộc đời đúng như thực chất của nó, giữa dòng thác đổi thay đang 
tuôn chảy thì tìm đâu có một chỗ bám víu bên ngoài. Biết rõ rằng hạnh 
phúc không đến từ bên ngoài, rằng mọi sự sinh ra phải bị hủy diệt. Chính
 kiến tức thấy đúng, chính kiến là khởi điểm của trí tuệ. Từ chỗ thấy 
đúng phát sinh ý chí, mong muốn, suy tư phù hợp với thực chất của cuộc 
đời. Cũng như cơn nước lũ cuốn trôi một ngôi làng ngủ say, cái chết cuốn
 trôi những người không chuẩn bị. Bởi thế hãy nhớ kỹ điều này, hãy biết 
sống trước khi quá muộn, biết sống là chỉ suy nghĩ, dự tính không hại 
mình, không hại người, không hại cả mình và người. Biết sống là chỉ suy 
tư những gì phù hợp với chân lý vô thường, vô ngã. Biết sống là quá khứ 
không truy tìm, tương lai không ước vọng, đó gọi là chính tư duy. Hai chính này tức là thấy đúng và tư duy đúng, thuộc về Tuệ.
Chính ngữ hay nói đúng, chính nghiệp hay làm đúng, chính mạng hay
 sinh nhai chân chính, đó là 3 điều phát sinh từ chính tư duy, thuộc về 
Giới. Ba điều này có nghĩa là sống thuận theo tính nhất thể của đời 
sống, không chỉ nhắm đến hạnh phúc bản thân mà còn nhắm đến an lạc cho 
tất cả.
Chính
 mạng là không làm nghề hại đến sinh mạng của người khác, loài khác. Tất
 cả đều ham sống, sợ đau khổ, bởi thế hãy xem tất cả như chính thân 
mình. Chính nghiệp là tránh những việc làm trái với lương tâm, tổn hại 
đến sự sống của muôn loài, của môi trường. 
Ba chính cuối cùng liên hệ đến tâm, đó là chính tinh tiến, chính niệm, chính định.
 Mọi sự tùy thuộc vào tâm, cuộc đời chúng ta do tâm của ta hình thành, 
chúng ta trở thành những gì do tâm ta suy nghĩ, đau khổ sẽ tiếp theo một
 tư tường xấu ác như bánh xe lăn theo con vật kéo xe, niềm vui sẽ tiếp 
theo một tư tường tốt lành như hình với bóng. Chính tinh tiến là luôn 
đào luyện bản thân về 3 phương diện, thân, lời, ý. Như cần tập thể thao 
để rèn luyện thân thể, người yêu mến niết bàn cũng phải rèn luyện tâm ý,
 chỉ nhờ nỗ lực tinh tiến không ngừng mà ta có thể đạt đến niết bàn:
“Hăng hái giữa những người biếng nhác, tỉnh thức giữa đám người ngủ mê. Hãy tiến lên như con tuấn mã bỏ xa bầy ngựa yếu hèn”
                                                                   (Pháp cú)
Chính
 niệm là đặt hết sự tỉnh thức vào một việc hiện tại trước mắt. Cái gì 
thiện, có lợi cho  mình và mọi người, đem lại an lạc dài lâu, hãy tập 
trung vào đó. Cái gì tiêu cực chủ quan, làm cho tâm dao động, thoái hóa,
 thì đừng chú ý đến nó. Sự đào luyện chính niệm, điều phục tâm để tập 
trung vào cái gì đáng tập trung, là việc hết sức gian nan. Một cái tâm 
không điều phục thường phải đau khổ và thường gây ra đau khổ. Nhưng một 
tâm khéo điều phục đem lại sức khỏe và hạnh phúc.
Chính định là phương pháp đào luyện tâm:
“Như mái nhà vụng lợp, mưa sẽ nhỏ giọt vào, dục tham sẽ lẻn vào tâm không khéo tu tập”.
                            (Pháp cú)
 
Hãy
 đào luyện tâm bằng phương pháp thiền định thì dục tham sẽ không lọt 
được vào, như mưa không lọt qua mái nhà khéo lợp. Ba chính sau cùng này 
thuộc về Định. 
Này
 chư Hiền đây là con đường mà chính ta đã đi qua, không có con đường nào
 khác để thanh lọc tâm thức. Hãy đi theo con đường ấy để chiến thắng ác 
ma, ở cuối con đường là sự chấm dứt đau khổ. Nhưng các ngươi hãy tự mình
 nỗ lực tinh tiến khi Như Lai đã chỉ rõ con đường.
Phật
 xác định rõ vai trò của Ngài: Ngài là vị lương y đã chẩn bịnh và tìm ra
 phương thuốc trừ bệnh, nhưng uống hay không còn tùy thuộc ở con bệnh. 
Nếu con bệnh không muốn nhận rằng mình có bệnh, hoặc biết mình bệnh mà 
không muốn chữa, thì đó không là lỗi lương y. Ngài là vị hướng đạo chỉ 
rõ con đường tốt cho người đi, nhưng nghe rồi bỏ qua không chịu đi thì 
không phải lỗi của người dẫn đường.
Đối
 với Phật tử chúng ta, cuộc đời cao cả của đức Thế Tôn là bài thuyết 
pháp, từ khi Ngài còn tại gia cho đến khi thành đạo và giáo hóa độ sanh,
 mỗi giai đoạn trong lịch sử đời Ngài đều là một chặng đường tỉnh thức 
để đưa đến sự giác ngộ hoàn toàn trong phút giây thành đạo. Ta có thể 
đặt tên bốn chặng đường ấy là: chặng đường thực nghiệm, chặng đường từ 
bỏ, chặng đường sáng tạo và chặng đường chuyển hóa.
 
Chặng đường thực nghiệm
Khi
 còn tại gia, thọ hưởng dục lạc, thái tứ vẫn luôn luôn sống tỉnh thức, 
có lối nhìn đầy trí tuệ và bi mẫn. Mặc dù được vua cha thương yêu, mặc 
dù sống trong cung vàng điện ngọc, mặc dù bị bủa vây giữa thế tục xa hoa
 phù phiếm, thái tử không bao giờ quên chính niệm. Chính niệm ấy khiến
Ngài
 chú ý điều đáng chú ý, dù nó rất thoáng qua, dù nó bị che khuất. Đó là 
hình ảnh con giun quằn quại dưới luống cày, là hình ảnh già bệnh chết, 
hình ảnh những vũ nữ mệt nhoài sau hậu trường.
Mặt
 trái của cuộc vui, mặt trái của cuộc đời dù được che đậy rất kỹ, vẫn 
không thoát khỏi lối nhìn sắc bén của một con người tỉnh thức. Nhờ vậy 
thái tử không bị đắm chìm trong đời sống thế tục, dù đó là sự vàng son 
của ngôi vua, hạnh phúc của tình yêu tuổi trẻ và sắc đẹp. Ta có thể gọi 
đấy là giải thoát bằng con đường thực nghiệm, nhờ một cảm quan bén nhạy 
và lối nhìn tỉnh thức. Đó là cách tu hành mà Phật dạy cho Bồ tát tại gia
 trong phẩm Tịnh Hạnh - kinh Hoa Nghiêm. Muốn tu theo cách này, cần một 
lối dụng tâm chân chính trong khi năm giác quan tiếp xúc 5 đối tượng bên
 ngoài. Tổ Huệ Năng cũng dạy: 
“Tâm sẵn có trí tuệ thanh tịnh,
chỉ cần vận dụng tâm ấy thì sẽ thành Phật”,
(Tự tánh bồ đề, bản lai thanh tịnh
Đản dụng thử tâm trực liễu thành Phật)
Ta
 hãy đọc vài đoạn cách “dụng tâm” của Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm, giải
 thoát bằng con đường thực nghiệm, bằng ngay sự việc trước mắt chứ không
 cần phải cạo đầu đi tu hay lên núi xuống hang gì cả. Điểm chính yếu 
trong cách dùng tâm này là tỉnh thức trong công việc mình đang làm, sống
 ngay với phút giây hiện tại đồng thời phát triển lòng bi mẫn và chính 
niệm. 
“Bồ tát tu tại gia hãy làm cho mọi người hiểu thấu nhà không thực, hết bị sự bức bách của nhà. 
Khi hiếu dưỡng cha mẹ, hãy nguyện cho mọi người khéo thờ phụng chư Phật, cứu giúp cả chúng sanh.
Khi sum họp gia đình, hãy nguyện cho mọi người xem ghét thương bình đẳng, để xa lìa ái luyến.
Khi thọ hưởng 5 dục, hãy nguyện cho mọi người nhổ tên độc tham dục, được hoàn toàn an vui.
Khi xem ca vũ nhạc, hãy nguyện cho mọi người lấy chính pháp làm vui, rõ múa ca giả dối. 
Khi ở trong phòng thất, hãy nguyện cho mọi người được vào nơi thánh địa, xa dục lạc nhiễm ô. 
Khi đeo chuỗi ngọc quý, hãy nguyện cho mọi người bỏ trang sức giả dối, đạt đến chỗ chân thật. 
Khi đi lên lầu cao, hãy nguyện cho mọi người lên được lầu chính pháp, thấy bao quát mọi loài.
Khi gặp tai nạn nguy, hãy nguyện cho mọi người được tự do tùy ý, đi đâu không chướng ngại.
Khi bỏ nhà ra đi, hãy nguyện cho mọi người, xuất gia không chướng ngại, tâm thường được giải thoát.
Thấy đường lên dốc cao, hãy nguyện cho mọi người được lìa cả 3 cõi, không có tâm khiếp nhược.
Khi đường đi xuống dốc, hãy nguyện cho mọi người tâm tính thường khiêm hạ, thêm lớn mãi căn lành. .
Khi gặp đường quanh co, hãy nguyện cho mọi người từ bỏ tâm bất chính, và các ác tà kiến. 
Thấy người ham vui thú, hãy nguyện cho mọi người lấy chính pháp làm vui, hoan hỉ trong chính pháp.
Thấy người không ham vui, hãy nguyện cho mọi người, tâm không bị đắm mê, trong các pháp hữu lậu.
Thấy người tướng xinh đẹp, hãy nguyện cho mọi người, đối trước Phật, Bồ tát, có lòng tin trong sạch.
Thấy người tướng xấu xí, hãy nguyện cho mọi người, đối các việc ác tà, không khởi tâm ham thíchthích.
Thấy người biết đền ơn, hãy nguyện cho mọi người đối chư Phật Bồ tát, thường biết nhớ ơn sâu.
Thấy người quên ơn nghĩa, hãy nguyện cho mọi người, đối với kẻ ác độc không giữ tâm báo thù.”
Đấy
 là con đường thực nghiệm của Bồ tát tại gia, những người tu ngay trong 
khi mắt thấy tai nghe hàng ngày, trong những cảnh thuận ý hay nghịch ý 
bằng cách đào luyện chính niệm và từ bi .
Giải
 thoát bằng con đường thực nghiệm này còn có nghĩa là nhìn mọi sự vật 
dưới ánh sáng của tuệ giác, qua đó tất cả đều là biểu hiện của pháp 
thân, dù đó là trúc tía, mai vàng, hay bùn lầy, nước đọng, ánh sáng hay 
bóng tối, mùa xuân hay mùa đông. Chỉ cần cái mỉm cười, cái gật đầu của 
ta thì mọi sự đều tốt lành theo kiểu ông già họ Tái mất ngựa. Tín tâm 
minh nói: “Chỗ chí đạo không gì khó, chỉ kỵ lọc lừa”. (Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch)
Ngôn
 ngữ thiền gọi điều này là đoạt tâm không đoạt cảnh, bỏ sự rắc rối. Mọi 
rắc rối có ra là do tâm rắc rối, bởi thế chỉ cần vô tâm hay vô niệm là 
giải quyết được tất cả. 
Chặng đường từ bỏ
Khi
 từ bỏ đời sống tại gia vào rừng tu khổ hạnh, là thái tử từ bỏ con đường
 thực nghiệm để dấn thân vào vực thẳm, vào bóng tối, vào đau khổ tự 
nguyện nhưng đồng thời vẫn tỉnh thức để thoát ra khỏi nó khi thấy nó 
không đưa đến giải thoát. Con đường này mệnh danh là sự giải thoát nhờ từ bỏ, như người tu khổ hạnh nhờ khổ hạnh mà lìa dục hoặc như nghệ sĩ bị ám bởi một thể tài nghệ thuật.
Chặng dường sáng tạo
Nhờ
 từ bỏ lối tu khổ hạnh, thái tử tiến đến trung đạo, vượt trên khổ và 
lạc, tìm thấy ánh sáng giác ngộ. Đấy gọi là giải thoát bằng con đường 
sáng tạo, như sự bừng dậy của mùa xuân sau những tháng đông băng giá, 
như ánh sáng cuối đường hầm. Sự sáng tạo nghệ thuật cũng vậy, chỉ xảy 
đến sau khi nghệ sĩ hoàn toàn quên mình, rút vào bóng tối để cho nghệ 
thuật tự hiển bày. 
Chặng đường chuyển hóa
Cuối
 cùng khi quyết định ra thuyết pháp độ sanh là đức Phật đã bước lên 
chặng đường tỉnh thức thứ tư, đem hoa trái của giác ngộ gieo rắc khắp 
mọi người không phân biệt. Đấy cũng là con đường của những chính trị gia
 thánh thiện như Gandhi, Dalai Lama thứ XIV, đấy là con đường của Moise 
khi xuống núi Sinai, của Jesus khi đến với đám đông tụ họp bên bờ sông 
Jordan. Họ là những người đã giã từ thế gian rồi trở lại thế gian, sau 
khi đã hoàn toàn chuyển hóa để phụng sự con người. 
V. KẾT LUẬN
Theo
 đại thừa giáo, cuộc đời của đức Thích Tôn từ khi đản sanh cho đến khi 
nhập niết bàn đều là thị hiện như những phương tiện độ sanh: thị hiện 
đản sanh, thị hiện thọ hưởng dục lạc, thị hiện xuất gia tu khổ hạnh, thị
 hiện thành đạo và thị hiện niết bàn. Thị hiện làm thái tử ở Ấn Độ cách 
đây 2535 năm là có không gian và thời gian, nhưng kỳ thực Ngài là đấng 
bất sanh bất diệt vượt ngoài thời không, Ngài là trung đạo, là bất nhị 
vì Ngài vượt trên tất cả qua bốn chặng đường vừa nói. Ở trong dục lạc mà
 không đắm mê dục lạc, xuất gia tu khổ hạnh nhưng không vướng mắc khổ 
hạnh, thành đạo đạt niết bàn nhưng không vướng mắc niết bàn, để cuối 
cùng trở lại giáo hóa độ sanh. Niết bàn của Ngài bấy giờ trở thành vô trú niết bàn,
 một niết bàn không có biên giới ngăn chia với sanh tử. Bởi vậy thật là 
niềm vui lớn cho những ai có đủ lòng tin theo đó Phật là đấng chân 
thường, như kinh Pháp Hoa dạy, 
chư hữu tu công đức 
nhu hòa chấp trực giả 
tất giai kiến ngã thân
tại thử nhi thuyết pháp
(Những ai dày công tu luyện, tính tình nhu hòa chất  trực, thì sẽ thấy pháp thân của ta đang còn thuyết pháp)
Sau
 đây xin mạn phép trích dẫn một lời của Thượng tọa Trí Quang để kết thúc
 bài này: “... Nhưng vô trú niết bàn là gì? Là xả bỏ phiền não mà không 
xả bỏ chúng sanh. Nên Phật thường trú, thị hiện đủ loại hình mà ích lợi 
chúng sanh. Không những thị hiện thân Phật, thị hiện thành đạo thị hiện 
niết bàn, thậm chí đến cái thân tôi tớ giúp việe Phật cũng thị hiện, và 
nói như kinh Địa Tạng, cao nguyên bình nguyên ao hồ suối giếng, không có
 gì lợi ích có tác dụng hóa độ cho chúng sanh mà Phật không thị hiện. 
Phật thị hiện đến như vậy mà ta không nhận biết, vì ta là đồ bể không 
thể chứa nước, hoặc chứa mà nước đục nước xao dộng, thì chẳng bao giờ 
thấy được hình bóng vầng trăng”.
Nguồn: quangduc.com