Nó giúp cho người xuất sĩ gắn kết với đại gia đình tâm linh, đó chính là những
Pháp lữ cùng chung lý tưởng hướng đến mục tiêu giác ngộ, giải thoát. Bởi nếu
mất đi tính truyền thông đối với gia đình tâm linh, người xuất sĩ sẽ cảm thấy
đơn độc trên lộ trình về Bảo sở mà thiếu vắng năng lượng gia trì của sức sống
Tăng-già.
Do vậy, an cư kiết hạ chính là sự gắn kết vô cùng quan trọng, được ví
như “giọt nước và dòng sông”.

Chư Tăng trong mùa an cư kiết hạ
Có một nhạc sĩ đã sáng tác ca khúc thể
hiện được tính tương tác của tinh thần đạo lý trong đời sống cộng đồng
Tăng-già: “… Xin nguyện làm dòng sông/ Không làm hạt nước nhỏ/ Trên đường về
đại dương/ Vầng trăng khuya sáng tỏ/ Xin nguyện làm dòng sông/ Không làm hạt nước
nhỏ/ Cuốn phăng trên đường đi/ Bao niềm đau nỗi khổ/ Xin nguyện làm dòng sông/
Không làm hạt nước nhỏ/ Mỗi bước con đã về/ Đây quê hương Tịnh độ”.
Thực vậy, cá nhân của từng vị xuất sĩ là
một giọt nước, còn sức sống của đoàn thể Tăng-già là một dòng sông. Có sống hòa
hợp trong cùng một hội chúng để cùng nhau tu tập tạo nên sức mạnh như một dòng
sông cuốn trôi tất cả những cấu uế đẩy ra biển lớn; nhận thức điều này rõ ràng
Phật giáo khác với các tôn giáo khác ở chỗ có thể có những giáo điều hay luật
tắc được thiết lập sẵn dựa theo quan kiến của vị giáo chủ, trong khi mọi định
chế nhằm thiết lập đời sống an vui, hòa hợp do Đức Thế Tôn chủ trương đều xuất
hiện sau khi Tăng đoàn đã được thành lập.
Đức Thế Tôn vốn là người tự mình đạt
tới giác ngộ giải thoát, sau đó đã vì lòng từ mà trao truyền trí tuệ của Ngài
cho muôn loài. Vốn không có ý định xây dựng một tôn giáo hữu thần để ngự trên
ngôi cao giáo chủ, Đức Thế Tôn hoàn toàn không có thiên kiến chủ quan trong
việc thiết lập nghi thức sinh hoạt, mà chỉ căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của
Tăng đoàn để ấn định luật cho Tăng chúng.
Rất nhiều trường hợp, chính cộng đồng
chấp nhận đời sống viễn ly của Đức Phật đã có những đóng góp cho việc xây dựng
truyền thống sinh hoạt của Tăng đoàn, trong đó truyền thống an cư là minh chứng
cụ thể nhất. Trong kho tàng kinh điển, Đức Thế Tôn cũng thường khuyến
tấn hành giả xuất gia phải luôn quán sát để tự sách tấn mình trên bước đường tu
học đạo lý giải thoát.
An cư kiết hạ trong Phật giáo do Đức Thế Tôn chế định
đã trải qua hơn 2.500 năm truyền bá và phát triển của Tăng đoàn vẫn được duy
trì bền vững. Mạng mạch của Tăng-già cũng lưu thông thuận hợp từ những hòa hợp
thanh tịnh của người xuất sĩ.
Cá nhân người Tăng sĩ cần phải hòa vào dòng sông
để tạo nên sức mạnh, cho nên Đức Thế Tôn chế định pháp An cư như là một trong
những pháp nối kết truyền thông trong tinh thần xây dựng tình Pháp lữ, mà có
thể do công việc Phật sự người xuất sĩ có cuộc sống riêng lẻ như giọt nước thì
mùa An cư chính là một cơ hội hòa vào dòng sông Phật giáo đang tuôn chảy ra đại
dương để tạo nên sức sống của Tăng-già, cuốn trôi bao dị biệt của từng cá nhân,
tưới tẩm hạt giống đoàn kết, hòa hợp, thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của Phật
giáo Việt Nam là “Hoằng pháp lợi sanh, báo Phật ân đức” trước bao biến chuyển không
ngừng của thời đại.