Bảo tháp Thái Lăng là công trình phức tạp về hoa văn
nhưng lại rất đơn giản về kết cấu. Ngoài những công trình như Bảo tháp
Thái Lăng chúng ta có thể áp dụng công nghệ 3D để phục dựng lại các công
trình kiến trúc gỗ với độ chính xác cho từng cấu kiện.
Trong
khoảng một thập niên trở lại đây, khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành
khai quật và nghiên cứu nhiều công trình kiến trúc quy mô lớn, với nhiều
lớp kiến trúc chồng xếp, cắt phá nhau hết sức phức tạp, trong số đó có
rất nhiều di tích vốn là các tự viện lớn của hoàng gia như chùa Dạm,
chùa Phật Tích (Bắc Ninh), Quỳnh Lâm, Yên Tử (Quảng Ninh), Phương Nhi
(Nam Định),v.v... Kết quả khai quật, nghiên cứu khảo cổ tại các di tích
này đã phát hiện và phân lập hàng loạt mặt bằng kiến trúc cùng các di
vật, qua đó phần nào hình dung quy mô và diện mạo kiến trúc xưa. Bài
viết này giới thiệu quy trình, phương pháp ứng dụng công nghệ 3D vào
việc phục dựng một công trình kiến trúc cổ thông qua trường hợp nghiên
cứu phục dựng kiến trúc Bảo tháp tại Thái Lăng.
II. Công nghệ 3D với việc phục dựng kiến trúc cổ
Trên
thế giới, việc nghiên cứu phục dựng phế tích kiến trúc cổ bằng công
nghệ 3D dựa trên kết quả nghiên cứu khảo cổ học đã được thực hiện khá
phổ biến, nó cho thấy hiệu quả to lớn của phương pháp này mang lại.
Chính vì thế hầu hết các di tích lớn, nổi tiếng thế giới như: Đấu trường
La - Mã; Quảng trường La - Mã; Cấu trúc lăng tẩm hay các công trình
kiến trúc kỳ vĩ của nền văn minh Ai Cập cổ đại đều đã ứng dụng công nghệ
này. Ở Đông Nam Á và Đông Á cũng đã có nhiều công trình ứng dụng công
nghệ 3D.
Mặc
dù có nhiều ý nghĩa quan trọng và tiện ích lớn nhưng việc phục dựng các
di tích khảo cổ nói chung, di tích khảo cổ học kiến trúc nói riêng bằng
công nghệ 3D chưa được áp dụng nhiều ở Việt Nam.
Hiện
nay một vài hình ảnh 3D kinh thành Thăng Long – Hà Nội do nhóm 3D Hà
Nội thực hiện được sử dụng và chia sẻ rất phổ biến trên mạng internet.
Nhóm 3D Hà Nội đã bước đầu phác dựng hình ảnh tổng thể kinh thành Thăng
Long thời Lý, Trần thế kỷ 12-13 và Thành cổ Hà Nội thế kỷ 19. Tuy nhiên
cần lưu ý thêm rằng, đó hoàn toàn không phải là phục dựng, các hình ảnh
3D đó chỉ là hình ảnh mô phỏng, thiếu những nền tảng khoa học và cứ liệu
đầu vào cơ bản.
Hình
ảnh 3D một số công trình kiến trúc tiêu biểu của kinh thành Huế là kết
quả hợp tác giữa Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế với Viện Công nghệ
cao Hàn Quốc (KAiST); Dự án “Xây dựng
ngân hàng cơ sở dữ liệu số về di tích và công tác bảo tồn di tích ở
Việt Nam” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang tổ chức thực hiện là
việc tổ chức scan các di tích kiến trúc hiện còn bằng máy scan 3D, xây
dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị
của di tích. Đó hoàn toàn không phải là phục dựng di tích bằng 3D.
Trung
tâm Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có một
số thử nghiệm và đã đạt được một số kết quả đáng kể, trong đó phải kể
đến kết quả nghiên cứu phục dựng kiến trúc thời Lý tại Khu E phục vụ
công tác nghiên cứu và giới thiệu tại Phòng trưng bày “Những khám phá
khảo cổ học dưới lòng đất nhà Quốc Hội”, có thể nói đó là công trình
được phục dựng 3D trên cơ sở kết quả khai quật tốt nhất tính đến thời
điểm này.
Điểm qua tình hình nghiên cứu, phục dựng di
tích bằng công nghệ 3D trong nước và trên thế giới có thể thấy, trên
thế giới công nghệ 3D đã được áp dụng khá phổ biến trong lĩnh vực nghiên
cứu, phục dựng công trình trên cơ sở kết quả khảo cổ học và đem lại
nhiều lợi ích cho việc nghiên cứu, phục dựng, giới thiệu và quảng bá di
tích, tuy nhiên ở trong nước công việc này cũng chỉ mới là những bước đi
khởi đầu.
III. Phương pháp phục dựng
Kết
quả nghiên cứu khảo cổ học là cơ sở quan trọng để tiến hành phục dựng
mặt bằng tổng thể nói chung cũng như mặt bằng chi tiết của công trình
trên bản vẽ 2D. Các bản vẽ hiện trường tỉ lệ 1/20 được scan và hiệu
chỉnh đảm bảo độ chính xác và đồ lại bằng chương trình AutoCAD với tỉ lệ
1/20, sau đó chuyển về tỉ lệ 1/1 để tiện lợi cho quá trình phục dựng,
giảm bớt khâu tính toán, điều chỉnh tỉ lệ và giảm tối đa sai số.
Bước thứ nhất: Phục dựng mặt bằng trên cơ sở các dấu vết khảo cổ được phát hiện.
Trong
quá trình phục dựng mặt bằng tổng thể nói chung, phục dựng mặt bằng một
công trình cụ thể nói riêng và đặc biệt là phục dựng các cấu kiện cụ
thể cần chú ý rằng, dấu vết được khảo cổ học làm xuất lộ thường chỉ là
phần còn lại của di tích, nó không hoàn toàn phản ánh chính xác 100%
hiện trạng ban đầu của công trình, nhất là về kích thước.
Bước thứ hai: Kiến
trúc cổ truyền nói chung, kiến trúc thời Trần nói riêng phần lớn là các
kiến trúc có hệ đỡ bằng khung cột, do đó sau khi xác định các vật liệu,
phục dựng phần nền móng và toàn bộ mặt bằng xác định cấu trúc hệ khung
cột.
Bước thứ ba: Xác định thành phần, cấu trúc bộ mái.
Bước thứ tư: Thực hiện các bản vẽ phục dựng 2D bằng chương trình AutoCAD.
Bước thứ năm: Phục dựng công trình bằng chương trình 3D như 3D Max, Sket up, v.v...
IV. Phục dựng Bảo tháp tại Thái Lăng
IV.1. Dấu vết Bảo tháp ở Thái Lăng
Thái
Lăng là lăng của vua Trần Anh Tông và phụ táng Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng
Thái hậu. Vua Trần Anh Tông là vị vua thứ 4 của nhà Trần tên húy là
Trần Thuyên, con trai của vua Trần Nhân Tông, ông sinh ngày 17 tháng
Chín năm Bính Tí (1276), năm mười bảy tuổi (1293) được vua cha truyền
ngôi, ở ngôi 21 năm, làm Thái Thượng hoàng 6 năm. Ngày 16 tháng Ba năm
Canh Thân (1320) băng tại Cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường, thọ 47
tuổi.
Thuận
Thánh Bảo từ Hoàng Thái hậu (?-1330) là con gái trưởng của Hưng Nhượng
vương Trần Quốc Tảng, tức là cháu gái nội của Hưng Đạo đại vương Trần
Quốc Tuấn. Ngày 3 tháng Hai năm Nhâm Thìn (1292) hoàng tử Thuyên được
lập làm Đông cung Hoàng thái tử (sau này là vua Trần Anh Tông), cùng
ngày bà kết hôn cùng Đông cung Thái tử, được sách phong là Hoàng thái tử
phi. Năm 1293 Hoàng thái tử Thuyên lên ngôi hoàng đế,
xưng là Anh Hoàng, bà được phong là Thánh Bà phu nhân; Mùa xuân năm
1309 bà được sách phong làm Thuận Thánh hoàng hậu. Năm 1314, sau khi lên
ngôi hoàng đế, vua Trần Minh Tông đã tôn Thuận Thánh hoàng hậu là Thuận
Thánh Bảo Từ Thái Thượng hoàng hậu. Tháng Mười hai năm 1320 vua Trần
Anh Tông được táng vào Thái Lăng, từ đó Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng Thái
hậu cũng rời cung Trùng Quang (phủ Thiên Trường - Nam Định) chuyển về An
Sinh, lập am Mộc Cảo gần Thái Lăng để vừa tu hành vừa trông nom lăng
tẩm của vua Trần Anh Tông, bà ở đây suốt 10 năm, sống cuộc sống giản dị
của người tu hành khổ hạnh và trông nom, săn sóc lăng tẩm của vua Trần
Anh Tông. Tháng Bảy năm Canh Ngọ (1330) bà băng tại am Mộc Cảo và được
táng vào Thái Lăng cùng vua Trần Anh Tông. Như vậy, Thái Lăng là lăng
của vua Trần Anh Tông và phụ táng hoàng hậu của ông là Thuận Thánh Bảo
Từ Hoàng Thái hậu.
Vua
Trần Anh Tông là vị vua có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của Phật giáo Trúc Lâm. Nếu đức vua Trần Nhân Tông là người khai
mở Thiền phái Trúc Lâm thì đệ nhị tổ Pháp Loa là người đưa Trúc Lâm phát
triển đến đỉnh cao, song có thể khẳng định, thật khó có những thành quả
đó nếu không có sự hỗ trợ của vua Trần Anh Tông. Năm 1317, khi đệ nhị
tổ mở Quỳnh Lâm viện và xây dựng Quỳnh Lâm là trung tâm đào tạo tăng tài
lớn nhất lúc bấy giờ của Thiền phái Trúc Lâm, vua Anh Tông là người đã
hỗ trợ rất nhiều, năm 1319, đích thân vua và các cung nữ của ông đã
trích máu viết 20 hộp kinh đại tạng để lưu giữ tại Quỳnh Lâm. Nhìn vào
sự phát triển của Trúc Lâm nửa đầu thế kỷ XiV, ta thấy rất rõ vị trí và
vai trò của vua Anh Tông, cũng chính bởi vậy, các sử gia nho học sau này
đã phê phán vua Anh Tông là đã quá “ưu ái” Phật giáo.
Năm
2008, các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu tích nền móng và các cấu kiện
của một tòa tháp bằng đất nung phủ men tại khu vực phía sau chính tẩm
của Thái Lăng. Các nhà khảo cổ ký hiệu dấu vết này là Tp19. Dấu vết còn lại của Bảo tháp gồm các cấu kiện tháp bằng đất nung, gia cố móng tháp, sân tháp và chân cây hương.
Phần
sân đã bị phá hủy gần như toàn bộ do các móng trụ của kiến trúc giai
đoạn sau cắt phá vào, những dấu vết còn lại cho thấy sân được lát bằng
gạch bìa và gạch vuông, nền sân được đầm chặt bằng sỏi son (BA39. 2),
dấu vết gạch lát còn lại cộng với phạm vi gia cố nền sân cho thấy phần
sân tháp có kích thước dài Đông - Tây 8m, rộng Bắc - Nam 6m và nằm trên
trục chính tâm hướng Bắc - Nam toàn bộ khu lăng.
Các cấu kiện tháp tìm được ở nhiều vị trí khác nhau trong khu di tích, các cấu kiện bao gồm các bộ phận của tháp như: đế, bệ, thân, mái và chóp tháp.
Đế
tháp: Đế tháp cao trung bình từ 20-22cm, trang trí văn “thủy ba sóng
nước” với hai nhịp cao thấp đan xen nhau, ngoài phủ men vàng đậm sắc.
Bệ
tháp: Bệ tháp gồm nhiều lớp với các họa tiết trang trí khác nhau, ngoài
phủ men vàng đậm sắc. Trong đó có các trang trí chủ đạo gồm văn cúc
dây, văn sóng nước kết hợp với các lá đề lệch trang trí rồng ở các phạm
vi cột giả. Trên cùng là phần bệ sen, bệ sen gồm hai phần chính, phần
trên gồm hai lớp cánh sen hướng lên trên, trong lòng cánh sen trang trí
văn cúc dây với 3 bông uốn lượn, phần dưới là các cánh sen hướng đầu
xuống dưới, các cánh này có kích cỡ nhỏ hơn, trong lòng trang trí hoa
cúc dây.
Cấu kiện của các tầng tháp: Cấu kiện của các tầng
tháp bao gồm phần cột, tường, vòm cửa, cửa mái và các trang trí trên
mái. Các cấu kiện tìm được cho thấy nó thuộc 3 nhóm kích thước khác
nhau, mỗi nhóm kích thước này có thể tương ứng với một tầng của tháp.
Các cấu kiện của các tầng được trang trí tương đối đồng nhất với nhau.
Cột để trơn, tường trang trí hình rồng cuộn tròn trong một đường tròn
nội tiếp hình vuông, vòm cửa trang trí rồng uốn lượn trong lòng lá đề
lệch, mô-típ trang trí vòm cửa của tháp Chương Sơn (Nam Định), xung
quanh tầng một được bao quanh bởi lan can con tiện rất đẹp, lan can con
tiện phủ men xanh.
Phần
mái trang trí cầu kỳ hơn, nâng đỡ bộ mái là hệ thống các đấu củng, phía
dưới các đấu củng góc trang trí tượng linh thú hay nữ thần đầu người
mình chim (Kinarin), các đầu xà được trang trí hình đầu rồng, khoảng
trống giữa các đấu củng trang trí hình lá đề cân; tàu mái
trang trí hình rồng nối đuôi nhau chầu về lá đề cân ở chính giữa. Mái
lợp bằng ngói ống men xanh lục, đầu ngói trang trí hình rồng uốn tròn
nội tiếp trong lòng đầu ngói, trên lưng gắn lá đề cân, trong lòng lá đề
cân trang trí đôi rồng vờn cầu lửa; bò mái có trang trí các lá đề lệch
hình rồng hai mặt. Toàn bộ phần trên của mái được phủ men xanh lục, phía
dưới là men vàng đậm sắc. Chóp tháp hình bình cam lộ bên ngoài phủ men
vàng.
Với
những dấu vết còn lại của di tích và các loại hình di vật thu được tại
khu vực này, chúng tôi phác dựng lại tòa tháp tại đây. Theo đó, tháp có
mặt bằng hình vuông, một tầng đế, bệ, ba tầng thân và chóp tháp.
Đế
gồm hai phần, phần dưới được xếp bằng gạch bìa, phần này cao khoảng
0,60m, phần thứ hai là phần đế có trang trí thủy ba sóng nước được đúc
sẵn bằng đất nung có phủ men như đã mô tả ở phần trên cao trung bình 0,20m, rộng 1,40m.
Như vậy, tổng chiều cao của phần đế khoảng 0,80m.
Bệ
cao 60cm, rộng 120cm; tầng thứ nhất cao tổng cộng 107,7cm, trong đó
phần thân tường cho đến tàu mái cao 75cm, phần từ tàu mái lên đến chân
tường tầng thứ hai cao 32,5cm; tầng thứ cao tổng cộng 97cm, trong đó
phần thân tường cho đến tàu mái cao 64,5cm, phần từ tàu mái lên đến chân
tường tầng thứ ba cao 32,5cm; tầng thứ ba cao tổng cộng 84cm, trong đó
phần thân tường cho đến tàu mái cao 50cm, phần từ tàu mái lên đến chân
chóp tháp cao 34cm. Chóp tháp cao tổng cộng 30cm. Như vậy, tổng chiều
cao của tháp là 338,7cm bao gồm cả phần đế xếp gạch.
Dựa
vào di tích, di vật còn lại đã xác định được cấu trúc của từng bộ phận,
kích thước của các cấu kiện, từ đó tiến hành vẽ phục dựng các cấu
V. Tạm kết
Qua
kết quả nghiên cứu thực nghiệm phục dựng Bảo tháp Thái Lăng bằng công
nghệ 3D, chúng tôi đề xuất cơ sở lý thuyết của việc phục dựng các công
trình kiến trúc cổ trên cơ sở kết quả nghiên cứu khảo cổ với năm bước
tiến hành. Tuy nhiên cần khẳng định thêm rằng để có kết quả phục dựng
tiệm cận nhất với thực tế thì tất cả các bước đều quan trọng, song bước
thu thập tư liệu (bước một) trên hiện trường là bước quan trọng nhất vì
nó quyết định việc luận giải và đưa ra những giả định để tiến hành các
bước tiếp theo, nó đóng vai trò như cơ sở dữ liệu đầu vào cho toàn bộ
quá trình nghiên cứu sau đó.
Tính
chân xác của công trình phục dựng bị chi phối bởi khả năng nắm bắt và
chuyển thể các họa tiết của người dựng 3D, đối với lĩnh vực này, đòi hỏi
người dựng không chỉ có trình độ và kỹ năng về 3D mà còn cần có một nền
tảng lịch sử mỹ thuật cũng như lịch sử văn hóa để có thể phối hợp được và hiểu được nhà khảo cổ trong suốt quá trình dựng lại công trình.
Bảo
tháp Thái Lăng là công trình phức tạp về hoa văn nhưng lại rất đơn giản
về kết cấu. Ngoài những công trình như Bảo tháp Thái Lăng chúng ta có
thể áp dụng công nghệ 3D để phục dựng lại các công trình kiến trúc gỗ
với độ chính xác cho từng cấu kiện. Với những ưu thế đó của 3D, hoàn
toàn có thể áp dụng phục dựng các công trình kiến trúc Phật giáo trước
khi tiến hành phục dựng trên thực tế, làm như vậy sẽ truyền tải đến công
chúng, các phật tử một cách nhanh chóng, thuận tiện và ấn tượng về các
giá trị lịch sử, văn hóa của công trình, đồng thời giảm chi phí và những
sai lầm trong quá trình phục dựng di tích trên thực
ThS. Nguyễn Văn Anh
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số tháng 9/2017
------------------------------------------------------------
Bài
viết là nội dung Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở: “Phục dựng kiến trúc Thái
lăng (lăng vua Trần Anh Tông) bằng công nghệ 3D trên cơ sở kết quả
nghiên cứu Khảo cổ học”, mã số CS2016-03 do ThS Nguyễn Văn Anh làm Chủ
nhiệm.